Phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô (3)

Phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô (2 – 3)

Tác giả: 

 Vũ Văn An

II. Phương pháp ba điểm của Đức Phanxicô

Linh mục James V. Schall, Dòng Tên, chú ý tới phương pháp ba điểm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong các bài huấn giáo của ngài, mà rõ ràng nhất là trong bài nói chuyện của ngài với Đại Hội Giảng Viên Giáo Lý Quốc Tế năm 2013 tại Rôma, mà chúng ta đã trích dẫn trên đây.

 

Cha Schall đồng ý với Đức Phanxicô ở điểm phương pháp của các tu sĩ Dòng Tên xưa là luôn chia bài nói chuyện của họ làm ba phần. Và theo cha, gần như nói gì, Đức Phanxicô cũng chia làm ba phần. Bài nói chuyện với Đại Hội Giảng Viên Giáo Lý thế giới cũng thế.

 

Phần đầu, ngài nói tới việc khởi đầu từ Chúa Kitô là phải gần gũi với Người, ở lại trong tình yêu của Người, học hỏi nơi Người, để Người ngắm ta, không cần nói. Để Người sưởi ấm cõi lòng ta. Không có hơi ấm của Người, kẻ tội lỗi như ta làm sao sưởi ấm lòng người khác?

 

Phần thứ hai, ngài nói tới việc mô phỏng Chúa Kitô, ra khỏi con người mình và gặp gỡ người khác. Vì Thiên Chúa luôn cho đi. Ta tiếp nhận nhưng không hồng ân đức tin, đến lượt ta, ta phải cho người khác hồng ân đức tin ấy. Như trái tim con người đập theo hai nhịp tâm thu (systolic) và tâm trương (diastolic) thế nào, trái tim giảng viên giáo lý cũng thế, đập theo hai nhịp cùng một lúc: lấy Chúa làm trung tâm và ra đi gặp gỡ người khác.

 

Phần thứ ba, ngài đề cập tới việc ra các khu ngoại biên, ra khỏi vùng thoải mái của mình, một việc thường gây sợ sệt. Nhưng giảng viên giáo lý không sợ, vì Chúa luôn ở đó trước chúng ta. Dù trong bất cứ hoàn cảnh tan nát cõi lòng nào, đáng thất vọng bao nhiêu, Chúa cũng vẫn ở đó trước ta! Chúa chờ ta ở đó, dù chỉ là để dạy một em bé làm dấu thánh giá.

 

Jared Dees cũng lưu ý tới phương pháp ba điểm của Đức Phanxicô trong các bài giảng và diễn văn của ngài: ngài chú trọng tới 3 chữ, 3 vấn đề hay 3 ý tưởng, một phương pháp mà theo ông, mọi thầy cô, mọi giảng viên giáo lý và các nhà truyền thông đều có thể sử dụng.

 

Ông đưa ra rất nhiều điển hình. Thứ nhất, ngay trong bài giảng đầu tiên với các vị Hồng Y ngày được bầu, ngài đã chú trọng tới 3 chữ: hành trình, tuyên xưng và xây dựng.

 

Ba chữ trong Ánh Sáng Đức Tin

 

Cũng 3 chữ trên đã xuất hiện như một điệp khúc trong thông điệp đầu tiên của ngài, đó là thông điệpÁnh Sáng Đức Tin (Lumen Fidei): hành trình, tuyên xưng, xây dựng.

 

Hành Trình

 

Trong tất cả các chủ đề được lặp đi lặp lại trong các trước tác và diễn văn của Đức Phanxicô, ý tưởng hành trình là nổi hơn cả. Thí dụ, trong bài nói chuyện với các giám mục Ba Tây tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới, ngài nói tới câu truyện hai môn đệ trên đường Emmau và khuyến khích các nhà lãnh đạo Giáo Hội hãy cùng bước đi với người khác trong hành trình của họ: “Ta cần một Giáo Hội có khả năng bước đi cạnh người ta, biết làm nhiều hơn là chỉ lắng nghe họ; một Giáo Hội đồng hành với họ trong cuộc hành trình của họ…”.

 

Trong Ánh Sáng Đức Tin (ASĐT), ngài sử dụng hình ảnh hành trình để giải thích lý do tại sao ta cần tới ánh sáng đức tin. Ánh sáng này giúp ta thấy đường đi phía trước. Không có đức tin, ta đi trong bóng tối. “Những ai tin, đều thấy; họ thấy bằng ánh sáng chiếu rọi trọn cuộc hành trình của họ, vì ánh sáng này phát xuất từ Chúa Kitô sống lại, là sao mai không hề bao giờ lặn” (ASĐT, số 1).

 

Theo Đức Phanxicô, đức tin không còn được người ta coi như ánh sáng cho cuộc hành trình mà như việc thiếu ánh ánh sáng, những bước nhẩy của ánh sáng do xúc cảm mù quáng và ý kiến chủ quan hướng dẫn. Trong Ánh Sáng Đức Tin, mục đích của ngài là phục hồi ánh sáng trở lại với cái hiểu đúng đắn của nó trong cuộc hành trình của ta, nếu không, đối với những người không hướng về ánh sáng đức tin, cuộc hành trình sẽ rất khó khăn.

 

"Thiếu ánh sáng, mọi sự trở nên mù mờ; ta không thể phân biệt được tốt và xấu, hay con đường dẫn tới đích và những con đường đưa ta đi luẩn quẩn bất tận, không đi tới đâu" (ASĐT số 3).

 

Thay vào đó, đức tin cung cấp cho ta một viễn kiến. Giúp ta nhìn thấy:

 

"Thị giác cung cấp viễn kiến cho khắp hành trình và giúp định vị hành trình trong kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa; không có viễn kiến này, ta chỉ còn lại những phần không nối kết với nhau của một toàn bộ không ai biết đến" (ASĐT số 29).

 

"Đức tin không phải là thứ ánh sáng tản mạn khắp trong đêm tối của ta, mà là ngọn đèn hướng dẫn bước ta đi trong đêm đen và đủ cho cuộc hành trình" (ASĐT số 56).

 

Tuyên xưng

 

Trong chương 3 của Ánh Sáng Đức Tin, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho ta cái nhìn tóm lược về Kinh Tin Kính, lời tuyên xưng đức tin của ta, và các khía cạnh khác của đức tin ta. Ngài sử dụng 4 phần trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo để trình bày một cái hiểu nền tảng về kinh tin kính, các bí tích, việc cầu nguyện và luân lý. Trong chương này, ngài cũng đề cập tới bốn đặc điểm của Giáo Hội, được dùng kết thúc Kinh Tin Kính Nixêa.

 

Chính trong phần này, ngài tập chú vào chữ thứ hai, tức tuyên xưng. Ngài đưa ra một nhận định đáng lưu ý về việc tuyên xưng đức tin, qua hai điểm chủ yếu: 1) khi tuyên xưng đức tin, ta làm nhiều hơn là chỉ thuận theo các tín lý và 2) tuyên xưng đức tin thay đổi ta vì nó giúp ta bước vào mầu nhiệm được ta tuyên xưng.

 

Đặc biệt, khi viết về kinh tin kính, ngài nói:

 

"Kinh tin kính không những bao hàm việc ta nhất trí với một bộ chân lý trừu tượng; đúng hơn, khi ta đọc nó, toàn bộ đời ta được cuốn hút vào một mầu nhiệm hướng tới việc hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa hằng sống. Ta có thể nói được rằng trong kinh tin kính, các tín hữu được mời gọi bước vào mầu nhiệm được họ tuyên xưng và được nó biến đổi.

 

"Tín hữu tuyên xưng đức tin của mình được hội nhập, có thể nói như thế, vào sự thật đang được tuyên xưng. Họ thực sự không thể đọc lời lẽ của kinh tin kính mà lại không được thay đổi…" (ASĐT số 45).

 

Ta được thay đổi, vì ta tham dự vào lịch sử lâu dài của việc hợp nhất với Thiên Chúa. Ta đáp lại hồng ân yêu thương của Thiên Chúa một cách thích đáng, theo cung cách được Giáo Hội truyền lại.

 

Đức tin là điều được nghe. Nó được người khác truyền lại và chia sẻ với ta, và do đó, ta cũng tuyên xưng đức tin thành lời, để người khác nghe thấy.

 

"Lời của Chúa Kitô, một khi được nghe thấy, do chính sức mạnh bên trong của nó làm việc trong tâm hồn Kitô hữu, sẽ trở thành một đáp trả, một lời được nói lên, một tuyên xưng đức tin. Như Thánh Phaolô từng nói 'ta tin trong lòng… và tuyên xưng ngoài miệng' (Rm 10:10). Đức tin không phải là việc tư riêng, một ý niệm hoàn toàn có tính cá nhân chủ nghĩa hay một ý kiến cá nhân: nó phát xuất từ việc nghe, và nó muốn được phát biểu thành lời và được tuyên xưng" (ASĐT số 22).

 

Xây dựng

 

Phần lớn người Công Giáo sống tại các nước nói tiếng Anh quen thuộc với bài thánh ca nổi tiếng “Let Us Build the City of God” (Ta Hãy Xây Dựng Thánh Thánh Thiên Chúa). Đây chính là chủ đề được Đức Phanxicô tập chú ở chương chót của Ánh Sáng Đức Tin.

 

"Đức tin không chỉ được trình bày như một cuộc hành trình, mà còn như một diễn trình xây dựng, chuẩn bị một nơi để con người nhân bản có thể cư ngụ với nhau" (ASĐT số 50).

 

Trọng điểm của ngài là gì? Đức tin là một thiện ích chung cho toàn thể nhân loại, không riêng cho người Kitô hữu như thể họ tách biệt với thế giới. Đức tin là một hồng phúc nhận được, được tuyên xưng và chia sẻ với người khác. Đức Thánh Cha viết:

 

"Đức tin thực sự là một thiện ích đối với mọi người; nó là thiện ích chung. Ánh sáng của nó không chỉ chiếu rõi nội thất Giáo Hội, cũng không phục vụ duy một việc xây dựng thành thánh vĩnh cửu ở đời sau; nó còn giúp ta xây dựng các xã hội của ta một cách giúp chúng cùng hành trình hướng về một tương lai đầy hy vọng" (ASĐT số 51).

 

Đức tin giúp ta nhận ra phẩm giá người khác, thấy họ như một chúc phúc:

 

"Đức tin dạy ta nhận ra mọi người nam nữ đều tượng trưng cho một phúc lành đối với tôi, ánh sáng nhan thánh Thiên Chúa chiếu rõi trên tôi qua gương mặt anh chị em tôi.

 

"Biết bao ơn phúc đã được cái nhìn của đức tin Kitô Giáo mang tới cho kinh thành con người vì cuộc sống chung của họ! Nhờ đức tin, ta tiến tới chỗ hiểu được phẩm giá độc đáo của từng người, một điều ít khi được nhận rõ ở thời thượng cổ" (ASĐT số 54).

 

Ba chữ trong các bài nói nổi tiếng của Đức Phanxicô

 

Ngoài ra, Jared Dees còn liệt kê 3 chữ hay 3 ý tưởng chủ yếu của Đức Phanxicô trong nhiều bài nói chuyện khác:

 

1) Chúa Nhật Hiện Xuống năm 2013: Mới mẻ, Hoà Hợp, Sứ Mệnh.

 

2) Thánh Lễ Bế Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2013: Ra đi, Đừng Sợ Hãi, Phục Vụ.

 

3) Bài giảng về đề phòng ma quỉ: 3 tiêu chuẩn:


* Chúa Giêsu đánh ma quỉ.
* Ai không đi với Chúa Giêsu là chống lại Người.
* Tỉnh táo canh giữ tâm hồn ta vì ma quỉ rất tinh quái

 

4) Diễn văn với tuổi trẻ Giáo Phận Piacenza: đẹp, tốt, thực (mỹ, thiện, chân).

 

5) Diễn văn với các học sinh Dòng Tên: cao thượng, tự do, và phục vụ.

 

Và gần đây nhất, theo tin Đài Phát Thanh Vatican ngày 22 tháng Ba năm 2015, khi đọc kinh Truyền Tin với tín hữu tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, Đức Phanxicô khuyên tín hữu phải phát biểu đức tin bằng hành động qua 3 điểm:

 

* Luôn nhớ sứ điệp Tin Mừng (Tin Mừng);
* Luôn nhớ hình ảnh Chúa chịu đóng đinh (Tượng Chịu Nạn);
* Luôn nhớ phải làm chứng cho đức tin (Chứng Tá)

 

Cách dùng ba chữ trong các bài giáo lý

 

Jared Dees trình bầy một số gợi ý giúp các giảng viên giáo lý theo gương Đức Phanxicô tổ chức bài dạy quanh 3 chữ, 3 ý tưởng hay 3 chủ đề.

 

1.Mục tiêu bài học: Không nên có hơn ba mục tiêu cho một bài dạy. Lý tưởng là ba mục tiêu này xây dựng trên nhau. Ba mục tiêu này có thể là ôn tập, hiểu rõ bài học, suy nghĩ có phê phán. Mỗi lãnh vực nên có một mục tiêu.

 

2. Cho biết trước cách tổ chức bài học: Khi giới thiệu bài học, làm ba việc sau đây: cho các em biết đã học gì, sẽ học gì, và tổ chức nội dung sẽ học ra sao.

 

3. Trình bày nội dung bài học: bám vào 3 chữ, 3 câu hỏi hay 3 ý tưởng của bài.

 

4. Phát tờ rời: có thể trao cho các phụ huynh một tờ giấy với 3 câu hỏi để phụ huynh hỏi các em trên đường từ trường về nhà.

 

5. Luật ở lớp: Chỉ nên ra 3 qui luật cho các em trong lớp, càng giản giện càng hay.

 

Xin xem thêm tại http://www.thereligionteacher.com

(còn tiếp)

 

Phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô (3)

Vũ Van An

III. Nói gì cũng dựa vào Sách Giáo Lý

Đức Phanxicô, trong bài phỏng vấn của tạp chí America, cho biết rõ: “Trong chuyến bay từ Rio de Janeiro trở về, tôi nói rằng nếu một người đồng tính có thiện chí và đi tìm Thiên Chúa, thì tôi là ai mà dám phê phán họ. Nói như thế là tôi chỉ nói điều Sách Giáo Lý dạy”. 

Để chứng minh cho câu nói của ngài, ký giả Tom Hoopes đi tìm nhiều nhận định khác của Đức Phanxicô, từng gây bối rối cho nhiều người, xem thực sự câu nói của ngài có giá trị hay không. 

1. Tự do của người ta

“Mỗi người chúng ta có viễn kiến riêng về tốt hoặc cả xấu nữa. Chúng ta phải khuyến khích họ hướng tới điều họ cho là tốt”.

Câu trên được coi là dịch đúng lời nói của Đức Phanxicô không như trong tường trình của tờ La Republica rằng “mọi người đều có ý niệm riêng của mình về tốt xấu và phải chọn theo điều tốt và bỏ điều xấu theo quan niệm của mình”. 

Điều trên nghe có vẻ duy tương đối… Nhưng thực ra, tự do căn để của con người và niềm tín thác rằng Thiên Chúa sẽ hướng dẫn nó, là điểm chủ chốt trong mục 6 phần ba của Sách Giáo Lý, nói về lương tâm luân lý. Đoạn chủ yếu là:

Đoạn 1778: Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm, đang làm hay đã làm, là tốt hay xấu. Trong lời nói và hành động, con người phải trung thành tuân theo điều mình biết là chính đáng và ngay lành. 

2. Đoàn chiên vô ngộ? 

“Và mọi tín hữu, xét như một toàn thể, đều vô ngộ trong các vấn đề thuộc đức tin, và họ bày tỏ tính infallibilitas in credendo này, tức tính vô ngộ trong khi tin, qua một cảm thức (sense) siêu nhiên của đức tin nơi mọi tín hữu cùng bước đi với nhau”. 

Ngài nói như thế trong cuộc phỏng vấn của tờ America. Nếu rà trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo ta sẽ thấy đoạn này;

Đoạn 889: Ðể gìn giữ đức tin tinh tuyền do các tông đồ truyền lại, Chúa Ki-tô muốn cho Hội Thánh Người tham dự vào sự bất khả ngộ của chính Người, vì Người là Chân lý. Nhờ "cảm thức siêu nhiên về đức tin", Dân Thiên Chúa "gắn bó không sai lầm với đức tin" dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền sống động của Hội Thánh (LG 12; DV 10).

Chính Đức Bênêđíctô XVI, trong bài nói chuyện với Ủy Ban Thần Học Quốc tế ngày 7-12-2012, cũng nhắc lại giáo huấn của Vatican II trongLumen Gentium (số 12) rằng “toàn bộ tín hữu… không thể sai lầm trong các vấn đề đức tin”. 

3. Hãy tuyên xưng Chúa Giêsu, chứ đừng tuyên xưng “những qui luật hẹp hòi”

“Giáo Hội đôi khi tự khóa mình vào những điều nhỏ mọn, những qui luật hẹp hòi. Điều quan trọng hơn cả là tuyên xưng thứ nhất: Chúa Giêsu Kitô đã cứu vớt bạn. Và các thừa tác viên của Giáo Hội, trên hết, phải là các thừa tác viên của lòng từ bi”.

Câu cuối cùng trên đây gần như là một tuyên ngôn về sứ vụ của Đức Phanxicô, và việc ngài nhấn mạnh tới lòng từ bi vốn gây ngỡ ngàng cho một số người. Họ sợ rằng lòng từ bi, trên thực tế, sẽ trở thành sự “dửng dưng đối với tội lỗi”. Đây là cuộc tranh luận từng diễn ra từ thời người anh cả của Đứa Con Hoang Đàng tới cuộc tranh cãi chung quanh việc Đức Gioan Phaolô II tiếp đón ông Kurt Waldheim, Tổng Thống Áo mới đây.

Nhưng Đức Phanxicô hoàn toàn đúng khi quả quyết ở đây rằng, Giáo Hội có nhiệm vụ tuyên xưng Chúa Giêsu trên hết mọi sự, chứ không bao giờ tuyên xưng luật lệ trên Chúa Giêsu. Cả tiết nói về phúc âm hóa trong Sách Giáo Lý giúp ta hiểu rõ việc này. Chỉ xin trích dẫn một số câu đầu của các đoạn: 

• Đoạn 425: Truyền đạt đức tin Ki-tô giáo, trước tiên là loan báo Ðức Giê-su Ki-tô, để dẫn đưa mọi người đến chỗ tin vào Người… 

• Đoạn 426: Trọng tâm của huấn giáo là một Con Người, con người của Ðức Giê-su Na-da-rét, Con Một của Chúa Cha 

• Đoạn 427: Trong huấn giáo, ta giảng dạy về Ðức Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể và Con Thiên Chúa; tất cả những điều khác được giảng dạy quy chiếu về Người

• Đoạn 428: Người nào được mời gọi "giảng dạy về Ðức Ki-tô" trước hết phải tìm "mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Ki-tô"; phải "mất hết. .. để được Ðức Ki-tô và được kết hợp với Người"…

• Đoạn 429: Việc nhận biết Ðức Ki-tô và tâm tình yêu mến sẽ khơi dậy nơi chúng ta khát vọng loan báo về Người, phúc âm hóa và giúp mọi người tin vào Ðức Giê-su Ki-tô…

Thực ra Đức Bênêđíctô XVI cũng không nói khác: “chúng ta đừng để đức tin của ta bị khô cạn bởi quá nhiều thảo luận liên miên, về những chi tiết vụn vặt, nhưng đúng hơn, luôn để mắt trước nhất tới sự cao cả của Kitô Giáo.

“Tôi còn nhớ, hồi còn năng trở lại Đức trong hai thập niên 1980 và 1990, tôi thường được yêu cầu phỏng vấn và tôi luôn biết trước các câu hỏi. Họ thường hay hỏi về phong chức phụ nữ, ngừa thai, phá thai và những vấn đề cứ lặp đi lặp lại hoài.

“Nếu ta để mình bị lôi kéo vào các cuộc thảo luận này, thì Giáo Hội sẽ đồng hóa với một số giới răn hay cấm cản; ta cho người ta cảm tưởng ta là các nhà mô phạm luân lý với những xác tín đôi chút lỗi thời, không một chút gợi ý nào cho thấy sự cao cả thực sự của đức tin. Bởi thế, tôi luôn cho là điều chủ yếu việc ta làm nổi bật sự cao cả của đức tin ta, một cam kết mà ta không được để cho các tình thế kia làm sao lãng”

4. Tình yêu, chứ không vụ luật pháp

“Nếu Kitô hữu là người duy phục chế, hay duy luật pháp, nếu họ muốn điều gì cũng sáng sủa và an toàn, thì họ sẽ không tìm thấy điều gì cả. Truyền thống và tưởng nhớ quá khứ phải giúp ta có can đảm mở ra các khu vực mới cho Thiên Chúa. Ngày nay, những ai luôn đi tìm các giải pháp kỷ luật, những ai mong mỏi sự ‘an toàn’ tín lý quá đáng, những ai ương ngạnh cứ nhất định cố gắng phục chế một quá khứ vốn không còn nữa, là đã duy trì một tầm nhìn tĩnh tụ và hướng nội nhiều quá. Với cái nhìn ấy, đức tin trở thành một ý thức hệ giữa nhiều ý thức hệ khác”. 

Bác bỏ ý thức hệ, kể cả ý thức hệ tôn giáo, hiện là một giáo huấn quan trọng nữa của Đức Phanxicô. Và đó là một giáo huấn cực kỳ quan trọng đối với thời đại ta, một thời đại chuyên biến mọi sự thành ý thức hệ. Đây cũng là một bài học của Sách Giáo Lý. 

Đoạn 1972: Luật mới được gọi là luật yêu thương vì dạy ta hành động theo tình yêu mà Thánh Thần thông ban cho, hơn là vì sợ hãi. Luật mới được gọi là luật ân sủng, vì nhờ đức tin và các bí tích, chúng ta nhận được sức mạnh của ân sủng để hành động. Luật mới là luật tự do (x. Gcb 1,25; 2,12) vì giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc về nghi thức và pháp lý cũ, giúp chúng ta hành động theo sự thôi thúc của đức mến, và sau hết nâng chúng ta từ tình trạng tôi tớ "không biết việc chủ làm", lên bậc bạn hữu của Ðức Ki-tô "vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy thì Thầy đã tỏ cho anh em biết" (Ga 15,15) và còn biến anh em thành con thừa tự nữa (x. Gl 4,1-7. 21-31; Rm 8,15). 

5. Một Giáo Hội có thể thay đổi?

“Việc con người tự hiểu về chính mình thay đổi với thời gian, và do đó, ý thức nhân bản cũng được thâm hậu hóa. Ta hãy nghĩ về thời điểm khi chế độ nô lệ được chấp nhận hay án tử hình được cho phép một cách không thắc mắc. Do đó, chúng ta đã phát triển trong việc hiểu chân lý. Các nhà chú giải và các nhà thần học giúp Giáo Hội trưởng thành trong các phán đoán của mình. Ngay các khoa học khác và việc chúng phát triển cũng giúp Giáo Hội trong việc trưởng thành về hiểu biết của mình. Có những luật lệ và giới răn của Giáo Hội trước đây hữu hiệu, nhưng nay chúng đã mất giá trị hay ý nghĩa”. 

Lời lẽ trên đây của Đức Phanxicô có thể bị coi như lời chỉ trích đối với các tín điều, nhưng thực ra chúng nói lên các biểu thức chính dòng của niềm tin Công Giáo về sự phát triển học lý Kitô Giáo. Như chính Sách Giáo Lý quả quyết:

Đoạn 94: Nhờ Thánh Thần trợ giúp, sự hiểu biết về các thực tại và các lời thuộc kho tàng đức tin có thể tăng trưởng trong đời sống Hội Thánh: 

-"Nhờ suy niệm và học hỏi của những tín hữu hằng gẫm suy trong lòng những thực tại và lời nói ấy" (DV 8); đặc biệt "việc nghiên cứu thần học giúp đào sâu hiểu biết về chân lý mặc khải" ( x. GS 62, 7; x. 44, 2; DV 23, 24; UR 4 );

-"Nhờ sự hiểu biết nội tâm mà các tín hữu cảm nhận được những điều thiêng liêng" (DV 8); "Lời Chúa lớn lên cùng với người đọc" ( Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giảng về Ed 1, 7, 8);

-"Nhờ lời rao giảng của các vị trong hàng Giám Mục đã nhận được đặc sủng chắc chắn về chân lý " ( DV 8).

Pin It

Gửi phản hồi