Suy niệm CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm B

Suy niệm CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm B

Lời Chúa: Cv 9,26-31; 1Ga 3,18-24; Ga 15,1-8

MỤC LỤC

1. Cây nho. 2

2. Ở trong Chúa. 4

3. Cây nho. 6

4. Sinh nhiều hoa trái – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 8

5. Cây nho – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 11

6. Ai đổi đời ai – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.. 15

7. Xin hiệp nhất chúng con nên một 19

8. Sống thân mật với Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc. 22

9. Sự sống trong Chúa Kitô – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 24

10. Kết hợp và sinh trái – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 27

11. Ở lại trong Thầy. 31

12. Xây dựng Giáo Hội – Jean-Yves Garneau. 34

13. Như cành liền cây. 37

14. Thoái hoá làm mất phẩm chất – Lm Tạ Duy Tuyền. 41

15. Cây nho và nhánh. 44

16. Anh em hãy lưu lại trong tôi 47

17. Cây nho. 50

18. Cây nho. 52

19. Kitô hữu công chức. 55

20. Sống liên đới. 57

21. Yêu thương. 60

22. Cây nho thật – Lm. FX. Vũ Phan Long. 63

23. Chú giải của Noel Quesson. 70

24. Tại sao cành phải liền thân?. 76

 

 

1. Cây nho

Đối với người Do Thái thì cây nho là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi, giống như hình ảnh cành tre khóm trúc đối với người Việt Nam. Thế nhưng Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh cây nho?

 

Tôi xin thưa: Qua hình ảnh cây nho, Ngài cho chúng ta biết rằng Ngài chính là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài đến không phải chỉ để trông nom chăm sóc vườn nho, mà hơn thế nữa, còn để trở thành chính cây nho, hầu có thể trực tiếp thông ban sự sống của mình cho chúng ta; như thân cây nuôi ngành cây bằng nhựa sống của nó. Từ hình ảnh trên, chúng ta thấy được hai ý nghĩa nổi bật.

 

Ý nghĩa thứ nhất: Thiên Chúa là người trồng nho, còn chúng ta là những cây nho. Thế nhưng kể từ nay giữa chúng ta và Thiên Chúa, còn có một trung gian đó là Đức Kitô. Và như chúng ta đã biết: Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, có nghĩa là Ngài cũng đã trở thành một cây nho, một cây nho hảo hạng, một cây nho giống tốt để tạo nên một vườn nho mới. Nói cách khác, Đức Kitô là một con người mới, là một Adong mới hầu tạo nên cho Thiên Chúa một nhân loại mới, theo đúng hình ảnh của Ngài.

 

Ý nghĩa thứ hai đó là một sự trao đổi kỳ lạ, được thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể. Đúng thế, với mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được bước lên ngôi Thiên Chúa. Ngài đã trở thành cây nho, để chia sẻ cho chúng ta, những cành nho của Ngài, chính nhựa sống thần linh. Kể từ nay, mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, không phải chỉ là mối liên hệ cứng nhắc giữa Đấng hoá công và loài người thụ tạo, nhưng là một liên hệ thân thương, gần gũi và gắn bó mật thiết như cành liền cây hiệp thông cùng một nhựa sống, đến nỗi chúng ta có thể nói: Thiên Chúa ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Thiên Chúa. Hay: Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.

 

Một khi đã hiệp thông trong cùng một nhựa sống, thì chúng ta cũng phải chia sẻ những khổ đau với Ngài. Thực vậy, nếu thân cây bị chặt thì những cành lá cũng phải chết theo. Và một khi chồi mới mọc lên thì những cành lá mới cũng ló dạng. Là Kitô hữu, đời sống của chúng ta từ nay không thể tách rời Đức Kitô. Do đó, những khổ đau của Ngài cũng phải là những khổ đau của chúng ta và sự chết của Ngài cũng phải là sự chết của chúng ta, để rồi sự phục sinh của Ngài cũng phải là sự phục sinh của chúng ta. Như lời thánh Phaolô xác quyết: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị.

 

Đó cũng chính là ý nghĩa của việc cắt tỉa mà Chúa Giêsu đã nói đến, để cho cành cây sinh nhiều trái hơn. Cành nho càng được cắt tỉa thì lại càng mang nhiều trái. Cũng vậy, đời sống người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng chịu nhiều gian nan thử thách, thì lại càng nhiều ơn phúc trước mặt Thiên Chúa hơn.

 

 

2. Ở trong Chúa.

Đoạn Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy về mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và những kẻ theo Ngài. Đây là một mối quan hệ mật thiết đến độ cả hai trở nên như một, vì mang cùng một sức sống. Mối quan hệ này đã được Chúa Giêsu diễn tả bằng hình ảnh cây nho và ngành nho như lời Ngài đã phán: Thầy là cây nho các con là ngành nho. Từ hình ảnh này chúng ta rút ra được mấy điểm suy nghĩ.

 

Điểm thứ nhất đó là Chúa Giêsu và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống: Các con hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Người Kitô hữu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó chúng ta được thanh tẩy trong cái chết, chết cho tội lỗi và trong sự sống lại với cuộc sống mới của Ngài. Người Kitô hữu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, còn có nghĩa là được nắm giữ một vai trò sống động trong chương trình cứu độ của Chúa. Như thế mối quan hệ này được đặt nền tảng trên sự trung tín và thương yêu.

 

Điểm thứ hai được Chúa Giêsu nhấn mạnh, đó là ngành nho phải sinh trái. Một ngành nho không sinh trái, mặc dù vẫn còn dính vào thân cây nho, thì cũng chỉ là một ngành nho đã chết, và một ngày kia sẽ bị cắt tỉa mà quẳng vào lửa.

 

Hình ảnh này có thể đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, bởi vì đâu cần phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan nguội lạnh hay phạm những tội tầy đình mới bị cắt ra khỏi cộng đoàn của Chúa. Không sinh trái, đã có nghĩa là không còn ở trong Chúa, không còn liền thân với Chúa. Như vậy sức sống từ Chúa trao ban chỉ có thể là sức sống, chỉ có thể là động lực làm sinh hoa kết trái. Và do đó, chỉ có hai trạng thái: sinh trái hay không sinh trái mà thôi, chứ chẳng có trạng thái thứ ba, được hiểu theo nghĩa là cầm hơi, cầm chừng.

Người Kitô hữu trở thành môn đệ Chúa bằng chính việc sinh nhiều trái chứ không phải bằng lời nói hay những nghi thức nào khác. Nhưng thế nào là sinh trái? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong bài đọc thứ hai, trích thư của thánh Gioan tông đồ: Ai giữ các giới răn của Chúa thì ở trong Ngài và Ngài ở trong họ. Và đây là giới răn của Chúa: Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Ngài là Đức Kitô, và phải thương yêu nhau. Vẫn theo thánh Gioan thì chúng ta đừng yêu nhau bằng lời nói và miệng lưỡng, nhưng bằng việc làm và chân thật.

 

Như thế chúng ta có thể hiểu được rằng sinh trái có nghĩa là yêu thương, và yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem lại hạnh phúc cho người khác.

 

Trái nho chính là những hành động bác ái yêu thương, thế nhưng chúng ta đã thực sự là những ngành nho sinh nhiều trái hay chưa?

 

3. Cây nho.

Bất cứ ai sống trên đời cũng đều có quan hệ không nhiều thì ít với những người chung quanh, nhất là những người có cùng một máu mủ với mình. Mối quan hệ đó càng khắng khít bao nhiêu là tùy thuộc vào sự hiệp thông có mật thiết hay không.

 

Cuộc sống đấy ắp yêu thương chỉ có thể tồn tại khi con người đặt tình thương yêu cào tất cả các mối quan hệ, giao tiếp và thông hiệp với nhau trong tình người với người, hơn nữa trong tình anh em ruột thịt.

 

Ngoài những mối giây liên hệ giao tiếp bình thường như những người khác, người Kitô hữu còn có dây liên hệ với Thiên Chúa là Cha mình và với Hội Thánh cùng các chi thể của Ngài. Mối dây liên hệ này có được sẽ làm phong phú thêm những giá trị vốn có trong cuộc đời.

 

Hình ảnh cây nho và hoa trái ngon ngọt của nó, mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay đã từng được xem là biểu tượng của mối dây liên kết và hiệp thông, đồng thời cũng được xem là kết quả của những con người tin vào Đức Kitô Phục sinh. Thực vậy, cây nho và vườn nho trước tiên đã được áp dụng cho dân Do Thái để chỉ lòng yêu thương và việc Thiên Chúa kén chọn dân tộc này trong chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa đã vun trồng và chở che vườn nho ấy.

 

Hình ảnh vườn nho và cây nho sau này được thánh Gioan mở rộng đến tất cả những kẻ tin theo Chúa. Hơn thế nữa, còn cho thấy chính Đức Kitô là cây nho thật và mỗi người trong chúng ta là một cành nho của cây nho ấy.

 

Với mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người đã trở nên cây nho thật, một cây nho tốt, để tạo nên một vườn nho mới, một dân tộc mới, một sức sống mới cho con người đã từng mang mầm mống của tội lỗi và diệt vong.

 

Do đó, niềm vui mừng và hy vọng lớn lao nhất của con người chính là được thông hiệp với Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Ngài đã trở thành cây nho và chúng ta là những cành lá của cây nho ấy. Điều đó có nghĩa chúng ta là những chi thể của Ngài và được mang lấy chính sự sống thần linh của Ngài. Với mầu nhiệm nhập thể, chúng ta còn thấy: Thiên Chúa làm người là để cho con người được trở nên Thiên Chúa và có sự sống viên mãn nhờ Đức Kitô. Muốn có được sự sống mới ấy, chúng ta phải thực thi tình yêu thương và phục vụ như Đức Kitô bằng những hành động và việc làm cụ thể.

 

Ngoài ra, để có một cuộc sống mới thật phong phú và sinh hoa kết trái dồi dào thì ngay từ giờ chúng ta cần phải hy sinh quên mình, giống như cành nho nào được cắt tỉa, thì đó chính là cành nho có nhiều hoa trái hơn cả.

 

Cuộc sống của người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng hiệp thông với các chi thể khác của Ngài, trong đó có những người anh em bất hạnh và khổ đau, đòi hỏi nhiều hy sinh, thì cuộc sống của người Kitô hữu ấy càng phong phú và nhiều hy vọng hơn cả. Bởi vì, nếu ta chết với Đức Kitô, thì chúng ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, thì chúng ta sẽ cùng Người hiển trị.

 

4. Sinh nhiều hoa trái – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Ai trồng cây cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, cũng phải lắm công phu. Không phải cứ xanh tốt lớn mạnh là có quả. Có những ruộng lúa xanh tốt, nhưng chỉ tốt lá, nên chỉ cho những bông lúa lép. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến mùa chẳng thấy quả nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng là thất bại. Cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Được điều phụ mất điều chính, đó là thất bại. Đức Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:

 

Điều kiện thứ nhất: Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.

 

Điều kiện thứ hai: Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.

 

Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của ta. Đời sống của ta được sánh ví như đời sống của cây nho.

 

Cũng như người trồng nho muốn cho vườn nho của mình không bị tàn lụi, nhưng phát triển, sinh hoa kết quả, Đức Chúa Cha đã tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi, nhưng để con người phát triển, sinh hoa kết quả và tồn tại.

 

Để được phát triển, con người cũng cần những điều kiện.

Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

 

Điều kiện thứ hai: Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm ra. Cũng thế, linh hồn phải để Chúa cắt tỉa nhưng gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhuờng. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mãi dũa ta bằng những nghi kỵ hiểu lầm của người khác. Chúa đào tạo ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.

Chính Đức Giêsu đã làm gương cho ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.

 

Lạy Đức Giêsu là Cây Nho Thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-   Còn những gì trong bạn ngăn cản bạn kết hiệp với Chúa?

2-   Trong bạn còn những gì phải cắt tỉa?

3-   Bạn có sẵn sàng để Chúa cắt tỉa không

4-   Những thất bại, những đau khổ bạn gặp phải có ích gì cho bạn không?

 

5. Cây nho – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tôi thường ghé thăm và đưa ruớc Mình Thánh Chúa cho bà cụ Agnes Miller. Bà Agnes đã trên 80 tuổi, có hai người con trai. Mỗi lần ghé thăm, bà đều rất vui và kể truyện về người con trai, hai đứa cháu và hai đứa chắt nhỏ. Một lần nọ, tôi ngồi tỉ tê hỏi han kỹ hơn về gia cảnh của bà. Bà đã kể cho tôi nghe một tâm sự bất hạnh thầm kín trong lòng kéo dài từ lâu. Truyện là đứa con thứ hai, sau khi cưới vợ đã đổi dời đi nơi xa và đã 35 năm không hề liên lạc gì với bà. Hiện nay bà không biết hoàn cảnh gia đình người con thứ này thế nào. Bà nói rằng bà vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho các con được mọi sự lành bình an. Ba mươi lăm năm là một khoảng thời gian rất dài trong cô đơn và nhung nhớ. Bà rất hy vọng được gặp mặt con lần cuối trước khi lìa trần. Càng mong, càng ngóng, bà càng bặt tin con. Thật là đau lòng khi con cái tự tách lìa khỏi gia đình. Bà tự hỏi không biết rõ lý do nào đã đưa dẫn đến tình trạng xa cách này.

 

Hôm nay chúng ta suy niệm một đề tài rất cụ thể liên đới giữa Chúa Giêsu và các tín hữu, Chúa là cây nho thật. Hình ảnh cây nho rất quen thuộc được trồng mọi nơi trên miền đất Palestine của người Do-thái. Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: Thầy là cây nho, các con là nhành. Chúng ta là nhành nho được liên kết với Chúa Kitô là cây nho. Một ẩn dụ qúa đẹp và ý nghĩa. Chúa Giêsu không chỉ hóa thân làm người trong một nhân vị riêng biệt, nhưng là cùng hòa nhập sự sống với nhân loại. Chúa Giêsu là trung gian của các tạo vật. Ngài là trưởng tử. Ngài là:An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22,13). Ngài đã mời gọi và liên kết những kẻ tin vào Ngài để giúp họ sinh nhiều hoa trái.

 

Chúa Giêsu phán: Không có Thầy, các con không thể làm được gì. Giống như cành nho không liên kết với thân nho sẽ bị èo uột và khô héo. Không có một kinh sư, sư phụ hay một vị đại nhân nào dám lên tiếng một cách xác tín như Chúa Giêsu. Chúa có uy quyền trong tư tưởng, lời nói và hành động. Chúng ta không chỉ tuyên xưng niềm tin vào Chúa, nhưng điều quan trọng là sống và thực hành lời Chúa dậy: Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Và còn hơn nữa, Chúa Giêsu còn cho chúng ta được sáp nhập vào gia đình thiêng liêng của Chúa. Khi Chúa Giêsu đã giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12, 49-50).

 

Đôi khi chúng ta hãnh diện và an lòng khi được mang danh Kitô hữu. Nghĩ rằng khi được lãnh nhận các Bí Tích nhập đạo là chúng ta có chứng chỉ để vào Nước Trời. Thực ra, đây mới chỉ là khởi đầu hành trình tiến về Nước Trời. Con đường theo Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh và quyết tâm. Chúng ta đã nhập đạo, tin đạo, sống đạo nhưng còn phải hành đạo nữa. Không phải cứ thưa: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu. Sống kết hợp với Chúa, tìm nguồn ân sủng qua việc nhận lãnh các bí tích, cử hành phụng vụ và các sinh hoạt cộng đòan dân Chúa. Phải thực hành giới răn và áp dụng lời Chúa truyền dạy trong đời sống cụ thể hằng ngày, nhờ đó, nhành nho mới sinh ra hoa trái.

 

Chúa ban ân sủng dồi dào cho chúng ta, nhưng điều kiện tiên quyết là chúng ta phải xứng đáng và sẵn sàng mở lòng đón nhận. Chúng ta nghĩ thế nào khi cả một cuộc đời dài sống trên trần thế, một người nào đó tách lìa khỏi nhiệm thể Chúa Kitô, bỏ bê luật Chúa, sống đạo lơ đễnh nhếc nhác, không tuân giữ giới răn, không chu toàn bổn phận người Kitô hữu, không hành đạo và không tu tâm tích đức. Khi đến giờ hấp hối sau cùng, người thân mời linh mục đến ban bí tích Xức Dầu, chúng ta không biết cành nho này có còn dính liền với cây nho để nhận nhựa sống ân sủng không? Chúng ta chỉ biết cậy vào danh Chúa nhân từ cho linh hồn người thân được hưởng ơn cứu độ.

 

Các Bí Tích là qùa tặng ân sủng cao quý cho ai biết đón nhận. Chúa Giêsu hiện diện qua các Bí Tích để ban ơn thánh sủng. Chúa không thể cứu độ chúng ta, nếu chúng ta nói ‘không’. Sự chuẩn bị tâm hồn tỉnh thức với lòng thống hối ăn năn và ước ao được kết hợp với Chúa sẽ giúp chúng ta đón nhận ân sủng của Người cách hiệu quả. Hình ảnh dàn nho cho chúng ta thấy một sự liên kết kỳ diệu qua tất cả các nhành, lá, hoa và chùm trái. Mọi thành phần chi thể phải gắn chặt với thân cây để hưởng nhờ nguồn sống. Tách rời khỏi thân, nhành lá sẽ bị khô héo liền. Sống trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng thế, mọi thành viên phải luôn liên kết với đầu và mình là Chúa Kitô và Giáo Hội. Khi chúng ta tách lìa khỏi gia đình Giáo Hội, chúng ta tự tách lìa ra khỏi nguồn ân sủng siêu nhiên.

 

Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Chúa Giêsu lập Giáo Hội và trao quyền cai quản cho thánh Phêrô và các tông đồ. Theo truyền thống, Giáo Hội Công Giáo gắn bó một cách chặt chẽ với Đầu qua truyền thống của các giáo phụ và các Công Đồng Chung suốt những thế kỷ qua. Nhưng trải dài qua lịch sử, có nhiều thành phần đã tách lìa ra khỏi truyền thống tổ chức giáo hội hữu hình. Tuy các ngành, giáo phái hay nhóm hội không tuân phục Giáo Hội trong một hệ thống phẩm trật, nhưng các giáo phái vẫn liên kết với Chúa Kitô là đầu. Giáo Hội Công Giáo luôn có những cuộc liên kết đối thoại với các anh chị em cùng niềm tin trong Chúa Kitô. Chúng ta nhìn Giáo Hội như một cây cổ thụ to lớn có rất nhiều nhành và nhiều nhánh. Ước mong sao các nhành luôn kết hợp được với nguồn cội là Chúa Kitô để cùng được chia sẻ nguồn ân sủng từ Thiên Chúa Cha.

Một thoáng nhìn trong Giáo Hội, mỗi giáo hội địa phương cũng có một vài những khác biệt trong tổ chức và điều hành. Tuy rằng chúng ta có nhiều dị biệt trong cuộc sống nhưng trong niềm tin:Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 4-6). Sự đoàn kết và hợp nhất trong một Chúa sẽ mang lại niềm an vui và hạnh phúc. Mọi sự đều qui về Chúa Kitô là trung tâm điểm của mọi tạo vật, chúng ta sẽ tìm được ý nghĩa đích thực của niềm tin Kitô giáo.

 

Thực hành gia đạo trong đời sống gia đình cũng giống như sự liên kết của cây nho. Cây nho có gốc, có thân, có cành và hoa trái. Các cành kết hợp với gốc thân như con cái cháu chắt qui về ông bà cha mẹ sẽ tạo niềm vui chung và hạnh phúc. Con cái cháu chắt cùng mang một họ tộc hoặc cùng hòa chung trong một dòng máu, người ta gọi là gia đình. Giây ràng buộc của gia đình xây dựng sự tương quan chia sẻ như vui buồn, thành công thất bại và lo lắng muộn phiền. Sự liên đới giữa các thành viên trong gia đình họ tộc giúp san sẻ niềm vui hạnh phúc cuộc sống. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta có gia đình, anh chị em và con cháu cùng vui vầy xum họp. Gia đình là đơn vị căn bản của giáo hội và xã hội. Có nhiều gia đình sống thánh thì giáo hội nên thánh thiện và xã hội sẽ tốt lành.

 

Lạy Chúa, Chúa phán rằng: Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin và sẽ được. Chúng con xin ơn hiệp nhất và bình an. Xin cho chúng con biết tôn trọng và gắn bó với nhau trong đời sống đạo, vì chúng con đều là anh chị em trong cùng một niềm tin và cùng tôn thờ một Cha trên trời. Nhờ đó, chúng con sẽ sinh hoa kết trái yêu thương trong cuộc sống hằng ngày.

 

6. Ai đổi đời ai – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh trên đường đi Damas đã đổi đời Phaolô. Từ một người nhiệt thành với truyền thống tổ tiên, làm Phaolô hăm hở đi bắt các Kitô hữu về “trị tội”, trở thành một tông đồ hăng say làm chứng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh làm Phaolô và các Kitô hữu trở thành những con người khác, như dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương con người.

 

I. Phaolô làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh

Trước khi ngã ngựa trên đường Damas, Phaolô là một người rất đặc biệt. Ngài là một biệt phái, nghĩa là, một người rất nhiệt thành với lề luật Do Thái, và sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ lề luật. Phaolô đã từng là người giữ áo cho những người ném đá thánh Têphanô. Phaolô đã được phép của các người cầm quyền để đi lùng bắt các Kitô hữu Do Thái đem về Yêrusalem để trị tội. “Có lúc, những người bắt bớ các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa” (Ga.16, 2). Nhưng với biến cố Damas, Phaolô đã trở thành con người khác.

 

Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, với Phaolô, Do Thái giáo là tôn giáo duy nhất đúng. Tất cả những gì trái với quan niệm truyền thống cha ông để lại, là sai lầm và phải loại bỏ. Những ai cố tình đi theo một niềm tin khác, phải bị trừng phạt. Đó là lý do tại sao Phaolô đi lùng bắt Kitô hữu ở Damas. Sau biến cố Damas, Phaolô đã thay đổi cái nhìn và thay đổi lập trường sống. Do Thái giáo vẫn đúng đó, nhưng “cái khác” vẫn có thể là sự thật. Đức Giêsu Phục Sinh là một thực tại mà Phaolô đã được gặp gỡ, cảm nghiệm, và rồi trở thành chứng nhân cho Ngài. Phaolô được ơn mở mắt để nhìn ra thực tại Đức Giêsu Phục Sinh; qua biến cố ngã ngựa, ông không thể phủ nhận được điều trước đó ông đã một mực chối từ, ông đã nhận ra sự thật, và kể từ đó Phaolô đã rao giảng cho dù bị ghét và bị tìm giết.

 

Đức Giêsu Phục Sinh đã đổi đời Phaolô. Từ một người không tin vào Đức Giêsu, Phaolô trở thành chứng nhân nhiệt thành của Đức Giêsu Phục Sinh. Từ một người lùng bắt người khác, giờ đây lại là kẻ bị lùng bắt. Biến cố gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trên đường đi Damas đã làm Phaolô thành một người hoàn toàn khác, đến độ ngài nói: “kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân bón. Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi” (Pl.3, 8-9). Phaolô đã được Thiên Chúa biến đổi qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh.

 

II. Đời sống của một người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh

Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, Kitô hữu được nhắn nhủ: “chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. Đức tin phải chi phối cách sống của Kitô hữu. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Đức tin của Kitô hữu không chỉ là chấp nhận một mệnh đề là đúng, nhưng còn là cái biết chi phối toàn bộ đời sống của họ. Chính việc làm của Kitô hữu giúp cho người khác thấy đức tin của họ.

 

Lời Chúa trong thư của thánh Gioan hôm nay còn cho Kitô hữu hiểu hơn nữa về Thiên Chúa và về con người. Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa; nhưng nếu lòng chúng ta cáo tội chúng ta, thì chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết mọi sự. Thiên Chúa nhân từ và yêu thương chúng ta hơn chúng ta có thể tưởng được. “Như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt xa tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Đừng bao giờ ép Thiên Chúa phải phạt người khác theo phán đoán của mình. Thiên Chúa không phạt ai cả, Ngài chỉ biết yêu thôi. Đau khổ là do con người làm cho nhau hoặc tự chuốc lấy cho mình mà thôi.

 

Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời mà con người không thể hiểu thấu. Ngài nhân từ yêu thương con người hơn con người có thể nghĩ có thể ngờ. Ngài yêu thương con người ngay khi con người còn là tội nhân, xấu xa hư hỏng. Không ai có thể ngờ Ngài đã cho Đức Giêsu phục sinh. Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa có thể chấp nhận để con người giết Con Ngài. Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người đến độ Lời của Ngài nhập thể làm người, ngay cả khi con người đang phản bội và xa lánh Ngài. Thiên Chúa nhập thể là điều vượt sức hiểu của con người, và vượt ngay cả sức hiểu biết của thiên thần. Thiên Chúa là Đấng vượt quá lòng chúng ta có thể ngờ, và bây giờ Ngài vẫn đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu và tuyệt vời cho mỗi người chúng ta, trong đời mỗi người chúng ta.

 

III. Thầy là cây nho các con là nhành

Tương quan giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và chúng ta, được Tin Mừng theo thánh Gioan diễn tả như tương quan giữa người trồng nho, cây nho và nhành nho. Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là nhành. Một nhành chỉ sống được và sinh hoa trái nếu nhành đó liên kết với thân cây, để lấy nhựa sống từ cây. Giữa chúng ta và Đức Giêsu, có một mối dây rất gần gũi và mật thiết, như nhành và cây. Nhành nào tách khỏi cây, sẽ khô héo và chết. Tương tự vậy, chúng ta sẽ khô héo và chết nếu chúng ta không liên kết với Đức Giêsu. Đức Giêsu là sức sống của mỗi người chúng ta.

 

Thiên Chúa như người chủ vườn nho. Ngài chăm sóc cây nho và nhành nho. Ngài muốn cây nho nhành nho sinh nhiều hoa trái. Ngài chăm bón cắt tỉa, để nhành nho sinh trái nhiều hơn. Hình ảnh Thiên Chúa như người chủ vườn rất quen thuộc đối với Đức Giêsu. Người chủ vườn trông nom, chăm bón vun trồng để cây nho nhành nho sinh trái. Thiên Chúa chăm sóc mỗi người chúng ta như vậy. Nếu Ngài có cắt tỉa, là để chúng ta sinh nhiều hoa trái hơn.

 

Tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa như tương quan giữa cây nho và ông chủ vườn. Cây nho luôn tùy thuộc chủ vườn. Người chủ vườn luôn quan tâm và chăm bón để cây nho có nhựa sống cung cấp cho nhành cây, để sinh nhiều hoa trái. Đây là hình ảnh, nó chỉ diễn tả phần nào sự thật. Thiên Chúa luôn có sáng kiến tuyệt vời, để làm những điều kỳ diệu, và ngay cả có thể làm cho những cành nho như thể khô đét có được sức sống và sinh trái. Thiên Chúa là người chủ vườn tuyệt vời. Thiên Chúa làm chúng ta có sức sống và sinh trái qua Đức Giêsu.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1.    Đức Giêsu là ai đối với Phaolô?

2.    Sau khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, đời sống Phaolô có gì khác?

3.    Bạn nghĩ sao khi đọc câu: “Thầy là cây nho, các con là nhành”? Bạn có cảm được sự thân mật và gần gũi giữa Đức Giêsu và bạn không? Nếu được, xin bạn diễn tả.

 

7. Xin hiệp nhất chúng con nên một

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

Nhớ hồi tôi còn học ở Đai Chủng Viện, vào những ngày Tuần Thánh, Cha Linh Hướng thường khuyên chúng tôi trong giờ suy niệm Lời Chúa (Lectio Divina) mỗi ngày, nên đọc Phúc Âm theo Thánh Gioan, các Chương 13, 14, 15, 16 và 17. Trong đời sống Linh Mục, vào những ngày Tuần Thánh, dù rất bận rộn, nhưng chúng tôi vẫn dành thời giờ để đọc và suy gẫm những đoạn Thánh Kinh rất cảm động và rất quan trọng này. Hơn nữa, trong bầu khí thánh thiêng của Tuần Thánh, khi đọc những đoạn Thánh Kinh này, tâm hồn càng thêm thấm thía những Lời Chúa nhắn nhủ.

 

Đây là những đoạn Thánh Gioan đã ghi lại những lời ‘trối trăn’ tâm huyết Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ vào những giờ phút cuối cùng  cuộc đời trần thế của Chúa, trong bữa Tiệc Ly, cũng là bữa ăn ‘Tình thương’ (Agape).

 

Đặc biệt, Chúa Giêsu nêu lên tình yêu hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, và kêu gọi cũng như cầu xin cho các Tông Đồ luôn biết sống kết hiệp nên một với Chúa, và hiệp nhất với nhau trong tình yêu Chúa.

 

Để nhấn mạnh sự quan trọng của tinh thần yêu thương và hiệp nhất với Chúa và với nhau, vào cuối Chương 17, trong lời cầu xin với Chúa Cha, bốn lần Chúa Giêsu đã xin để tất cả được “Hiệp Nhất Nên Một!” (Ut Sint Unum! – That They Be ONE!) (Ga 17, 11, 21, 22, 23). Nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ cầu nguyện cho các Tông Đồ thân tín của Chúa được hiệp nhất nên một, mà còn cầu xin cho mọi tín hữu luôn biết đồng tâm hiệp nhất với Chúa và với nhau (Ga 17, 20-22).

 

Để cụ thể hóa, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh Cây Nho, là loại cây rất phổ thông tại Do Thái, và đã được nhắc đến nhiều lần trong Thánh Kinh Cựu Ước (trong sách Tiên Tri Isaia, Gieremia, Egiekien, Hosea và Thánh Vịnh), cũng như Tân Ước.

 

Đoạn Phúc Âm hôm nay (Ga 15,1-8) nhắc đến hình ảnh và lời mời gọi của Chúa Giêsu với các Tông Đồ và mọi người tín hữu chúng ta: Thày là Cây Nho, chúng con là ngành nho… Như những ngành nho chỉ sinh hoa kết trái nếu gắn liền với thân cây nho, thì chúng ta cũng chỉ có thể là môn đệ đích thực của Chúa , và ‘sinh nhiều hoa trái’ nếu chúng ta biết sống hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau trong tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

Khi Chúa Giêsu đã về trời, và sau khi đã được ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa (Cv. 2, 1-4), các Tông Đồ theo lời Chúa dạy, đã đi rao giảng Tin Mừng và tập hợp các tín hữu thành MỘT trong Hội Thánh Chúa, và tất cả các tín hữu đều đồng tâm nhất trí với nhau (Cv. 2, 44-47).

 

Tinh thần yêu thương, hiệp nhất trong Hội Thánh rất quan trọng, nên trong Bài Đọc II hôm nay (Gioan 3, 18-24), Thánh Gioan nhấn mạnh “Đây là Giới Răn của Chúa, là chúng ta hãy yêu thương nhau… và yêu thương không phải chỉ bằng lời nói, mà bằng chính việc làm…”

 

Trong Bài Đọc I (Cv 9, 26-31), Thánh Luca ghi lại sự việc Thánh Phaolô, sau khi được ơn trở lại, đã mạnh dạn rao giảng Đạo Thánh Chúa, và đã tìm đến Giêrusalem để cùng hiệp thông với các Tông Đồ và các Tín Hữu trong Hội Thánh. Sau đó, Thánh Phaolô lại nhấn mạnh nhiều lần: Các tín hữu phải hiệp nhất với nhau trong cùng Một Hội Thánh để có thể hiệp nhất với Chúa. Ngài đã nói đến Hội Thánh như Thân Thể Mầu Nhiệm mà Chúa Giêsu là đầu (Ep 5, 23) và tất cả các tín hữu là các chi thể. Mặc dầu các chi thể thì nhiều và khác nhau, nhưng cũng trong một thân thể (1Cr 12,12-17); vì thế, Hội Thánh ở nhiều nước trên khắp thế giới, nhưng duy nhất: “Chỉ có một Thiên Chúa, một Đức Tin, một Phép Rửa…” (Ep 4, 5-6). Trong Hội Thánh, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, đàn ông hay phụ nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô là đầu Hội Thánh (Gl 3, 26-28).

 

Chúa Giêsu là đầu Hội Thánh, là Chúa Chiên Nhân Lành, nhưng Ngài đã đặt Thánh Phêrô đại diện Ngài ở trần gian (Mt 16, 18-19; Ga 21, 15-17). Các vị Giáo Hoàng và hàng Giáo Phẩm cũng là những vị Chúa đã chọn qua các thời đại để chăn dắt đoàn chiên Chúa ở trần gian. Khi chúng ta hiệp nhất với Chúa và Hội Thánh, là chúng ta cũng hiệp nhất với hàng Giáo Phẩm và toàn thể Dân Chúa trên toàn thế giới.

 

Dù Hội Thánh luôn thích nghi với nền văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ của mỗi dân tộc, nhưng chúng ta tin “Giáo Hội duy nhất”, và vì thế không thể có Giáo Hội tự trị; không thể có Giáo Hội quốc doanh! Khi chúng ta tách ra khỏi Hội Thánh Chúa, là chúng ta ‘như ngành nho đã tách rời khỏi thân cây nho’, hay như một chi thể đã tách rời khỏi thân thể. Vậy, sau khi chúng ta đã chịu Phép Thánh Tẩy và được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta trở thành một chi thể trong gia đình Giáo Hội, và được hưởng muôn ơn Thánh Chúa qua các Phép Bí Tích, và lúc đó ‘chúng ta như ngành nho được liên kết với thân cây nho, được chung cùng một ‘sức sống’ và sẽ sinh hoa kết quả dồi dào là những ‘việc lành phúc đức’ trong tình bác ái phụng sự Chúa và giúp đỡ lẫn nhau trên cuộc hành trình về Quê Hương Nước Trời.

 

Lạy Chúa, “xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Xin hiệp nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất hòa, chia rẽ! Xin liên kết muôn người trong lòng mến Chúa Cha muôn đời…” (Thành Tâm, Bài Ca Hiệp Nhất).

 

8. Sống thân mật với Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc

Trong Phúc Âm Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã tự ví mình như người Mục Tử nhân lành, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa lại tuyên bố: ”Thầy là cây nho thật”. Trong Thánh Kinh, nho là một hình ảnh, một biểu tượng rất quen thuộc. Có người nói đó là “cây sự sống” trồng ở giữa vườn địa đàng (Stk. 2, 9). Môsê cho người đi do thám đất hứa đã mang về một nhành và một chùm nho vĩ đại phải hai người khiêng, làm cho dân chúng phấn khởi (số 13, 23). Hàng năm dân chúng mừng lễ mùa nho. Isaia sáng tác một bài dân ca mừng vườn nho xinh tươi của người bạn (5, 1-2) để ám chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Tiên tri Jeremia nói đến việc Thiên Chúa chăn sóc Israel như một khu vườn nho gia bảo; ai ngờ vườn nho đã sinh ra quả đắng đót! (Jr. 2, 21). Và khi sự việc tệ hại xảy ra, nhà Thánh Vịnh vẫn xướng lên một bài ca hy vọng: “Lạy Thiên Chúa, xin hãy viếng thăm và bảo trợ vườn nho mà chính tay Chúa đã vươn trồng” (Tv. 80, 15-16).

 

Hôm nay, Chúa Giêsu long trọng tuyên bố: “Ta là cây nho thật”, như Ngài là người Mục Tử chân thật. Nơi Ngài Giáo hội bám vào và chia sẻ nhựa sống như nhành nho bám vào một thân nho duy nhất. Thân nho là Chúa Giêsu, nhành nho là các môn đệ, Thánh Augustinô gọi là “Chúa Kitô duy nhất” gồm Chúa, môn đệ và chúng ta hết thảy.

 

Bạn hãy hát lên để cảm nghiệm lời Chúa từ xa xưa vọng lại cho mỗi người chúng ta: Thầy là cây nho, chúng con là nhành. Nhành nào kết hợp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái, nhành nào lìa cây sẽ khô héo liền. Chúng con hãy hợp trong tình yêu Thầy.

 

Mầu nhiệm cây nho được Chúa gồm tóm trong hai sự việc sau đây: kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh hoa trái nhiều. Chúa muốn dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, có kết hợp với Chúa mới đem lại kết quả thiêng liêng cho kẻ khác và cho chính mình.

 

Kết hợp với Chúa là sống thân mật với Chúa trong tình yêu. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Tôi đã tìm thấy ơn kêu gọi của tôi: Ơn kêu gọi của tôi là Tình Yêu”. Hai người kết hợp với Chúa trong tình yêu thì Chúa dùng để đem lại kết quả cho các linh hồn một cách phong phú nhiệm lạ. Mặc dù là một nữ tu kín, Têrêsa đã được Giáo Hội nhìn nhận và tôn phong làm quan thầy xứ truyền giáo cùng Thánh Phanxicô Xaviê. Vì truyền giáo là đem đức tin, đem lửa đến cho các linh hồn và càng có nhiều lửa, càng gây được đám cháy vĩ đại, như lời Chúa phán: Ta xuống trần gian và đem lửa đến để thiêu đốt lòng mọi người.

 

Trong bài đọc thứ hai, Thánh Gioan Tông đồ giải thích cho chúng ta lối sống hiệp nhất với Chúa. Người nói: “Ai giữ các giới răn của Chúa thì ở trong Người và Người ở trong họ”; “Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải thương yêu nhau…đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật”. Anh em đã nghe nói đến nhà phung Quy Hòa ở ngoại ô thành phố Qui Nhơn. Vị sáng lập là Cha Paul Mahen đã dấn thân cho người cùi và chết giữa người cùi. Người cùi thường đến xin Ngài giúp đỡ. Một hôm một người đến nói với Ngài: “Con buồn quá, đêm qua con vừa rụng thêm một ngón tay nữa. Con lượm đây để Cha xem”. Cha Mahen cầm lấy đốt ngón tay, thương tiếc như chính một phần thân thể mình. Ngài an ủi, xin bệnh nhân cứ tiếp tục và thêm thuốc để chữa trị. Ngài nhìn họ là bản thân của Chúa. Ít năm sau, Ngài đã mắc bệnh phung và nằm xuống, xác được chôn cất giữa làng cùi bên cạnh đoàn con đau khổ. “Không có tình thương nào lớn lao cho bằng chịu chết vì bạn hữu”. Đồ đệ đã đi theo vết chân Thầy.

“Các con hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong các con: ai ở trong Thầy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Đáp ca)

 

9. Sự sống trong Chúa Kitô – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Phân tích

Bài giáo lý về Dụ ngôn cây nho. Về sự sống trong Chúa Giêsu. Dụ ngôn cây nho chúng ta một cách vừa cụ thể vừa dễ hiểu nhưng lại rất sâu sắc về cuộc đời Kitô hữu: Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Chúa Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài “Thầy là cây nho, các con là nhành… Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiếu trái.”

 

Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình “được Cha Thầy tỉa sạch” bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ. Chúa Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: “Nếu các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin thì sẽ được.”

 

Suy gẫm

1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “Người thuộc về Đức Kitô.” Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy… Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ấy là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.

 

2. Cắt tỉa: cuộc đổi đời nào cũng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được. Tuy nhiên với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất… Đức Hồng y Etchegaray có lần đã nói “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên.”

 

3. Thánh Anphongxô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Inhaxiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến. Các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác quý hơn.

 

4. “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”

Mỗi ngày đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tôi lại nghe thấy vụ giết người dã man; những thảm họa của chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, hạt nhân; những cái chết đầy thương tâm do các căn bệnh thế kỷ gây ra như Sida, Ebôla… Đâu đâu cũng thấy tang thương và chết chóc.

 

Có lần tôi đã phải bàng hoàng sửng sốt trước mẩu tin: “Một thanh niên đã chỉa súng bắn chết bố mẹ chỉ vì ông bà không cho cậu ta tiền tiêu vặt.”

 

Tại sao cuộc sống hôm nay lại có nhiều tội ác đến thế? Nguyên nhân chính phải chăng là vì con người xa lìa Thiên Chúa, chạy theo cuộc sống vật chất, do đó trở nên thoái hóa, buông thả, vô đạo. Đức tin khô héo rồi chết đi.

 

Lạy Chúa, xin cho con biết lưu lại trong Chúa qua cuộc sống yêu thương và phục vụ. (Cha Carôlô)

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho, còn chúng con là cành, xin cho chúng con biết kết hợp với Chúa qua từng giây phút cuộc sống, nhất là khi chúng con được rước Thánh Thể Chúa ngự đến trong tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa bởi những tội lỗi, những đam mê mù quáng, những thói đời bất nghĩa, bất trung.

 

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con vẫn biết rằng, để cành nho cuộc đời chúng con sinh hoa kết trái thì cần được cắt tỉa, loại bỏ những gì không phù hợp với sức sống Thần Linh của Chúa. Thế nhưng, Chúa ơi, chúng con vẫn bám víu vào những đam mê tật xấu. Tâm hồn chúng con vẫn chứa đựng đầy những tham lam bất chính, những tư tưởng dâm ô tội lỗi. Cuộc sống chúng con còn đầy những lầm lỗi gây nên đau khổ cho gia đình và bạn bè. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con. Xin Chúa cắt tỉa nơi tâm hồn chúng con khỏi những ước ao phạm tội, những toan tính xấu xa, những mưu đồ bất chính để chúng con luôn xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự trị.

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con được lưu lại trong Chúa mỗi khi chúng con rước Chúa vào lòng, để sự sống của Chúa tuôn chảy trên dòng đời của chúng con, qua các việc đạo đức hằng ngày, qua cuộc sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhờ đó mà muôn dân sẽ nhận ra “chúng con là môn đệ của Chúa.” Amen.

 

10. Kết hợp và sinh trái – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Mục tử chăm sóc đoàn chiên.

 

Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói đến sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Cành nho phải gắn vào thân nho để sống và sinh hoa trái.

 

Ý nghĩa của lối so sánh là kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh nhiều hoa trái. Chúa dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, mới đem lại hoa quả thiêng liêng cho chính mình và cho người khác.

 

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”(Ga 14,5). Có tới 9 lần cụm tụ “ở lại trong” được lặp lại trong đoạn Tin mừng này. Mỗi người phải “ở lại trong” Thầy, bởi vì: “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 14,5).

 

Nếu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, được kết hợp với Ngài thì chúng ta sẽ lãnh được sức sống của Ngài. Chúa Giêsu ở trong Thiên Chúa nên khi kết hợp với Ngài, chúng ta cũng được kết hợp với Thiên Chúa và múc được sự sống của Chúa Ba Ngôi.

 

Cành nho gắn với thân nho và liên kết với những cành khác. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống sẽ cằn cỗi, khô héo. Nhựa sống trong thân cây lưu chuyển, cho mọi cành để cùng nhau sinh nhiều hoa trái. Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hợp với nhau trên con đường nên thánh.

 

Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

 

Bài đọc 1, kể chuyện thánh Phaolô trở lại trên đường Đamat. Từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Phaolô đã đúc kết mối liên kết cuộc đời mình với Chúa Kitô trong một câu bất hủ: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gal 3, 20).

 

“Đức Kitô sống trong tôi”nên tôi mới sinh hoa trái yêu thương như lời Thánh Gioan trong bài đọc 2 : “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. “Sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem niềm vui và hạnh phúc cho người khác.

 

Lúc ban đầu, khi các môn đệ mới theo Chúa, Thánh Gioan viết: “Các môn đệ đã đến xem chỗ Ngài ở và lưu lại với Ngài” (Ga 1,39). Sau những năm sống với Chúa, Thánh Gioan đổi cách dùng ngôn ngữ: “Các con hãy ở lại trong Thầy cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 15, 17). Ở với là ở bên cạnh. Ở trong là trọn vẹn thuộc về người ấy. Khi Phêrô ở với Chúa là ở bên cạnh thôi nên vẫn còn hai bước chân khác nhau, hai ý nghĩ không chung đường và Phêrô đã có những bước chân sai đi lạc lối. Còn ở trong là nên một trong nhau. Chính nhờ ở trong Chúa mà Phêrô đã trở nên con người mới, hoàn toàn thuộc về Chúa.

 

“Ở lại trong” và “gắn liền với” Chúa là điều kiện cần thiết để “sinh nhiều hoa trái”. Chúa Giêsu đã sống chân lý đó trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha, và Ngài đã cầu nguyện cho chúng ta được nên một với Ngài trong sự sống đó (Ga 17,21-22).Chúng ta kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, Thánh Lễ và các Bí Tích. Chúng ta còn kết hợp với Chúa qua việc biểu lộ lòng trung tín như lời Thánh Phêrô: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68).

 

“Gắn liền với” hay “ở lại trong” Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, chúng ta sẽ có một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy nội lực, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa. Mối liên kết này làm cho chúng ta có cùng bản tính với Chúa Giêsu, được nên một với Ngài: một sự sống, một tình yêu, một tinh thần, một ý chí và hành động. Từ đó, trở nên chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để vánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, và là miệng để nói những lời bác ái ủi an (ĐHY 341).

 

Dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Nhờ ân sủng của Chúa, đời sống chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành. Hoa trái chính là yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tấm lòng rộng mở, biết quan tâm đến người khác. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng làm cho Chúa Cha ngày càng được vinh hiển, như lời dạy của Chúa Giêsu: “Đây là điều làm cho Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế, các con trở nên môn đệ của Thầy”.

 

11. Ở lại trong Thầy.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Thế giới hôm nay tiến bộ nhanh chóng về nhiều mặt: nghiên cứu sự sống trên sao Hỏa, nối mạng Internet, thành công trong phương pháp sinh sản vô tính… Tưởng như chẳng có gì con người không làm được. Nhưng thế giới vẫn lo âu vì chất thải ở khắp nơi, môi trường sống bị hư hoại, chênh lệch giữa giàu nghèo, nạn tham nhũng ở châu Á, sự hư hỏng của các bạn trẻ. Cái vòng luẩn quẩn: ma túy, tình dục, AIDS, tội phạm dẫn đến các chết bi đát cho nhiều thanh thiếu niên.

 

Con người đủ thông minh để tạo ra sản phẩm nhưng lại không đủ bản lãnh để làm chủ chúng, nên chúng quay trở lại làm chủ con người. Khoa học vừa giải quyết, vừa gây thêm rắc rối. Con người hôm nay bơ vơ, loay hoay, không cứu nổi mình. Thế giới bế tắc, cần đến ơn cứu độ.

 

Đoạn Tin Mừng mời ta nhìn lại sự cằn cỗi của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới. Đức Giêsu phục sinh như cây nho, các Kitô hữu là cành. Cây và cành có cùng một sự sống, cùng một dòng nhựa. Sự sống từ cây, làm cho cành sinh trái. Cụm từ sinh hoa trái được nhắc đến 6 lần. Cụm từ ở lại trong Thầy được nhắc đến 5 lần.

 

Không ở lại trong Thầy thì không thể sinh hoa trái. Cứ nhìn hoa trái thì biết mức đo 'Gắn bó của cành. Có cành chỉ vờ gắn liền với cây nên không có trái. Có cành đã sinh trái, nhưng cần sinh hoa trái hơn (c.2), sinh hoa trái nhiều (c.8), sinh hoa trái bền vững (c.16).

 

Chúng ta vẫn chưa sinh trái như lòng Chúa mong vì chúng ta không chịu để Ngài cắt tỉa. Vinh quang của Thiên Chúa là chúng ta sinh nhiều hoa trái. Thất bại của Thiên Chúa là sự cằn cỗi của con người. Hoa trái là ước mơ của người trồng nho, và cũng là sự triển nở của cây và cành nho. Chẳng hề có sự xung đột giữa vinh quang Thiên Chúa và vinh quang đúng nghĩa của con người. Chỉ trong Chúa, con người mới thực sự triển nở, hạnh phúc. Một sự độc lập khờ khạo sẽ dẫn đến héo khô.

 

Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Một lời mời gọi gần như là một lời nài van. Sự ở lại chỉ hoàn hảo khi có đủ hai chiều. Con người mãi mãi có tự do khước từ nguồn sống. Ở lại trong Chúa không phải là lối nói văn chương. Để ở lại cần phải trả giá.

 

Muốn được hưởng nguồn sống của Đấng Phục Sinh, ta cũng phải chia sẻ thập giá của Ngài. Chính Đức Giêsu cũng được cắt tỉa qua khổ đau và cái chết. Hãy đón lấy sự sống của Chúa Phục Sinh, như dòng nhựa nguyên tươi mới. Hãy đóng góp những hoa trái tốt lành cho nhân loại, để nhân loại nhận ra Cây Nho thật là Đức Kitô, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa.

 

Gợi ý chia sẻ

·        Theo ý bạn, thế nào là một Kitô hữu có đời sống sinh nhiều hoa trái? Bạn đánh giá thế nào về đời sống Kitô hữu của bạn?

·        Trước nỗi đau của bao người trên thế giới, Chúa Giêsu có thể đem đến giải pháp nào cho họ? Người Kitô hữu có thể làm gì để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại?

 

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

 

Chúa đòi con cho Chúa tất cả, để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. – Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa, để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. – Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà, để cây đời con sinh thêm hoa trái. – Chúa cương quyết chinh phục con, cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

 

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

 

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

12. Xây dựng Giáo Hội – Jean-Yves Garneau.

MỘT HỢP ĐỒNG KHÁC HẲN.

Trong sách Tông đồ Công vụ, người ta kể lại rằng nhờ hoạt động của thánh Phaolô và các môn đệ khác, “Giáo Hội (sơ khai) được xây dựng, tiến triển và lớn lên” trong tất cả vùng Giuđê, Galilê và Samari. Khi đọc những dòng này, chúng ta không nên chỉ nghĩ về quá khứ mà thôi; chúng ta cũng phải xem hiện tại nữa vì ngày nay Giáo Hội còn phải được xây dựng. Và chính chúng ta theo gương thánh Phaolô và các môn đệ đầu tiên, phải là các nghệ nhân của việc xây dựng này. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta xây dựng Giáo Hội của Ngài.

 

Lời mời gọi bắt tay vào việc và hiến dâng tất cả năng lực của chúng ta để cộng tác vào việc xây dựng Giáo Hội, lời đó chúng ta đã thường được nghe, nhất là từ Công đồng Vatican II.

 

Phải thú nhận rằng lời mời gọi đó khiến chúng ta hơi khó chịu một chút. Quả thật, chúng ta ít có thói quen xây dựng Giáo Hội. Hồi trẻ, người ta đã không thực sự dạy chúng ta truyền đạt cho kẻ khác đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Người ta đã không khai tâm chúng ta để trở thành thừa sai và chứng nhân trong một môi trường ngày càng không biết đến Thiên Chúa hoặc ở đó người ta thường sống như thể không có Ngài. Làm gì đây, phải hành động thế nào để xây dựng Giáo Hội tại nơi này và hôm nay? Những bài Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đã mang đến lời giải đáp cho câu hỏi này, chúng thu hút sự chú ý của ta về nhiều điểm quan trọng. Chúng ta sẽ ghi nhận ba điểm.

 

1. Tin vào Chúa Kitô và lưu lại nơi Ngài.

Để xây dựng Giáo Hội, trước hết phải tin vào Chúa Kitô. Người ta sẽ nói đó là chuyện hiển nhiên rồi. Có lẽ. Tuy nhiên, ta hãy nhớ rằng đức tin mà thánh Gioan nói đến không phải chỉ là chấp nhận sứ điệp của Chúa Kitô và những chân lý mặc khải trong trí mà thôi. Phải làm hơn thế nữa. Đó là gắn bó với Chúa Kitô. Đó là hiệp thông với Ngài. “Ai lưu lại nơi Thầy và Thầy lưu lại nơi người đó, kẻ ấy mang nhiều hoa trái” (Ga 15,5).

 

Thánh Phaolô, vị tông đồ vĩ đại đã chăm lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một ngày nọ đã được Chúa Kitô thu hút và đã hiến dâng mình cho Ngài. Thánh Phêrô, Andrê, Giacôbê, Gioan và những vị khác trong nhóm Mười Hai cũng đã say mê Chúa Giêsu và họ đã từ bỏ mọi sự vì Ngài. Họ đã sống nhờ Ngài, trong Ngài… bởi Thần Khí của Ngài. Vậy nên, hết thảy họ đều là những kẻ xây dựng Giáo Hội cách tuyệt vời vào thời đại của họ. Bao giờ cũng thế thôi. Những kẻ lưu lại nơi Chúa Kitô sẽ làm được nhiều việc cho Ngài và cho Giáo Hội của Ngài.

 

2. Thương yêu nhau.

Điều kiện thứ nhì để xây dựng Giáo Hội được nêu lên trong thư thứ nhất của thánh Gioan: Đó là “thương yêu nhau như Chúa Kitô đã căn dặn chúng ta” (1Ga 2,23). Có sự mâu thuẫn rõ rệt khi muốn xây dựng Giáo Hội mà không thương yêu nhau, vì Giáo Hội là nơi của tình hữu nghị, nơi mà những con người –tứ xứ và hết thảy đều có những đức tính tốt và tật xấu- tụ họp nhau lại và nhận nhau là anh em. Không những chỉ bằng lời nói (điều này bao giờ cũng dễ dàng), nhưng trong sự thật.

 

Mỗi lần tình yêu thương giữa chúng ta lớn lên và được phát triển –tình yêu thương cụ thể được biểu hiện trong việc đón tiếp kẻ khác, trong việc thông cảm với kẻ khác, tha thứ cho kẻ khác…- thì chính Giáo Hội lớn lên và được phát triển.

 

3. Dám mạo hiểm.

Điều kiện thứ ba để góp phần xây dựng Giáo Hội: dám mạo hiểm. Ở đây, ta phải nhờ gương thánh Phaolô tông đồ. Ngài biết lên tiếng, dám lên tiếng ngay cả khi điều đó không làm hài lòng mọi người. Ngài không sợ tự khẳng định mình ngay cả khi ngài chắc chắn rằng sự can thiệp của ngài sẽ gây khó khăn cho ngài. Những người Do Thái nói tiếng Hy lạp, đã tranh luận với ngài tại Giêrusalem, tìm cách thủ tiêu ngài, sách tông đồ Công vụ (9,29) kể lại cho chúng ta như thế. Có bao giờ chúng ta dám mạo hiểm… dù là trong những điều rất nhỏ, nhân danh Chúa Kitô… vì quyền lợi và sự phát triển của Giáo Hội Ngài không?

 

Tóm lại, chúng ta phải xây dựng Giáo Hội và phải có ít nhất ba điều kiện để làm việc đó: kết hợp với Chúa Kitô, thương yêu nhau và đôi khi dám mạo hiểm. Và bây giờ, chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có phải là những người tích cực xây dựng Giáo Hội trong môi trường sống của mình không?

 

13. Như cành liền cây.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh Lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Toà Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh Lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu Châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.

 

Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn..

 

Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe doạ, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ta trồng người như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao người lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm” (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, vì dân Israel như nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x. ls, 1-7).

 

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là “cây nho thật” và “Chúa Cha là người trồng nho”, để xác minh rằng: đây là cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trồng tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:

 

“Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn”… “Thầy là cây nho, anh em là cành”.

Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.

 

Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là “cành nho phải sinh hoa trái”. Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn “ở trong Thầy”. Không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây “xanh rờn”! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tôị tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa “cầm hơi”, “cầm chừng”. Người Kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”.

 

Thế nào là sinh hoa kết trái? Chúng ta có thể tìm thấy cây trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.

 

Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên một sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến Phục Sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.

 

Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người Kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.

 

14. Thoái hoá làm mất phẩm chất – Lm Tạ Duy Tuyền.

Ngày nay người ta đang nói nhiều về sự thoái hoá đạo đức của một số phần tử trong xã hội. Họ tự đánh mất căn tính của mình. Họ không còn giữ được phẩm chất của chính mình. Sự thoái hoá đã làm cho họ biến chất từ tốt ra xấu. Từ thanh sạch ra dơ bẩn. Từ hữu dụng ra vô dụng. Sự thoái hoá đạo đức có thể đến với bất cứ ai. Và cũng có thể làm băng hoại đủ mọi thành phần, cho dù là hàng trí thức hay dân hèn, một khi đã bị thoái hoá là họ đã đánh mất căn tính con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Sự thoái hoá có mặt trong mọi ngành nghề, trong mọi cấp bậc. Sự thoái hoá làm mất đi đạo đức nghề nghiệp, mất đi lương tâm trong sáng chỉ còn là những tham sân si vô độ.

 

Trong năm giáo dục gia đình, chúng ta cũng không thể không đau lòng trước những hiện tượng thoái hoá đạo đức và nhân cách của con người hôm nay như: cô giáo hành hung và xúc phạm học trò; học trò đánh thầy giáo, mẹ đánh chết con ruột, cháu nội hành hạ bà nội cho đến chết. Tại sao lại có những chuyện phi nhân thất đức như vậy? Văn hoá đạo hiếu Việt Nam có còn giá trị hay đã bị tha hoá bởi đời sống vô tâm của con người hôm nay?

 

Có một câu chuyện ngày xưa kể rằng: một lần vua Nước Bắc muốn làm nhục sứ giả Nước Nam qua triều cống. Ông đã bắt một người dân Nước Nam vừa ăn trộm ra trước mặt sứ giả để làm nhục. Vua Nước Bắc bảo rằng: "Phải chăng người Nước Nam hay ăn trộm?". Sứ giả Nước Nam khiêm tốn trả lời: "Thưa bệ hạ! Cây táo trồng ở Nước Nam thì ngọt nhưng khi mang qua Nước Bắc trồng thì quả lại chua. Phải chăng người này ở Nước Nam thì tốt nhưng khi qua Đất Bắc đã biến chất rồi chăng?"

 

Nhìn lại phận người chúng ta đôi khi cũng giống như Cây Táo được trồng ở Đất Bắc. Con người là hình ảnh Thiên Chúa đôi khi cũng bị biến chất khi trồng vào thế gian. Con người cũng bị những thói đời sa đoạ làm băng hoại tâm hồn. Con người cũng bị những đam mê của danh lợi thú làm huỷ hoại danh giá, nhân phẩm của chính mình. Con người dễ bị đánh mất căn tính của mình là "nhân linh hơn vạn vật". Con người dễ bị bị thoái hoá bởi tưởng mình chỉ là một loài vật: sinh ra – lớn lên – rồi chết nên cứ việc lao vào những cuộc truy hoan trác táng, những thói đời hưởng thụ tầm thường.

 

Các tiên tri thời Cựu ước đã từng tiếc nuối cho dân tộc Israel là "vườn nho của Chúa" đã bị biến chất. Tiên tri Isaia đã thất vọng vì vườn nho nhà Israel đã bị hoang tàn. Tiên tri Giê-rê-mi-a đau buồn vì dân tộc ông đã "biến thành một cây nho lạ, thoái hoá thành một cây khác". Còn Ô-sê thì kêu lên trong đau đớn: "Israel là một cây nho trơ trụi". Tất cả những từ ngữ đó đều diễn tả một đời sống thoái hoá đạo đức của một số phần tử Do Thái. Họ đã không sống theo đường lối Chúa. Họ đã thờ ngẫu tượng. Họ sống hình thức dẫn đến giả hình, giả dối. Họ bị men biệt phái kiêu căng làm biến chất. Họ thờ Thiên Chúa trên môi miệng nhưng thực chất họ đã xa lìa Chúa từ trong tâm hồn.

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kín múc nguồn sống đích thực từ Thiên Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy để cho sự sống của Chúa tuôn chảy trong tâm hồn chúng ta. Hãy sống gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa như cành liên cây để có thể sinh hoa kết trái là những việc lành phúc đức. Hãy ở lại trong Chúa để hiểu rằng con người chúng ta có một phẩm giá vô cùng cao quý là "giống với thần linh, là hình ảnh Thiên Chúa". Hãy biết gìn giữ phẩm giá cao quý ấy bằng việc chế ngự những đam mê tội lỗi, những thói đời truỵ lạc. Hãy làm chủ hành vi của mình bằng việc: biết sống theo lẽ phải, biết thể hiện phẩm giá của mình là tạo vật biết thiện và ác, thế nên phải biết làm điều thiện và tránh điều ác. Hãy bám vào Thiên Chúa hơn là bám vào những phù vân mau qua đời này. Hãy khiêm tốn cúi mình thờ lạy Chúa hơn là thờ lạy tạo vật. Hãy vì Chúa mà sống cao thượng hơn là vì tiền, vì tình, vì quyền mà sống thấp hèn. Hãy nhớ rằng: trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu. Đừng vì những vinh hoa phú quý phù hoa này mà xa lìa Thiên Chúa. Xa lìa Thiên Chúa như cành lìa cây sẽ bị thoái hoá và héo khô.

 

Nguyện xin Chúa Giê-su Phục sinh luôn ở lại trong cuộc đời chúng ta để dẵn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Xin cho nguồn thánh ân Chúa tưới gội tâm hồn chúng ta mãi thanh sạch xứng đáng là hình ảnh của Chúa. Amen.

 

15. Cây nho và nhánh.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Mở đầu cho vở kịch mang tên: "Chiếc hài bằng Satin" của Paul Rolden, một văn thi sĩ người Pháp đầu thế kỷ XX là một cảnh thật xúc động. Một trận cuồng phong bỗng dưng kéo dài tới nhận chìm chiếc tàu đang di chuyển đơn độc giữa đại dương. Chiếc tàu vỡ nát và mọi người trên tàu đều bị mất tích, ngoại trừ một vị thừa sai sống sót nhờ cột chặt người vào chiếc cột buồm.

 

Nhận thấy chiếc cột buồm đang chồm nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết, vị thừa sai đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã cho con đón nhận cái chết như thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời dạy của Chúa quá khó khăn và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giờ đây con đang gần Chúa hơn lúc nào hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ và con sắp chết trên chiếc giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự trói buộc, nhưng con không muốn, vì sự trói buộc sẽ cho con cảm giác được gần và giống Chúa hơn".

 

Anh chị em thân mến!

Được gần và giống Chúa, được hiệp nhất với Chúa, không đơn thuần chỉ là những ước mơ trong cuộc sống của người Kitô hữu, mà chúng là những điều kiện căn bản cho sự sống Kitô hữu như lời Ngài dạy cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

Anh chị em thân mến!

"Vườn nho" hay "cây nho" là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh Cựu Ước. Vườn nho được ví là nhà Israel. Các tiên tri lớn như Isaia, Giêrêmia, Ézekiel đều nhìn mối liên lạc giữa người trồng nho và cây nho để nói lên sự quan tâm của Giavê Thiên Chúa đối với dân Ngài, cũng như để khiển trách dân tộc Israel vì vườn nho đã trở nên hoang tàn, dây nho biến thành dây nho dại không còn sinh hoa kết trái.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lấy hình ảnh "cây nho" để ví Ngài như là cây nho: "Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho". Vườn nho của Thiên Chúa phát xuất từ một gốc duy nhất là Chúa Giêsu. Ngoài Ngài không có sự sống: "Thầy là cây nho, các con là ngành". Ngành không thể sống, nếu tách lìa xa thân cây.

 

"Ở trong Thầy và Thầy ở trong các con", đó là điều mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc đi nhắc lại. Cần thông hiệp với Ngài để có sự sống. Tuy nhiên, một khi đã có sự sống từ thân chuyển sang thì ngành cần phải sinh hoa trái. Sinh hoa trái sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, và đây cũng là điều kiện cho ngành tồn tại. Ngành nào không sinh trái sẽ bị chặt đi ném vào lò lửa. Muốn được sinh hoa trái, ngành nho phải được cắt tỉa. Chẳng có sự cắt bỏ nào mà không gây đau đớn, dù cho phần cắt tỉa chỉ là phần thừa thãi tác hại đến cơ thể. Thế nhưng, chẳng thấy được hoa trái nếu không chấp nhận sự đau đớn của việc cắt tỉa. Chắc hẳn người trồng nho sẽ đau lòng khi cắt tỉa, sẽ xót xa vì phải bỏ đi những phần không sinh lợi, nhưng vì lợi ích của cây nho nên chẳng thế nào làm khác đi được.

 

Khi thông hiệp vào Đức Kitô, đời sống của người môn đệ sẽ được cắt tỉa nhờ lời của Ngài. Lời của Ngài sẽ đặt các môn đệ trước những quyết định chọn lựa. Chọn lựa con đường hẹp nhọc nhằn, chọn lựa Thập Giá khổ đau. Những hy sinh đau đớn ở đời này sẽ mang lại phần thưởng mai sau. Và những hy sinh ấy tạo cho họ có cơ hội để được trở nên giống Thầy: "Họ ở trong Thầy và Thầy ở trong họ".

 

Thật thế, mọi đau khổ sẽ trở nên phí phạm, nếu không hướng về Thập Giá Đức Kitô, nguồn ơn cứu độ. Cắt tỉa chỉ là cắt bỏ, nếu không nhằm mục đích sinh hoa trái. Mọi hy sinh của người tín hữu cũng sẽ không mang lại hoa trái, nếu từ đầu không vì Đức Giêsu.

 

Lạy Chúa Giêsu, Ngài là cây nho đích thực. Xin cho chúng con luôn gắn chặt và hiệp thông với Chúa, để được hưởng nguồn sức sống dồi dào từ Ngài. Chúng con vẫn biết rằng, một khi gắn chặt với Chúa, chúng con sẽ phải đón nhận sự cắt tỉa, phải chấp nhận hy sinh. Xin cho chúng con xác tín rằng: cần phải có hy sinh để mang lại hoa trái. Đó là điều làm vinh hiển cho Cha, Đấng ngự trên trời. Amen.

 

16. Anh em hãy lưu lại trong tôi

(Suy niệm của Lm. Đặng Quang Tiến)

Là một trong những diễn từ ly biệt từ chương13,31 đến cuối chương 17, đoạn 15,1-16,4a có thể phân ra như sau: 1- Chúa Giêsu là cây nho thật (15,1-8); 2- Giới răn yêu thương (15,9-17); 3- Sự ghét bỏ của thế gian (15,18-16,4a). Căn cứ trên cụm từ “Tôi là cây nho” (cc. 1.5), đoạn 15,1-8 được chia cách thành hai: 15,1-4 và 15,5-8. Hơn nữa, những chữ “Cha tôi” (cc.1.8) đóng khung đoạn nầy; như thế, câu 1 và 8 được xem như nhập đề và kết luận của đoạn nầy.

 

Đặc điểm của đoạn nầy là dùng những hình ảnh ẩn dụ như cây nho, cành, sinh trái… để nói lên những điều có thực tương ứng là Chúa Giêsu, các môn đệ, kết quả… Về đại danh từ, ngôi thứ nhất dùng cho Chúa Giêsu tương ứng với ngôi thứ hai số nhiều chỉ đến các môn đệ. Về chủ đề, nhấn mạnh liên tục việc “lưu lại” và “sinh trái”. Mục đích là kêu gọi các môn đệ lưu lại trong Người và lời của Người khi xem ra Người sẽ vắng mặt.

 

Về cụm từ “Tôi là” (c. 1), xem bài chú giải tuần IV Phục Sinh B. Trong Cựu Ước cây nho là hình ảnh tiêu biểu chỉ dân Israel (Os 10,1–2; Isa 5,1–7; Ger 2,21; Tv 80,8–18). Dân nầy bây giờ được thu tóm trong cá nhân Chúa Giêsu; bởi đó, chỉ trong Người, Israel mới, mọi dân tộc mới tìm thấy ơn cứu độ. Tính từ “thật” được dùng cho “cây nho” nêu rõ tính cách duy nhất (x. 10,11). Đây là yếu tố tiêu biểu của Gioan (x. 1,9; 6,32; 8,16; 6,55). Chỉ Người là cây nho thật, nên phải lưu lại trong Người. Hình ảnh Chúa Cha là người trồng nho được dùng trong cả Cựu Ước và Tân Ước (x. Mc 12,1-12; Is 5,1; Tv 8,8). Tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là hậu cảnh cho tương quan giữa Người và các môn đệ, được xem là chủ đề cốt yếu của đoạn nầy.

 

Sau những xác định nhập đề (c. 1), nguyên tắc đầu tiên được đưa ra (cc. 2-3) là trong Chúa Giêsu, cành nào không sinh trái thì bị loại ra, cành nào sinh trái thì được cắt tỉa để sinh nhiều trái hơn. Như thế, ai đó dù ở trong Người mà không sinh trái, bị kể là không có Người ở trong họ. Ở đây tuyệt đối cần một quan hệ “ở lại” hỗ tương giữa Chúa Giêsu và người ấy (x. 15,4a.5a). Trong khi, đối với người sinh trái, lời đã rao giảng cho họ luôn là nguồn thanh tẩy để họ có thể sinh trái nhiều hơn (x. 6,63). Nguyên tắc thứ hai (c. 4a) là không ai có thể tự mình sinh trái, mà chỉ có thể sinh trái trong Chúa Giêsu. Do đó, Người đưa ra mệnh lệnh duy nhất trong phân đoạn nầy: “Anh em hãy lưu lại trong tôi” (c. 4a). Ở thể mệnh lệnh động từ “lưu lại” biểu thị một hành động hơn là một trạng thái. Đó là một cố gắng liên tục bước vào trong hiệp thông với Người, điển hình như hai môn đệ đầu tiên tìm đến và lưu lại với Người (1,39).

 

Hai nguyên tắc trên được diễn giải và áp dụng cho các môn đệ trong đoạn 15,5-8. Trong câu 5, tìm thấy những từ ngữ tương tự đoạn trên, tóm kết những điều đã nói là ở trong Người thì sinh nhiều trái, và không có Người thì không thể làm được gì cả. Câu 6 và 7 tương đương với hai mệnh đề của câu 2. Ở câu 6, Gioan trình bày một giả thiết có tính tiêu cực, nhấn mạnh những hậu quả sẽ xảy đến nếu không lưu lại trong Người. “Bị quăng ra ngoài”, “bị đốt cháy” là những hình ảnh chỉ sự loại bỏ và hủy diệt. Trong khi câu 7 đưa ra những điều kiện tích cực nhưng mang tính treo lửng: “Nếu anh em lưu lại trong tôi và nếu lời của tôi ở trong anh em” (c. 7a), nghĩa là chỉ khi nào hội đủ những điều kiện nầy, thì những điều Người nói ở vế thứ hai mới được thực hiện; đó là “Anh em hãy xin bất cứ điều gì anh em muốn, điều ấy sẽ được thực hiện cho anh em” (c. 7b). Mệnh lệnh “Anh em hãy xin”, kết thúc lý luận của Gioan, tương ứng và không thể tách lìa với mệnh lệnh ở trên (c. 5) như thế nầy: Anh em hãy ở lại trong tôi và anh em hãy xin bất cứ điều gì anh em muốn. Đoạn 15,1-8 được kết luận (c. 8) với khẳng định là Chúa Cha được tôn vinh bởi việc sinh nhiều trái và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Chữ “môn đệ” xuất hiện ở vị trí cuối cùng của câu kết nầy tóm tắt tất cả những gì được đề cập ở trước: trở nên môn đệ của Chúa Giêsu là lưu lại trong lời của Người và qua đó sẽ sinh hoa kết trái trong Người.

 

Đây là chỗ duy nhất trong Kinh Thánh cho thấy Chúa Cha, người trồng nho, không những hài lòng mà còn được tôn vinh bởi cây nho của mình. Chính bởi vì cây nho ấy là Con của Người luôn sinh trái ngon ngọt theo ý muốn của Người; và cũng thế tất cả những ai lưu lại trong Người Con ấy.

 

17. Cây nho.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Người trong một biểu tượng là cây nho và cành nho.

 

Chúa Giêsu nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”. Cây nho là biểu tượng Kinh Thánh rất nổi tiếng trong dân Thiên Chúa. Biến cố dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai cập và được đưa vào ở trong Đất Hứa đã được Thánh Vịnh mô tả như sau: “Gốc nho này, Chúa bưng từ Ai cập, đuổi chư dân lấy chỗ mà trồng”.

 

Chúng ta cũng biết khi cây nho sum xuê, um tùm quá thì việc tỉa cành là cần thiết. Chúng ta cũng biết cành nho thì chẳng làm được gì, bởi vì nó quá mềm, chỉ còn có cách quẳng vào lửa mà thôi. Chúng ta cũng biết “Cành nào không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho”.

 

Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta hãy ở lại trong Chúa. Nhưng “Ở lại trong Chúa” nghĩa là gì?

–      Trước hết, ở lại trong Chúa là lắng nghe và tuân giữ lời của Chúa. Trên thực tế, chúng ta có thể từ chối việc lắng nghe lời Chúa, hay chúng ta có thể lắng nghe nhưng chẳng thực hành lời Chúa dạy. Chúng ta cũng có thể đón nhận Đức Giêsu như là Chúa rồi lại chối bỏ Người khi chúng ta gặp phải những cơn thử thách, những chước cám dỗ.

–      Thứ hai, ở lại trong Chúa là nhận biết Chúa Kitô chính là cây nho thật, không có Người, chúng ta không thể làm một điều gì có giá trị trước mặt Thiên Chúa.

–      Thứ ba, ở lại trong Chúa là sống trong Giáo Hội của Chúa vì đó là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.

–      Thứ bốn, ở lại trong Chúa là nhìn thấy Chúa hiện diện trong tất cả mọi người và mọi biến cố, ngay cả trong các kẻ thù của chúng ta và trong những điều mà chúng ta không thích.

–      Thứ năm, ở lại trong Chúa là tích cực lãnh nhận các bí tích và sống đời sống cầu nguyện.

–      Cuối cùng, ở lại trong Chúa là xác tín có một nhu cầu cần cắt tỉa những cơ cấu, những phương pháp, những lối tiếp cận và những điều khác nữa khi chúng ta trở nên già cỗi, lỗi thời để mở ra một con đường cho những điều mới, và việc đổi mới cứ phải diễn ra mãi dựa trên nền tảng là chính Chúa Kitô là cây nho thật.

 

Lạy Chúa, khi con bị thử thách cám dỗ xin Chúa giữ chặt con, đừng để con xa lìa Chúa bao giờ.

 

 

18. Cây nho

Ở nước Do Thái, cây nho là một loại cây rất quen thuộc như cây lúa, cây bắp ở Việt Nam. Nghề trồng nho là một trong những nghề chính và là một trong những nông phẩm chính của miền Palestine, là nơi có khí hậu và đất đai rất thích hợp với cây nho. Vì thế, đối với dân Do Thái, vườn nho và cây nho là hình ảnh rất lâu đời, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, một dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Một cây nho thì gồm rễ, thân, cành và lá. Một cây nho có đẹp là nhờ có hoa lá cành, nếu chỉ có thân không thôi thì xác xơ, trơ trụi. Dù sao thì mọi phần trong một cây nho đều cần nhau: cây cần phải có cành, nếu không có cành làm sao mang được hoa trái, và hoa trái cũng cần lá cành để che nắng, che sương và dự trữ nước. Nhưng có một điều chắc chắn là cành phải hoàn toàn cần tới thân, nếu cành cắt lìa thân nho thì cành sẽ khô héo và chết.

 

Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người cần phải liên kết với Chúa Giêsu thì mới sống và sống mạnh. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, chúng ta cần hiệp nhất với Chúa, như Chúa đã nói: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Thực vậy, chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong, sống nhờ và sống với Chúa Giêsu. Yếu tính của con người là luôn vươn lên, tìm về tuyệt đối. Con người có nhiều bậc thang giá trị sống: khi bụng đói, họ chỉ nghĩ tới ăn trước tiên. Khi no bụng, dư dả để giải quyết vấn đề bao tử rồi, họ lại thấy cần cái khác là may mặc. Dư dả về ăn uống và may mặc rồi, họ bắt đầu thấy thiếu những nhu cầu tri thức, nghệ thuật, và tiến đến nhu cầu tâm linh. Con người bấy giờ thấy rằng không thể hài lòng với cuộc sống hiện tại, không thể chấp nhận bị tiêu tan vô lý theo với cái chết kết thúc cuộc đời, họ muốn vượt khỏi những giới hạn của trần gian, muốn tung vũ trụ này để “du hành” vào một cõi thần thiêng. Thế nhưng con người không thể tự giải phóng mình, phải nhờ Thiên Chúa, nhờ một nhân vật ở cõi thần thiêng. Thì chính Chúa Giêsu là mầm giống siêu nhiên được Chúa Cha cấy vào sự sống tự nhiên của con người, để họ có khả năng phát triển và trưởng thành vào cuộc sống thần thiêng. Nói rõ hơn, chúng ta phải kết hợp với Chúa Giêsu, là huyết mạch duy nhất để chúng ta thực hiện và hoàn thành ước mơ được vào cuộc sống thần thiêng, phạm vi cứu rỗi, điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Chúng ta lấy vài thí dụ: có bao giờ chúng ta thấy một bóng đèn điện bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Một nhành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng khô héo, bề ngoài có thể là thành công trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể, nhưng chúng ta đang đi đến chỗ hư hỏng. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, là bí tích quan trọng và hiệu năng nhất để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.

 

Đó là về phía Chúa và chúng ta, tức là giữa thân cây nho và cành nho, còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, nâng đỡ nhau, kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, bất cứ cái gì và phạm vi nào cũng cần cộng tác, hòa hợp với nhau: một viên thuốc cũng là do phân lượng các chất hợp lại thứ nhiều thứ ít; một bức tranh có đẹp cũng là do các mầu sắc khác nhau dung hòa nhau; một bản nhạc hay cũng là do các nốt gom lại trầm bổng khác nhau mà thành. Vậy thì trên đường về nước trời, chúng ta thật sự phải cộng tác với nhau, giúp đỡ nhau, lá lành đùm bọc lá rách bằng đời sống cầu nguyện, đời sống bí tích, đời sống bác ái. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống ấy sẽ cằn cỗi khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống chuyển sang cho những cành khác. Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình cũng được ví như thế, được sánh ví như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông sự sống của Chúa cho anh em bà con của mình, để tất cả cùng sống tốt đẹp. Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong một cây nho, các cành khác chết khô, úa tàn, còn lại một cành xanh tươi, thì hỏi cành đó có gì đẹp không? Hay nói khác đi, đời sống mà chỉ một mình ta sung sướng, còn anh em mình khổ, bất hạnh, thì hạnh phúc của mình có thực là hạnh phúc không?

 

Tóm lại, chúng ta là các cành nho, chúng ta cần phải liên hệ, liên kết mật thiết với thân cây nho là Chúa Giêsu để nhận được nhựa sống. Liên hệ và liên kết với Chúa bằng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đồng thời chúng ta cũng phải liên hệ và liên kết với nhau. Rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, nên chúng ta đã sống “mình vì mình và mọi người vì mình”, như thế là ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy “cái tôi” của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Chính vì chỗ chúng ta coi người khác không ra gì mà chúng ta nghĩ rằng mình sống không cần tới người nào khác, nhưng trên thực tế, trong bất cứ lãnh vực nào chúng ta cũng cần đến nhau. Cho nên, dù chúng ta là ai, chúng ta vẫn cần có nhau, giúp đỡ nhau.

 

 

19. Kitô hữu công chức.

Qua phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi xin trình bày hai hình ảnh sai lạc về người tín hữu.

 

] Hình ảnh thứ nhất đó là hạng người tín hữu vay mượn, giả nhân giả nghĩa, tựa như quạ mượn lông công, cáo mượn oai hùm. Thực vậy rảo bước trên đường phố, chúng ta có thể đọc được những tấm bảng quảng cáo, tại đây có cho mướn áo quần, cho mướn xe hơi và nhiều thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác. Những ai không có khả năng tài chánh có thể đến đây thuê mướn.

 

Chẳng hạn như cô dâu vào ngày cưới, muốn cho mình được mô đen nên phải vận soirée, nhưng may một cái jupe kiểu này vừa tốn kém, lại vừa chẳng sẵn tiền. Hơn nữa, cả đời không biết mặc được mấy lần. Vì thế để cho tiện lợi mọi bề, bèn đến tiệm thuê luôn một cái. Hay như khi chưa có đủ tiền sắm xe hơi, chúng ta cũng có thể đến thuê trong một thời gian nào đó cần phải xử dụng. Chúng ta có thể xuất hiện trong những bộ quần áo sang trọng, ngồi trên một chiếc xe đắt tiền, đầy đủ tiện nghi, có tài xế đưa đón như một ông chủ. Thế nhưng đó chỉ là một sự xuất hiện chóng qua với một chút hư danh. Người ngoài nhìn vào tuy cũng biết đó là những đồ đi mượn, đi thuê, nhưng họ vẫn sẵn sàng cất lời khen ngợi. Còn chúng ta, mặc dù biết rằng đó chỉ là những lời khen ngợi xã giao và bôi bác, nhưng lắm lúc chúng ta vẫn thích, vẫn tự hào và hãnh diện.

 

Trên phương diện đức tin, cũng có những người Kitô hữu giả danh. Họ mượn danh nghĩa là Kitô hữu, để đi lễ, đọc kinh mà che dấu những ý đồ đen tối, như tục ngữ đã diễn tả:

Miệng nam mô bụng bồ dao găm.

Bên ngoài thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm giết người không gươm

Đây là một kiểu đạo đức giả hình mà Chúa Giêsu đã từng lên án. Trái lại Ngài muốn chúng ta thật lòng quay trở về với Ngài, với Tin mừng để lãnh nhận ơn tha thứ và cứu độ.

 

] Hình ảnh thứ hai là hình ảnh người Kitô hữu công chức.

Báo chí đã nhiều lần đăng tải những vụ bê bối của các vị tai to mặt lớn, chẳng hạn như tổng thống, bộ trưởng, nghị sĩ hay dân biểu. Có người thì kết án gay gắt vì cho rằng thiếu tác phong đạo đức và đòi buộc phải từ chức. Nhưng cũng có người lại tỏ ra thông cảm, bởi vì ngoài giờ làm việc, những nhân vật này, dù có tai to mặt lớn đến đâu, thì cũng chỉ là một người và có quyền làm những việc riêng theo ý muốn, miễn sao không phương hại tới quyền lợi quốc gia.

 

Từ sự kiện trên, chúng ta hãy đi vào đời sống đạo đức. Liệu chúng ta có được phép là những Kitô hữu công chức hay không? Liệu chúng ta có được phép chia đời sống thành những ô nhỏ, mỗi ô là một việc chẳng hạn: ô làm việc, ô ăn uống, ô ngủ nghỉ, ô du hí và đức tin cũng như đạo đức chỉ là một ô nhỏ mà thôi? Chắc chắn là không, bởi vì chúng ta phải là Kitô hữu ở mọi nơi và trong mọi lúc, như lời thánh Phaolô: “Dù làm bất cứ việc gì, anh hãy làm vì Đức Kitô cho danh Chúa được cả sáng”.

 

Vì vậy không được phép có loại người tín hữu vay mượn, loại người tín hữu công chức, bởi vì hễ giây phút nào chúng ta xa lìa Chúa thì chúng ta sẽ bị tàn úa: Thày là cây nho, các con là ngành… ngành nào lìa cây sẽ khô héo dần. Trái lại, ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái. Điều đó nghĩa là có kết hợp cùng Chúa thì bản thân chúng ta mới an bình hạnh phúc và cuộc đời chúng ta mới đem lại thành quả tốt đẹp.

 

 

20. Sống liên đới.

Trước Công đồng Vatican II, nói đến tổ chức cơ cấu của Hội thánh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh một kim tự tháp: ở chóp đỉnh là Đức Giáo Hoàng, dưới là các Hồng Y, Giám mục, Linh mục, phó tế, tu sĩ, và cái đáy dưới cùng là giáo dân. Hình ảnh này đưa đến một quan niệm không đúng về nhiệm vụ của mỗi thành phần, nhất là giáo dân, bị coi là thấp kém, chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời cấp trên.

 

Nhưng từ Công đồng Vatican II, hình ảnh trên đã được thay thế bằng hình ảnh có một tâm điểm là Đức Giêsu, từ tâm điểm này có nhiều vòng tròn đồng tâm: một vòng là các giáo sĩ, gồm các giám mục có Đức Giáo Hoàng đứng đầu, và các cộng sự viên là linh mục và phó tế; vòng khác là các tu sĩ; và vòng rộng lớn hơn là giáo dân. Hình ảnh này cho thấy mọi thành phần đều liên đới với nhau và tất cả đều qui hướng về trọng tâm là Đức Giêsu.

 

Một hình ảnh khác sâu sắc hơn, thánh Phaolô đã nói tới và nay được chú ý, đó là hình ảnh một thân thể, có Đức Giêsu là đầu, mọi người Kitô hữu, dù là giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ… đều là các chi thể của thân thể. Mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng, không ai thay thế được. Hình ảnh này diễn tả rõ hơn và đúng hơn mối hiệp thông giữa các thành phần với nhau và với Đức Giêsu; và cũng cho thấy rằng tất cả đều cùng có trách nhiệm thi hành sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó để xây dựng sự hiệp thông trong Hội thánh.

 

Nhưng tất cả những điều trên đây đã được chính Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là hình ảnh cây nho. Đối với dân Do thái, vườn nho và cây nho là một hình ảnh rất lâu đời, rất quen thuộc, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, một dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Sự liên kết và hỗ tương giữa thân cây với cành, và giữa các cành với nhau, đó là hình ảnh sự liên kết và hỗ tương giữa Chúa Giêsu với chúng ta, và giữa chúng ta với nhau.

 

Một điều hiển nhiên và rõ ràng là cành cây phải hoàn toàn cần tới thân cây mới sống được. Nếu cắt lìa thân nho, thì cành sẽ khô héo và chết. Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới sống và sống mạnh được. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, nghĩa là chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong Chúa, nhờ Chúa và với Chúa. Điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Cũng giống như bóng đèn điện: có bao giờ một bóng đèn bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Hay một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Hay một cành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Có lẽ nó có thể sống một vài ngày tạm bợ rồi sẽ chết khô.

 

Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ chết khô. Bên ngoài chúng ta có thể là thành công trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể… nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa Giêsu cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, bí tích quan trọng và hiệu năng nhất, để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.

 

Đó là về phía giữa Chúa với chúng ta, tức là giữa thân nho và cành nho. Còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, không ai chủ trương “mỗi người là một hòn đảo” mà sống tốt được. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống thì sẽ cằn cỗi, khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống truyền sang cho những cành khác.

 

Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình, cũng được ví như thế, được so sánh như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông cho nhau để tất cả chúng ta cùng sống và sống tốt đẹp. Thế mà trong cuộc sống rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, nên chúng ta đã sống”mình vì mình và mọi người vì mình”. Như thế là ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh chúng ta xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy “cái tôi” của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Là con cái Chúa, chúng ta không được sống như thế. Chúng ta cần có nhau, hãy nâng đỡ nhau, hãy thông cảm nhau. Đó chính là đạo bác ái của chúng ta vậy.

 

 

21. Yêu thương.

Bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan nhắc lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi Ngài chịu khổ nạn và sau khi Giuđa, kẻ phản bội Chúa đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài.

 

Chúa Giêsu đã căn dặn các Tông đồ rằng: “Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và điều quan trọng là chúng ta có thi hành lệnh truyền này hay không? Vì thế mà có những hậu quả thật nghiêm trọng, đó là hậu quả của sự sống và sự chết.

 

Thánh Gioan tông đồ nơi thư thứ nhất có đoạn viết như sau: “Nếu chúng ta yêu thương anh em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh em thì ở trong sự chết, vì phàm ai ghét anh em mình đều là kẻ sát nhân”. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu Ước. Quan niệm của luật cũ là: “Yêu thương anh em như chính mình ngươi”, được Chúa Giêsu đổi lại trong luật mới là: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

 

Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chuẩn mực, nhưng phải phát xuất từ chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy. Giới răn mới của Chúa được đồng hóa với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa như lời Kinh Thánh đã chép: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Vì ai yêu mến Chúa thì cũng phải yêu thương anh em”. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của con cái Chúa, làm cho chúng ta thuộc về Chúa, trở nên môn đệ Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”.

 

Nói lên những điều này chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Giữa những bài giáo lý mà chúng ta đã học từ nhỏ, những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta đều hiểu được như vậy và nói được: “Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Nhưng nếu chúng ta sống thực với những điều này mới là việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Ngài từ giã các tông đồ, trước khi Ngài hoàn tất sứ mệnh cứu rỗi là chấp nhận chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống mình để minh chứng tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa Cha và với mỗi người chúng ta.

 

Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ Chúa Giêsu đã nói: “Bây giờ thì Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa Cha được vinh hiển nơi Ngài”. Vinh hiển qua hành động hy sinh vì tình yêu của Chúa Giêsu, đồng thời Ngài muốn chúng ta sống như thế để làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cách sống giới răn yêu thương mà Ngài đã truyền dạy chúng ta. Liền sau đó Chúa nói rằng: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

 

Chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy, nhưng chính những hy sinh nhỏ nhặt hằng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm mới minh chứng tình yêu của chúng ta, mới nói lên mối tình yêu thương thực sự của chúng ta và đó cũng chính là sống cách thiết thực đối với anh chị em. Chúng ta có thể phục vụ anh chị em trong những công việc nhỏ nhặt hằng ngày, những điều đó không ai trông thấy, những điều đó chúng ta cần thực hiện hằng ngày để tôn vinh Thiên Chúa.

 

Trong dịp tiếp xúc và nói chuyện với một người vô thần, một người vô thần đã thốt lên: “Nếu những người Công giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sức tốt đẹp và có thể chúng tôi cũng sẽ tin theo”. Câu nói này nhắc lại trách nhiệm của mỗi người chúng ta là sống điều chúng ta tin. Nếu chúng ta sống điều chúng ta nói, chắc hẳn có rất nhiều người sẽ tin theo Chúa Kitô, và như vậy chúng ta đều có thể nói: “Chúa dạy mình yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em như chính Chúa đã yêu thương”.

 

Vậy thì chúng ta hãy cố gắng sống yêu thương hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chị em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi họ được hướng dẫn tin nhận Chúa là Cha và tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất và họ gia nhập cùng với chúng ta trong một cộng đồng duy nhất là Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập, cộng đoàn của những người yêu mến Chúa và yêu thương anh em, cộng đoàn của những người sống tốt lành để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin kính.

 

 

22. Cây nho thật – Lm. FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Các chương 15 và 16 không ăn khớp với ngữ cảnh, bởi vì làm thế nào có thể liên kết chúng với câu cuối cùng của ch. 14: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”? Nhiều nhà chú giải cho rằng sau khi đã rời bàn ăn, Đức Giêsu lại tiếp tục trò chuyện với các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly hoặc trong một phòng kế cận (Maldonat, Schanz, Knabenbauer, Calmes, Tillman). Nhưng ngưới ta không biện minh được là làm thế nào, sau một hiệu lệnh ra đi quá rõ như thế, mà lại còn có một cuộc trò chuyện khá dài (86 câu). Do đó, có những học giả khác nói rằng Đức Giêsu vừa đi vừa nói chuyện (Godet, Fillion, Wescott, Swete). Tuy nhiên, giả thiết này chỉ hợp lý nếu ở miền quê, chứ không phải trong những con phố nhỏ hẹp như trong thành Giêrusalem, mà người ta phải đi qua trước khi đến thung lũng Kítrôn. Đã thế, người ta chỉ đến đó vào đầu ch. 18! Hai giả thuyết này cũng như giả thuyết về một bố cục khác cho các ch. 13­17 đều không đầy đủ và không được biện minh bởi truyền thống các thủ bản. Hợp lý nhất là giả thuyết cho rằng các ch. 15 và 16 là một phần do chính tác giả thêm vào sau (Lepin, Durand, Lagrange, Lebreton, Huby). Điều này hợp lý cả về nguyên tắc cả về thực tế: vì tác giả kể lại các kỷ niệm đã xa rồi trong thời gian, ngài cứ viết rồi lại bổ sung; do đó, bản văn có nhiều tầng soạn thảo. Để hỗ trợ cho nhận định này, chúng ta ghi nhận rằng các ch. 15 và 16 trình bày ba đề tài chính: sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu và với nhau dưới hình ảnh cây nho (15,1-17); sự thù ghét của thế gian đối với các môn đệ và loan báo những bách hại (15,18­16,4a); Đức Giêsu ra đi và ban các lời hứa cho thời gian Người vắng mặt (16,4b-33). Phần cuối cùng này có một đối tượng giống hệt ch. 14. Như vậy, đây là một bổ túc cho các kỷ niệm đã được bài diễn từ ghi lại. Về phân đoạn 15,1-17 cũng thế. Nếu giáo lý về sự hiệp nhất của Chúa Cha với Chúa Con không triển khai rõ bằng trong ch. 14, thì đề tài sự kết hợp của Đức Giêsu với các môn đệ, được triển khai bằng những từ ngữ rất sống động, và màu sắc Thánh Thể do sự lặp lại liên tục các từ ngữ như karpos, “trái” (8 lần), agapê, “tình yêu” (4 lần), mênô, “ở lại” theo nghĩa thần bí (11 lần), phải được liên kết với bài Diễn từ Thánh Thể (6,27-56), dường như cho thấy rằng bản văn có lẽ đã được nói trước ch. 14, nhưng trong quan hệ chặt chẽ với việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Còn khối 15,18­16,4a, ngay ở đểm nói về vai trò của Đấng Bảo Trợ (15,26), tương ứng với lời loan báo các bách hại của Bài Diễn từ cánh chung theo các TMNL (Mt 24,1-23 //) và chứa những lời thuộc về các hoàn cảnh khác. Hẳn là tác giả TM IV đã thêm các lời đó vào bài diễn từ sau Tiệc Ly để làm trọn phần giáo huấn các môn đệ, giống như Mt đã gom vào Bài Giảng trên núi những giáo huấn khác nhau của Đức Giêsu liên hệ đến luật sống Kitô hữu (Guillemette).

 

2.- Bố cục

Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).

Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:

A = 1-2

B = 3-4a

C = 4bcd

D = 5

C’= 6

B’= 7

A’= 8

 

3.- Vài điểm chú giải

– người trồng nho (1): Dịch sát geôrgos là người đào xới đất đai, người làm vườn.

– chặt đi … cắt tỉa (2): Trong tiếng Hy Lạp, có một kiểu chơi chữ ở đây do hai động từ có cùng âm điệu (paranomasia): airein (chặt) và kathairein (tỉa). Tuy hai động từ được dùng ở đây cho việc chăm sóc cây nho, dường như airein với nghĩa là “lấy đi, mang đi (= giết) và kathairein với nghĩa là “thanh luyện” được chọn ở đây không phải vì phù hợp với việc trồng nho, nhưng vì phù hợp cho những con người, đó là Đức Giêsu và các môn đệ.

– cắt tỉa … được thanh sạch (2-3): Ở đây cũng có một kiểu chơi chữ giữa katharei, “Người cắt tỉa” và katharoi, “được thanh sạch”.

– lời (3): Đây là toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu (x. Ga 5,38; 1 Ga 2,24). Chính giáo huấn của Người, một khi được lắng nghe và đón nhận, làm cho các môn đệ nên thanh sạch. Chính lòng tin gắn bó với lời giáo huấn của Đức Giêsu đã liên kết họ với cây nho và làm cho họ nên thanh sạch.

– ở lại (4): Động từ “ở lại” (menô) là động từ chính yếu của ch. 15 và của cả TM IV. “Ở lại” có nghĩa là bám chắc nhưng năng động vào những gì đã được ban cho trong quá khứ, nắm lấy nó trong hiện tại và nhìn tới tương lai theo chiều hướng của nó. Có thể theo nghĩa này mà hiểu các câu nói về người tín hữu phải “ở lại” trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1 Ga 2,10), trong Thiên Chúa (1 Ga 4,13-16). Còn với Thiên Chúa hoặc với Đức Giêsu, “ở lại” có nghĩa là bền bỉ ban ơn cứu độ cho các tín hữu (x. 1 Ga 2,27; 3,9.15; 4,12-15). Do trung thành, người tín hữu gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu Kitô và thấy rằng nơi Người, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho loài người mãi mãi. Sự trung thành này cũng hàm ý một sự tương giao năng động và sự hiểu biết tiệm tiến.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

Cho tới đây, trong bài Diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.

 

Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là a. 5 (D): “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật Dụ ngôn Cây nho thật tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến hoa trái, đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái) để được sống muôn đời […]. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra” (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy-lạp đến tìm Người, Người đã giải thích cho các môn đệ: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Đức Giêsu cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.

 

Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc “mang hoa trái”, chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ “nhiều hoa trái” (karpon pleiona / polyn pherein) ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả “sinh [mang] hoa trái” ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải kết hợp (mênô) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực (“ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”: c. 4a; “ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy”: c. 5b; “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em”: c. 7ab) và cách tiêu cực (“nếu không ở lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”: c. 4cd; “ai không ở lại trong Thầy”: c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu-cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và sẽ bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (airei: c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho (geôrgos) cắt tỉa (katharei: c. 2b) nhờ lời của Ngài (logos: c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại (menein) của lời Người (ta rhêmata) trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).

 

+ Kết luận

Như thế, hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự ở lại thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, đồng thời nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đoạn văn này trích từ bài Diễn từ thứ hai của Bữa Tiệc Ly. Muốn đọc và nhận được các ánh sáng phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh Thể là trung tâm của Bữa Tiệc Ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu Ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa ki-tô hữu và Đức Kitô.

 

2. Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vững chắc hơn. Sự cần thiết này càng lớn do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2).

 

3. Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giữ các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên kết với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.

 

4. Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người ki-tô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sáng suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa “cắt tỉa” linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.

 

5. Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn Cây nho thật, chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sức khỏe và sức sống của cây nho. Nhưng “sinh nhiều trái” không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.

 

23. Chú giải của Noel Quesson.

Thầy là…

Như Chúa nhật trước, chúng ta sẽ nghe Chúa Giêsu nói Người là ai. Chúng ta chú tâm lắng nghe Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải bằng những từ long trọng này: Con người, dân thành Nagiarét, con của Maria… dám dùng tên Chúa "Ta là Đấng Hằng Hữu” để tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng Tự Hữu.

 

Cây nho thật.

Đây là một kiểu nói vô cùng táo bạo đối với những thính giả đầu tiên của Chúa Giêsu. Trong toàn bộ Thánh Kinh hình ảnh "Cây nho" tượng trưng cho "dân Israel", bây giờ Chúa Giêsu coi như là một việc đương nhiên, Người tự cho phép mình chiếm chỗ của "cả một dân tộc". Người áp dụng cho chính bản thân Người nhưng gì đã được nói cho Israel. Và Người dám nói rằng chính Người là cây nho đích thật. Cây nho kia chỉ là một phác họa, một chuẩn bị, một "hình ảnh". Dân Israel xưa chỉ là một sự chuẩn bị cho "dân Israel mới" là Giáo Hội, là chính Chúa Giêsu. Và không phải Chúa Giêsu chỉ đưa ra lời khẳng định đáng ngạc nhiên này. Một lần Người đã nói: Người là bánh "đích thực" của sự sống (Ga 6); đối với Maria, Người đã nói Người là Mục Tử "đích thật" (Ga 10) đối lại với những mục tử giả và những kẻ làm thuê.

 

Vậy thì một lần nữa, con người bình thường, xuất thân từ một làng quê nhỏ bé trong một tỉnh của đế quốc La Mã, con người không quan trọng đó sẽ chịu chết trong vài tuần nữa, bị xã hội loại trừ, bị các môn đệ phản bội và chối bỏ, bị đối thủ khinh khi chế nhạo, bị mọi người bỏ rơi, Con Người đó dám tự cho là trung tâm của thế giới và của lịch sử – Có đúng không? hay Người chỉ là một con người?

 

Và Cha Thầy là người trồng nho…

Cha của Người là ai? Người đang nói về ai thế? Chúng ta quá quen với những kiểu nói này. Thực ra những kiểu nói trên diễn tả một điều nào đó không bình thường nhưng là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử những tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Dường như Chúa Giêsu đã luôn luôn gọi Thiên Chúa là "Abba", từ ngữ Aramên để gọi "Cha”. Kiểu nói này không phải của một người đàn ông trưởng thành mà là của một con trẻ. Kiểu nói trìu mến mà thánh Têrêsa Lisieux đã diễn tả Thiên Chúa, “Cha tốt lành của con". Vào thời thượng cổ, trong nền văn chương của Do Thái nói về nghi lễ phụng vụ cũng như về đời sống cá nhân, người ta không tìm được một cách cầu nguyện dùng tiếng "Abba" để nói về Chúa. Vì thế lời nói khác thường và thân thiện này đã gây ra sự khó chịu và nên cớ vấp phạm đối với những người đồng thời của Chúa Giêsu, lời này thường được dùng trong tiếng Aramên bởi những cộng đồng tiên khởi dùng tiếng Hy Lạp (Mc 14,36; Mt 26,39; Lc 22,42; Ga 14,31; Rm 8,15; Gal 4,6).

 

Vâng, trong toàn bộ Kinh thánh "Người trồng nho" của Israel chính là Thiên Chúa, hình ảnh truyền thống này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân của người (Gr 2,4; Ed 15,2; Os 10,1; Tv 80,9).

 

Cành nào gắn liền với thầy mà không sinh hoa trái thì người cắt tỉa cho nó ra nhiều quả hơn.

Sự so sánh của người trồng nho rất thực tế: Mùa đông ông ta cắt bỏ trành khô và đốt, ông tỉa một phần để cô đọng nhựa làm cho sinh nhiều trái hơn. Một cây nho không được cắt tỉa chỉ sinh lá -Những người trồng nho nói rằng: Khi người ta cắt tỉa cây nho cây này "khóc". Trước khi vết cắt được lành, một số nhựa dồi dào chảy ra. Cũng vậy, gặp cơn thử thách lòng chúng ta cũng khóc khi bị đau khổ.

 

Người nào đã đi thăm một vườn nho vừa được cắt tỉa, sẽ ngạc nhiên về những cành nho bị "hy sinh" để cây nho cho "nhiều quả hơn". Nếu không biết, ta có thể phê bình người trồng nho "Tại sao lại có nhiều đau khổ như thế này trên thế giới". Thưa ông trồng nho, tại sao ông cắt bỏ nhiều cành thế? Tại sao ông làm cây chảy máu? Hãy đợi đến mùa thu hoạch lúc đó anh sẽ hiểu. Và Chúa Giêsu, cây nho đích thật được Chúa Cha yêu mến đã bị "cắt tỉa" trước tiên. Oi sự cắt tỉa bi thảm thay! ôi; cây thập giá bên ngoài bị tàn phá, nhưng mang lại: "nhiều quả hơn". Đó là hình ảnh công việc của Thiên Chúa trong Giáo Hội và trong chúng ta, Người tỉa, xén, thanh tẩy. Việc này gây đau khổ, nhưng đây là quy luật của cuộc sống, để cho mùa thu hoạch tốt đẹp hơn.

 

Nhưng anh em được thanh sạch rồi nhớ lời Thầy đã nói với anh em.

Đáng lẽ ra khi tỉa xén, người tín hữu phải lắng nghe lời Chúa để khám phá được sự phong phú của sự thanh tẩy này. Người nào chấp nhận bị tỉa xén theo gương Chúa Giêsu và kết hợp với Người, người ấy có thể tìm thấy ý nghĩa trong cơn thử thách của mình. “Hãy luôn luôn kết hợp với Thầy như Thầy luôn kết hợp với anh em ". Lời Chúa trên đây làm cho tín hữu khám phá được rằng, đau khổ kết hợp họ với Chúa Giêsu và làm cho họ ở "trong người".

 

Động từ "ở" sẽ được dùng trong 6 câu sau này. Hình ảnh thật cảm động: Chúng ta có thể "ở” trong Chúa Giêsu, và Người "ở" trong chúng ta, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như những nhánh trong một cây nho, được tháp nhập vào Người cách sống động: Từ Chúa Kitô đến chúng ta, chỉ có một dòng nhựa lưu chảy, một sự sống duy nhất truyền lan mà thôi.

 

Chữ "ở" này không chỉ có nghĩa là ở lại, cư ngụ, nhưng là sống ‘với’, đây cũng là một đề tài xuyên suốt Thánh Kinh. Ước vọng lớn nhất của con người là thấy Thiên Chúa ở với dân của Người: "Người đã dựng lều trong trại của chúng ta, giữa những lều du mục của chúng ta". "Người đã xây một nhà trong thành phố chúng ta, giữa những nhà của chúng ta". Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Không chỉ là một sự đối diện mà là "Người này ở nhà người kia". Một mối liên quan mới kết hợp con người với Thiên Chúa, một sự mật thiết hỗ tương. Chúa Giêsu dùng lại kiểu nói xưa của Giao ước: "Các ngươi sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi". Nhưng Chúa Giêsu đào sâu hơn bằng cách nói về một sự kết hợp hỗ tương: “Anh em hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong anh em". Khi nghe lời này, chúng ta phải nghĩ đến phép Mình Thánh Chúa, Bí Tích tuyệt hảo của giao ước, dưới biểu tượng bánh mà chúng ta dùng hằng ngày. Bí tích này làm cho "Chúa Giêsu hiện diện” trong nội tâm sâu kín nhất của chúng ta. Chúa Giêsu đã dùng cách nói này trong bài diễn văn nói về bánh hằng sống (Ga 6,56): "Kẻ nào ăn thịt Ta và uống Máu Ta sẽ ở trong Ta, và Ta sẽ ở trong người đó". Dựa vào mạc khải này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng.

 

Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không kết hợp với Thầy.

Người nói quá đáng chăng: Đòi hỏi quá chăng! Người xác quyết: Kết hợp với Người là một điều cần thiết để được sống. Người cũng nói rằng, kẻ nào không kết hợp với Người thì "đã chết", như cành khô chỉ còn đem vào lửa. Con người không có Thiên Chúa sẽ đi về đâu? Nếu bạn hỏi, đa số người ta sẽ trả lời: Cuộc sống của họ sẽ chấm dứt bằng cái chết và sự hư không. Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu có một tư tưởng căn bản hơn: Người không nói về tướng lai nhưng nói về hiện tại.

Không có Thầy, anh em không làm được gì. Ai không kết hợp với Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta nhặt lấy, ném vào lửa cho nó cháy đi.

Khi nghe, con người có thể khước từ sứ điệp này: Con người được tự do – Nhưng nguy hiểm thay. Con người không thể làm giảm nhẹ Tin Mừng được. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự đặt mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, và đối với Chúa Giêsu, sự lệ thuộc này giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì ngăn cản chúng ta sống" . Kẻ nào khước từ không kết hợp với Chúa Giêsu sẽ có "một cuộc sống" rất tầm thường, cuộc sống của con người hay chết, một cuộc sống mà nếu chúng ta trách Chúa về cuộc sống đó chúng ta sẽ có lỗi (các bạn hãy nhìn xem sự đau khổ vô lý của kiếp người này). Chúa đã không tạo dựng chúng ta để sống "một cuộc sống quá tầm thường" mà cái chết sẽ thắng. Chúa tạo dựng chúng ta để sống "cuộc sống thần linh của Người".

 

Thầy là Cây nho và anh em là Cành nho. Ai luôn kết hợp với Thầy và Thầy luôn kết hợp với người ấy sinh hoa kết quả dồi dào.

Sinh hoa kết quả: Kiểu nói này được lăp lại 6 lần trong vài dòng. Đó là những gì của Chúa Giêsu đã đề nghị với nhân loại. Thiên Chúa không khinh thường con người. Người không đặt ra một cái bẫy để hại con người khi tạo dựng nên con người. Nếu chúng ta suy nghĩ những lời này cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ hiểu được sâu hơn là khi chỉ đọc phớt qua, Chúa Giêsu không tự xem mình là "thân cây" nho (như vài bản Tin Mừng đã dịch sai) mà trên cây đó mọc ra những "cành" là chính chúng ta. Người tự ví mình như "Toàn cả Cây nho", mà chúng ta là một phần. Thánh Phaolô, khi suy niệm về hình ảnh cây nho, và về Bí Tích Thánh Thể, sẽ nói rằng chúng ta là "chi thể của Thân mình Chúa Kitô”.

 

Chúng ta là một phần của Thiên Chúa, một phần của Chúa Giêsu, chúng ta là "con trong Ngôi Con", là những người sống trong Đấng hằng sống duy nhất. Người ta nói rằng tại Nagiarét có một cây nho, mỗi năm sinh ra được từ 350 đến 370 chùm.

 

Anh em sinh hoa kết quả dồi dào và trở thành môn đệ của Thầy, thì đó là tôn vinh Cha của Thầy.

Thiên Chúa Ngôi Cha là nguyên thủy và chung cuộc của đời sống Cây Nho. Chính Người là người trồng nho, tỉa bớt những cành không sinh quả và cắt xén những cành tươi tốt. Chính Người sẽ vui mừng vào mùa thu hoạch đang được chuẩn bị. Đối với những người có đức tin, đó chính là huyền nhiệm của tình yêu.

 

24. Tại sao cành phải liền thân?

(Suy niệm của Lm. Raphael Amore Nguyễn)

1. Tình yêu và tham lam

Có hai thầy tu nọ sống với nhau đã 40 năm trời, họ chưa bao giờ cãi cọ, dù chỉ một lần. Cho đến một ngày nọ, người này nói với người kia: “Này, anh bạn không nghĩ đã đến lúc chúng ta phải cãi nhau, ít nữa một lần sao?” Người kia đáp: “Đúng vậy, nào chúng ta hãy bắt đầu! Nhưng chúng ta bắt đầu cãi nhau về chuyện gì?”

 

Người này bảo: “Về chiếc bánh mì này được không?” “Được, hãy tranh luận về chiếc bánh này. Chúng ta sẽ làm thế nào đây nhỉ?” Người này liền nói: “Chiếc bánh này của tôi; nó thuộc về tôi.” Người kia đáp: “Nếu thế, thì bạn hãy lấy nó đi”.

 

Sở dĩ cuộc sống có xích mích và giận hờn, là do chính cái ngã to lớn có trong con người. Khi cái ngã càng trở nên bé nhỏ, sự bình an sẽ càng lớn. Cái ngã sẽ huỷ hoại sự bình an. Bình an chỉ có trong những trái tim mềm mại và trải rộng. Trái tim xơ cứng hoặc khép kín sẽ không thể cho được bình an. Cái ngã chỉ có làm một công việc duy nhất, đó là cột chặt trái tim lại – một trái tim bị ràng buộc. Trái tim này, vì thế, được gọi là ích kỷ. Và, những ai có trái tim này sẽ khổ đau, khổ đau cho chính mình, và làm cho người khác cũng đau khổ.

 

Tình yêu chỉ trở nên đúng nghĩa khi cái ngã không còn nữa. Hay nói cụ thể hơn, khi ta yêu, ta không còn là ta nữa. Thế giới cũ của ta sẽ biến mất nhường chỗ cho thế giới mới mẻ. Tại sao vậy? Khi yêu, là đi vào mối tương quan. Ta yêu cây yêu cỏ, ta nghĩ đến chúng, ta bảo vệ chúng, ta chăm sóc chúng, ta chờ đợi chúng lớn lên. Ta vui khi chúng lớn lên từng ngày và mạnh khoẻ.

 

Có bé trai nọ, vui mừng khi những chó con ra đời. Nó đi học cũng nhớ cún, nó học xong là quăng tập vở dưới sàn nhà, chạy ra nâng niu những chú cún con, nó nhịn uống sữa của nó để dành cho cún, nó đút từng thìa vào miệng cún, nó vui mừng khi cún và nó hiểu nhau.

 

Vì thế, yêu có nghĩa là đi vào mối tương quan giữa ta và đối tượng. Đi vào mối tương quan, có nghĩa là đi vào nguy hiểm, là liều mình. Liều mình, là vì ta chấp nhận không còn là ta như xưa nữa, mà trở thành cái ta khác. Vẫn có nhiều chàng thanh niên đã từng là tay bợm rượu, nhưng khi lấy vợ thì tay ấy không đụng một giọt rượu nào! Cho dù bị bạn bè cười chê là sợ vợ. Vẫn thấy đó đây những cô nàng, khi chưa yêu thì không bao giờ hề đụng vào bếp, nhưng khi đã có tình yêu, bỗng dưng nàng biết nấu ăn ngon, làm bánh và pha café! Người ta vẫn thường nói,“love makes wonders” rất là chí lý. Tình yêu luôn làm nên những việc diệu kỳ.

 

Vâng. Phải can đảm lắm mới dám yêu, vì yêu là dám ra khỏi mình để thiết lập mối tương quan. Tương quan như là sợi dây nối hai thế giới xa lạ – hai cái tôi khác biệt. Sợi dây càng thu hẹp lại thì tình yêu càng lớn. Tình yêu sẽ trọn vẹn khi sợi dây đó không còn nữa, vì hai thế giới đã trở nên một, không gọi là tương quan nữa, vì “mình với ta tuy hai mà một” rồi vậy. Khi sợi dây vẫn còn dài, có nghĩa là hai thế giới vẫn không chạm nhau được. Người ta có thể ngộ nhận là tình yêu, nhưng đó chỉ là xã giao bề mặt, chỉ là kinh doanh buôn bán lẫn nhau, chỉ là sự đổi trác đôi bên đều có lợi nào đó. Không lạ gì, trái đất ngày hôm nay có nhiều người đang sống như thế, cho nên nảy sinh nhiều cuộc ly dị, nhiều tình bạn đổ vỡ, nhiều vụ tự tử, nhiều kẻ bị tâm bệnh, nhiều người nóng nảy không thể tự chủ… Căn nguyên là hầu như phần lớn không mấy ai hiểu được tình yêu. Ai cũng nghĩ mình biết yêu, ai cũng nghĩ tình yêu là đẹp. Đúng! Tình yêu là đẹp, là vĩ đại hơn bất cứ điều gì trên trần gian này, vì tình yêu mở cửa Thiên Đàng. Nhưng thực tế, con người hôm nay lại chỉ thấy cửa Hoả Ngục.

 

Khi sợi dây tương quan không còn, khi hai thế giới xưa kia khác biệt giờ đây đã hoà nhập làm một để trở thành một thế giới mới – đó là thế giới của tình yêu. Thế giới này không phải để chiếm đoạt, thống trị, thao túng, điều khiển, nhưng đểhướng đến tự do và bình an mãi nơi nhau. Không thể nào có tình yêu khi một trong hai bên muốn phụ thuộc hay bị phụ thuộc. Phụ thuộc là không tự do. Khi ta làm tất cả mọi sự cho người mình yêu, nhưng khi người kia cảm thấy không thể sống thiếu ta, hay không thể không thể sống được khi ta hết cung cấp những gì là bên ngoài, là trau chuốc cho vỏ bọc, thì ta đang làm cho người yêu ta trở nên phụ thuộc vào ta. Đây chỉ là sự ích kỷ của ta, là sự tàn nhẫn nhất, vì ta đang làm cho đối tượng bị thương mà không thể kêu đau. Triết gia Phạm Công Thiện nói: “Trong dòng sinh diệt thời gian, Tình Yêu vẫn bất diệt vĩnh cửu sẽ vượt thời gian và không gian. Ai nghĩ khôn khéo cho chính mình là người sẽ biết đối xử tốt với người khác, vì rằng, cuối cùng về lâu về dài, chính kẻ ấy sẽ được nhiều lợi lộc. Tôi gọi đó là ích kỷ cách trí tuệ”.

 

Trong tiếng Anh, chữ love tưởng như bắt nguồn từ tiếng Latinh là amor, nhưng không phải, mà nó lại bắt nguồn từ tiếng Phạn (Sankrit) là lobha. Nguyên nghĩa Lobha có nghĩa là sự tham lam. Tình yêu là trải rộng, cho đi, sống cho, sống vì; còn tham lam thì ngược lại, là thu vén, chiếm giữ, thống lĩnh, chỉ biết nhận, biết lấy. Chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học, chúng ta cũng đủ thấy rằng cha ông ta xưa kia rất uyên thâm về cuộc sống như thế nào mới sử dụng ngôn từ bên phương Đông một cách độc đáo như thế. Thật vậy, tình yêu và tham lam cũng đang trộn lẫn vào mỗi con người chúng ta. Có không ít cha mẹ người Việt bắt con cái học đủ thứ, và còn lên kế hoạch tương lai cho chúng, làm chúng phải “chạy” bở hơi tai. Cha mẹ kỳ vọng vào chúng, và rất hãnh diện khi chúng thoả mãn niềm ước mong của chính mình. Như vậy, không phải cha mẹ có tình yêu với con cái, nhưng chính là thống trị chúng trong lòng tham khôn khéo của mình. Con cái được đối xử như những món trang sức để tăng vẻ đẹp của bản thân cha mẹ. Tình yêu là sự sống, lòng tham thì đưa đến cõi chết. Chính vì thế, nhiều người con quá căng thẳng, hay quá bế tắc đã tìm đến cái chết, hoặc phản ứng ngược lại như quậy phá, chơi bời, bụi đời… Vì chúng không còn thấy chúng nữa. Chúng bị tước mất tự do. Chúng ta dễ ngộ nhận tình yêu, vì hầu như chúng ta sống tham lam thông qua chiếm hữu, điều khiển, thống lĩnh hơn là yêu đúng nghĩa.

 

Sự tham lam sẽ không làm cho hai thế giới chạm vào nhau để sinh ra tình yêu được. Người tham lam không dám liều để yêu, vì họ sợ mất thế giới của riêng mình. Họ cho rằng khi thế giới bên trong của mình bị đánh mất, thì họ sẽ chết. Nhưng họkhông biết được rằng, chính khi thế giới cũ của họ mất đi, thì họ mới sống viên mãn. Chính vì thế họ ra sức giữ gìn, bảo vệ. Chỉ có người nào biết trải rộng, có nghĩa là dám liều, dám bỏ trung tâm mình để đi sâu vào trung tâm của đối tượng, mới có kinh nghiệm sự sống viên mãn này.

 

2. Cành liền thân

Hìnhảnh cành nho gắn liền với thân cây nho trong Tin Mừng Gioan mà Chúa Giêsu diễn tả cho các môn đệ là hình ảnh thật đẹp về tình yêu.

 

Trước tiên, thiết tưởng cũng nên nhắc lại, Tin Mừng theo thánh Gioan là Tin Mừng vềtình yêu, hay còn gọi là thần học về tình yêu. Tình yêu của Gioan là một thếgiới mới – một thế giới được tạo dựng nên bởi hai thế giới cũ xưa kia của hai đối tượng can đảm dám liều. Đây là thế giới mà Chúa Giêsu gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Như ở đây, có nghĩa là Chúa Giêsu muốn hướng chúng ta đến cội nguồn Tình Yêu của Ngài để kín múc, để tắm gội và để hoà tan vào trong toàn thể châu thân của ta, và từ đó chúng ta sẽ tưới gội cho đồng loại đang khao khát. Tình yêu theo Thánh Gioan là con người cần phải kín múc nơi nguồn mạch yêu thương từ Chúa Giêsu thì con người mới có tình yêu đúng nghĩa, và từ đó, để trao ban.

 

Ở đây, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt. Không phải ta có tình yêu đúng nghĩa là do tự bản thân ta có, nhưng mà ta phải nài đến Chúa Giêsu để kín múc thứ tình yêu đó. Để có tình yêu đúng nghĩa và thật, chúng ta phải bước ra khỏi thế giới cũkỹ của mình để đi sâu vào Thánh Tâm của Ngài – Thánh Tâm vẫn không ngừng tuônđổ tình yêu cho con người. Tình yêu không kín múc từ Chúa Giêsu là tình yêu thếgian (x. Ga 15,19), còn tình yêu kín múc từ Ngài thì được gọi là tình yêu trongđiều răn mới, là tình yêu trải rộng cho đến vô cùng như Chúa Giêsu đã trải rộng cho đến chết trên Thánh Giá.

 

Và Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây nho để diễn tả về tình yêu qua một dòng nhựa lưu chảy từ gốc rễ lên thân, ra đến cành nhánh, rồi đến lá kết hoa kết trái. Toàn bộ cây nho đều được nhựa sống ban sức sống cho. Khi cành nho gắn liền vào thân nho có nghĩa là đã có chung một dòng chảy nhựa sống, cho nên tương quan biến mất, và chỉ còn lại sự hợp nhất giữa thân và cành. Đến đây, có một chi tiết nhỏ rấtđáng cho chúng ta suy nghĩ: điều quan trọng trong dụ ngôn cây nho chính là “cành nho”. Thánh Gioan đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ “ở trong” trong trình thuật này. Như thế, chúng ta không thể đặt dấu chấm hỏi nữa về gốc, về nhựa sống, về thân nho nữa, nhưng chính là liệu cành có ở trong, có gắn liền với thân không?

 

Thông thường phần đông chúng ta đòi hỏi đối tượng mình yêu hơn là chính bản thân ta. Có đôi cặp tình nhân nọ đi chơi với nhau. Nàng hỏi chàng: “Anh có yêu em không?” Chàng có vẻ tự ái, hỏi lại: “Thế còn em thì sao?” Và thế là, đôi bạn trẻ mang từ những chuyện quá khứ ra bàn cãi, nào là người yêu xưa của nàng, của chàng… Cuối cùng họ đi đến cãi nhau. Chúng ta thường nói nhiều về đối tượng trong tình yêu, nhưng không bao giờ biết tự hỏi: “Tôi thì sao? Tôi có phải là người yêu thật sự của người ấy không?” Khi chúng ta chỉ hỏi người khác, có nghĩa là chúng ta đang tham lam, đang chiếm hữu họ cách tinh tế. Đối tượng của chúng ta trở thành một con thú cho chúng ta thoả mãn. Họ không còn là người nữa trong cách xử sự của chúng ta. Vì thế, cũng thật chí lý khi người ta nói rơi xuống tình yêu (fall in love) Chữ yêu khó được hiểu đúng nghĩa của nó, nên phần lớn người ta không biết yêu, nên phần lớn đang từ trên cao người ta rơi xuống, từ cao đẹp rơi xuống nhỏ nhen, từ hồn nhiên rơi xuốnghậm hực, từ người rơi xuống thành con. Khi anh ta trả lời rằng có yêu, thì chị kia vẫn sẽ thắc mắc mãi trong tâm trí: “Liệu anh ấy có thực lòng không?”Làm sao chúng ta có thể chắc chắn về người khác được. Không thể nào xác quyết một cách tuyệt đối về một ai, khi mình thậm chí còn không dám chắc chắn vềmình. Nhưng cho dù anh ta phải trả lời triệu lần rằng anh ta yêu đó, thì lại càng nguy hiểm hơn vì sự thật không cần phải lập đi lập lại nhiều lần đến thế. Sự thật là sự thật, nó có ngôn ngữ riêng của nó. Chính vì thế, khi quan tổng trấn Philatô hỏi Chúa Giêsu trước khi đem ra xử tử: “Sự thật là gì?” Chúa Giêsu thinh lặng. Sự thật không nằm trong địa hạt lý trí hoặc cảm xúc. Sự thật không cần chứng minh hay phải lặp đi lặp lại.

 

Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tình yêu, đó là chính bản thân chúng ta. Chính chúng ta là chìa khoá mở cửa cho tình yêu toả sáng. Tình yêu đã có sẵn, đã chờ đợi, chỉ cần chúng ta can đảm đứng lên, đi đến tra chìa để mở cánh cửa ấy. “Hãy ở trong Thầy… Ai không ở trong Thầy…”. Chúa Giêsu như đã dọn sẵn tất cảnhững phần thưởng mà chúng ta khát mong nhất, và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Vì Ngài là Tình Yêu, nên Ngài không ép buộc, không chiếm hữu, không lôi kéo… chúng ta. Ngài mời gọi, còn chúng ta có quyền chối từ. Vì là Tình Yêu, Ngài muốn chúng ta tự do trong viên mãn. Ngài tôn trọng tự do chúng ta đến nỗi Ngài chấp nhận đau khổ khi thấy chúng ta vẫn chọn tách xa trung tâm của Ngài. Vì Tình Yêu, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta cách tuyệt đối, và Ngài đau khổ không phải vì Ngài sợ đau đớn, nhưng vì đau khổ với cái khổ đau của ta. Ngài chỉ cần chúng ta bước đến với Ngài, và chúng ta sẽ được toại nguyện: “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được”.

 

Lời mời gọi “ở trong” của Chúa Giêsu là lời mời gọi con người đi vào tình yêu của Ngài, để hai bên chỉ thở cho nhau, hoà quyện và hoà tan vào nhau như cành liền cây với nhựa sống tuôn chảy mãi bên trong. Chúa Giêsu mời gọi vì yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta đạt đến sự viên mãn nhất, là cứu cánh của con người chúng ta. Chỉ hoà quyện vào trong nhựa sống Ngài, chúng ta mới thể hiện chính mình cách tuyệt đối.

 

Tình yêu của Chúa tuyệt đối đến nỗi Ngài cho con người khả năng đáp lại hay khước từtrước tình yêu đó. Chính vì thế, khi con người được khả năng tự mình quyết định tất cả, ngay cả sống chết, ngay cả chọn cứu cánh đời mình như thế nào – một cứu cánh đưa đến hạnh phúc thật hay đưa đến trầm luân trong khổ đau – cho thấy Chúa tôn trọng con người cách tuyệt đối. Vì tình yêu, Chúa không muốn con người tách khỏi “thân nho”, vì tách khỏi thân là tự mình đánh mất hạnh phúc thật của mình.

 

Trong trình thuật về cây nho cành nho, chúng ta thấy đằng sau đó không chỉ là lời mời gọi yêu thương của Ngài để cho con người bước vào cứu cánh hạnh phúc của mình, nhưng hơn thế nữa, lời mời gọi đó của Ngài còn chất chứa sự van xin con người cho Ngài một ân huệ cuối cùng nào đó. Trong bữa tiệc cuối cùng, sự van xin đó rõ nét hơn khi Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để thức tỉnh các môn đệ. Trước khi chịu khổ hình và chịu chết, lời mời gọi ấy vẫn không ngừng biểu lộ qua thái độ cũng như lời nói và cho môn đệ tự chọn và tự quyết cứu cánh của mình: “Này Giuđa, anh dùng nụ hôn để nộp Con Người sao?” (Lc 22,48). Và chỉ có sự mời gọi của tình yêu chất chứa trong cái nhìn của Chúa Giêsu gởi đến cho Phêrô, Phêrô đã rung động và bừng tỉnh, ông đã bước ra khỏi chính mình để đi sâu vào tình yêu của Chúa. Giọt nước mắt lăn trên má của Phêrô là giọt nước tẩy rửa tấm gương soi cho ông thấy rõ thân phận hạn giới của ông trước tình yêu vô hạn của Thầy, cho ông thấy trung tâm ở trong ông còn xa trung tâm Thầy lắm. Giọt nước mắt này của Phêrô cho thấy từ trước tới giờ ông chưa ra khỏi chính ông để tạo nên tương quan, vì thế chưa từng nên một với Thầy. Phêrô đã quá kỳ vọng vào Thầy, quá mơ tưởng đến tương lai sáng lạn mà Thầy sẽ giải thoát dân tộc theo nghĩa chính trị. Càng kỳ vọng, càng thất vọng. Phêrô kỳ vọng vào Thầy vì Phêrô yêu chính mình. Phêrô không hiểu được tình yêu thật là gì. Cảnh tượng Thầy mình bị truy bắt và bị lôi ra xử tử đã làm đảo lộn mọi giá trị mà Phêrô đã có trong ông: Thầy của ông đang ở trước mặt ông cách trần trụi. Trần trụi là thuộc tính của tình yêu. Sự giả dối thì không trần trụi, vì nó được mặc nhiều lớp áo đẹp và hấp dẫn. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới dùng ngôn từ“Thầy là cây nho thật”. Khi hai người yêu nhau mà quá lịch thiệp với nhau, có nghĩa là cả hai đang giả dối.

 

Giả dối là ích kỷ và chỉ xảy ra trong mua bán đổi trác. Đôi tình nhân đó, thực sựhọ bên nhau, nhưng họ chưa từng gặp nhau, vì họ không cho trung tâm của nhau chạm vào. Họ không thể trở thành hơi thở của nhau nên họ chưa bao giờ có tình yêu. Vì thế, họ chỉ là trò chơi của nhau mà đôi bên đều vui. Tình yêu không phải là trò chơi hay tương quan suy tính lợi hại. Tình yêu là sức sống và sẽ thăng hoa nhân vị. Tình yêu thật thì mang tính tâm linh.

 

Cành nho gắn vào thân nho là sự trần trụi, là sự thật, vì cành và thân nho có nhưthế nào đều biết được lẫn nhau, vì họ có chung một dòng nhựa sống bên trong. Chính vì thế, tình yêu phải là sự hiệp nhất và chân thật. Thân nuôi cành và cành sẽ cho hoa trái.

 

Chúa Giêsu – là thân nho đã yêu thương sinh ra cành nho – con người chỉ có thể sống viên mãn khi gắn kết vào Ngài qua dòng nhựa sống của tình yêu không ngừng muốn chảy tràn trề trong họ. Để từ đó, tất cả những gì con người có đều là từ Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Mong sao, từng hơi thở ra-vào của chúng ta cũng chính là hơi thở trong Hơi Thở của Chúa. Từ đó, chúng ta mới có thể mạnh mẽ và nhiều nội lực để tiếp sức cho những ai đang thoi thóp và héo khô.

 

Chúa là dưỡng chất nuôi sống con người, nên việc ở lại trong Chúa là tối quan trọng để con người thể hiện tuyệt đối tự do và cứu cánh đời mình, ngoài ra, không còn chỗ nào khác. Chỉ có thân nho thật mới mang sức sống, thế mà phần lớn mọi người vẫn cứ bám vào những cây nho giả vốn được trang hoàng rất đẹp và nhiều lời gọi mời hứa hẹn rất hấp dẫn đang lan tràn trên khắp thế giới ngày nay… Cái thật thì thầm lặng, không nhiều lời, nhưng đang hiện hữu, ngay lúc này đây, dù cái thật có bị khước từ hay đón nhận, cái thật vẫn toả sáng toả hương, như những đoá hoa đồng nội, dù ai có ghét hay thương, hoa vẫn nở.

 

Lạy Chúa Giêsu, “nếu không có Thầy, chúng con không thể làm được gì”. Amen.

 

(102)

Bài đăng bởi Truyền Thông Giáo Xứ Tân Lộc

Pin It

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bạn có thể sử dụng các thẻ HTML và thuộc tính sau: