Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C – Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C

Lời Chúa: Kb 1, 2-3; 2, 2-4; 2Tm 1, 6-9.13-14; Lc 17, 5-10

Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38

MỤC LỤC

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN.. 3

  1. Đức tin. 3
  2. Đầy tớ vô dụng. 5
  3. Đức tin. 7
  4. Đức tin và những điều kỳ diệu. 9
  5. Làm điều phải làm.. 14
  6. Tin Tưởng Vào Chúa – An Phong. 17
  7. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 19
  8. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi 24
  9. Nếu các con có lòng tin. 27
  10. Hãy bật rễ lên. 31
  11. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi 34
  12. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc. 38
  13. Đức tin và người đầy tớ vô dụng. 40
  14. Xin thêm niềm tin cho chúng con. 43
  15. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest 46
  16. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller 48
  17. Phép lạ của lòng tin. 51
  18. Đức tin – McCarthy. 55
  19. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương. 58
  20. Đức tin và khiêm nhường – Veritas. 61
  21. Đức tin và khiêm nhường. 64
  22. Khiêm nhường và tin tưởng. 67
  23. Đức tin. 70
  24. Niềm tin. 74
  25. Đức tin giúp con người hạnh phúc. 78
  26. Máy thời gian – Lm. Vũ Minh Nghiễm.. 82
  27. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn. 87
  28. Đức tin trong bóng tối 90
  29. Chú giải của Noel Quesson. 92
  30. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ. 99
  31. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật 108

Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI. 113

  1. Mân côi 113
  2. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho hòa bình. 115
  3. Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình. 119
  4. Quà tặng. 125
  5. Lễ Mẹ Mân Côi 127
  6. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 130
  7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 134
  8. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới 138
  9. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin. 143
  10. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên. 148
  11. Phương thuốc thần diệu – Lm Ignatio Trần Ngà. 151
  12. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi 155
  13. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng. 159
  14. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa. 164
  15. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38) 168
  16. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng. 172
  17. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu. 176
  18. Đức Chúa ở cùng Bà. 180
  19. Tôi là nữ tỳ của Chúa. 183
  20. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 186
  21. Kinh Mân Côi 189
  22. Kinh Mân Côi 191
  23. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi – ĐGM. Bùi Tuần. 194
  24. Thánh Mẫu Mân Côi 199
  25. Kinh Mân Côi 201
  26. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 204
  27. Mẹ đầy ơn phước – Veritas. 207
  28. Kinh Mân Côi 210
  29. Hiệu quả của Kinh Mân Côi 212
  30. Kinh Mân Côi và Phúc Âm.. 214

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN

1. Đức tin

Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy được một bài học quý giá: Đức tin là một yếu tố quyết định cho việc can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống.

Chúa Giêsu đã làm phép lạ tuỳ theo lòng tin của mỗi người. Rất nhiều lần Người đã phán với các bệnh nhân: Đức tin của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an. Hay: Con tin thế nào thì sẽ được như vậy. Nơi khác, Chúa Giêsu còn xác quyết với chúng ta: Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải, thì các con cũng có thể làm được những việc hệ trọng như chuyển núi dời sông. Vậy chúng ta phải tin những gì?

Trước hết là hãy tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Với quyền năng ấy, Ngài đã tạo dựng vũ trụ. Với quyền năng ấy, Ngài vẫn luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, bởi vì nơi Ngài không có biến dịch và thay đổi. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Điều cần thiết là chúng ta phải tin tưởng chạy đến với Người như lời Thánh vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trọng, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì. Trong Phúc Âm, chính Chúa Giêsu cũng đã bảo: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Hay như lời sứ thần Gabriel: Không có sự gì mà Thiên Chúa chẳng làm được. Tin tưởng chạy đến với Chúa để rồi được Ngài nâng đỡ và phù trợ, như vậy chúng ta sẽ chẳng còn phải lo sợ điều chi nữa. Với Chúa thì màng nhện cũng có thể trở nên tường thành, trái lại, không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Tiếp đến, chúng ta hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Như chúng ta cũng đã nhiều lần xác tín Thiên Chúa là một người Cha nhân từ. Người Cha nhân từ ấy vốn hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Sự yêu thương chăm sóc ấy nhiều khi chúng ta không để ý tới. Chẳng hạn không có khí để thở, không có nước để uống, không có cơm để ăn, thì chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta sẽ không thể nào sống nổi.

Ngay cả trong những giây phút đen tối dưới con mắt đức tin, chúng ta vẫn nhìn ra bàn tay uy quyền của Thiên Chúa hướng dẫn dòng đời của chúng ta. Biết đâu nhờ những gian nguy thử thách ấy mà chúng ta biết ăn năn sám hối, quay trở về cùng Thiên Chúa. Biết đâu nhờ những đau khổ và buồn phiền mà nhân đức của chúng ta được củng cố và niềm tin của chúng ta sẽ được kiên vững hơn lên, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói. Các con hãy nhìm xem cánh hoa đồng nội chúng không dệt không may mà ngay như áo cẩm bào của Salomon cũng không rực rỡ cho bằng, các con hãy tin tưởng, các con càng quý giá hơn chim trời và hơn cánh hoa đồng nội rất nhiều. Hay như Thánh vịnh cũng đã bảo: Kẻ kính sợ Chúa sẽ không thiếu thốn chi. Sư tử con không kiếm ra mồi chứ người kính sợ Chúa sẽ không hề đói, bởi vì Ngài hằng đoái nhìn kẻ công chính. Bằng đó mà thôi cũng đủ để cho chúng ta an tâm cho tương lai, cho ngày mai. Bởi vì, ngày mai và tương lai lại hệ tại ở lòng tin.


2. Đầy tớ vô dụng

Dụ ngôn chúng ta vừa nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ nô lệ của ông ta.

Thực vậy, nơi dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi như là một tài sản của ông chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ phục vụ cho ông chủ trong một số công việc và trong một số giờ giấc nào đó, ngoài ra anh ta là người tự do. Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài đồng ruộng, khi trở về nhà, không được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi. Ông chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô lệ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ không còn sai khiến điều gì nữa, thì kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao giờ ông chủ nghĩ đến việc cám ơn hay trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là tài sản của chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ mạng sống và sức lực mà ông chủ cần đến.

Vậy đâu là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắn gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép vội vã kết án là Chúa Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng những hình ảnh sống động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với Thiên Chúa. Đúng thế mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về công nghiệp của bọn biệt phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc lành, việc thiện đều là công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa phải tính công và trả ơn cho họ theo lẽ công bằng.

Hẳn chúng ta còn nhớ lời cầu nguyện của một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn Ngài, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân về mọi thứ hoa lợi. Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên Chúa thành một con nợ của mình.

Thế nhưng qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay như lời Ngài đã nói: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Như thế thì làm sao chúng ta có thể kể công trước mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của chúng ta không có giá trị gì trước mặt Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ là bổn phận chúng ta phải chu toàn. Mọi hành động bác ái của chúng ta cũng không đủ để cảm tạ những ơn huệ của Ngài và của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời chúng ta cũng chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì làm gì gọi được là công lao. Cho dù chúng ta có trung thành với Ngài đến hơi thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn phả kêu lên: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi.

Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu thương, luôn chăm sóc và mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ chịu thua trước tình yêu của chúng ta.


3. Đức tin

Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải.

Giả sử như chúng ta có được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ. Khi gặp gỡ những người của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn tờ nhật báo ấy là một cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu ra một số từ ngữ, chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính…

Nếu như họ hỏi: Truyền hình là gì? Hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy giúp chúng ta nhìn thấy sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó đang thực sự xảy ra ở những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là gì? Hẳn chúng ta sẽ sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có thể tiêu diệt bất kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ bộ mặt trăng là gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi thuyền bay lên và đáp xuống mặt trăng.

Trước những câu trả lời này, dân chúng của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ cho chúng ta là những kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ cho rằng chúng ta không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể nào bay được như một con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả tưởng trên cho chúng ta thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà dân thế kỳ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện bình thường. Và bây giờ cùng với cỗ máy thời gian ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới năm 3000. Trên những tờ báo lúc bấy giờ không còn đăng tải những tin tức về bạo lực, nghèo đói và chiến tranh, mà chỉ có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và thân hữu. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là chuyện mơ tưởng, không thực, bởi vì ở đâu có loài người thì ở đó có bạo lực, có hận thù, có bóc lột và giàu nghèo.

Thế nhưng, từ đó chúng ta đi tới một kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên mặt đất, thì làm sao chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta cho rằng tự cõi lòng con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo được một xã hội công bằng.

Tuy nhiên với đức tin, chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình yêu giữa con người và có sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức Kitô đã đến giữa chúng ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những điều trên. Đây chính là sứ điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.

Nếu các ngươi có được một đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và với quyền năng ấy, không gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến tranh, hận thù và nghèo đói.


4. Đức tin và những điều kỳ diệu

(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối với những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài, họ nhận được những ơn lạ lùng vượt xa sự mong đợi.

Một người bất toại đã lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và được Người chữa bệnh, ông đã trở nên khỏe mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn vác chõng mà đi, trước sự kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Một người mù từ bẩm sinh, chỉ ước mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi vật xung quanh. Khi được Chúa chữa, anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn sáng cả con mắt tâm hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều cao siêu. Những suy tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa lành, xem ra còn khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga 9,1-41). Một người què, đi lại khó khăn, chỉ mong được bước đi như những người khác. Nhờ tác động và quyền năng của Chúa, thông qua trung gian của hai vị tông đồ là Phêrô và Gioan, không những anh có thể đi lại được, anh còn “vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa”. Tác giả sách Công vụ Tông đồ trình bày anh giống như một vũ công, múa nhảy ca hát để tỏ bày niềm vui trước những điều lạ lùng Thiên Chúa vừa thực hiện (x. Cv 3,1-10). Một phụ nữ tội lỗi cả thành đều biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với vị ngôn sứ có tên là Giêsu, chị đã sám hối ăn năn và trở nên con người mới. Không chỉ được hội nhập vào xã hội, chị còn trở nên một nữ tông đồ năng động nhiệt thành và là người đầu tiên loan báo Chúa đã phục sinh (x. Lc 8,2).

Đức tin có thể mang lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu ấy đến từ quyền năng của Chúa. Ngài là chủ vũ trụ, là nguyên lý của mọi nguyên lý. Quyền năng của Chúa bao trùm vũ trụ và cuộc sống con người. Trong xã hội văn minh hiện đại, con người lầm tưởng rằng họ có thể thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng điên rồ này đã phải gánh lấy thất bại đắng cay. Một khi gạt bỏ Thiên Chúa khỏi cuộc sống, điều còn lại sẽ là bạo lực, hận thù và tội ác.

Những điều kỳ diệu của đức tin cũng đến từ nỗ lực cố gắng của con người. Đức Giêsu đã nói đến hiệu quả của đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được” (Mt 17,20). Hạt cải thật nhỏ bé và núi đồi lớn lao. Đó là hai hình ảnh tương phản nhau. Sự tương phản ấy càng làm nổi bật sức mạnh của đức tin. Tác giả thư Do Thái đã nhắc đến gương mẫu đức tin của các Tổ phụ và những nhân vật của lịch sử dân tộc, đã nhờ đức tin mà họ vượt lên biết bao gian nan thử thách để trung thành với Chúa và thực hiện tốt đẹp những sứ vụ Chúa trao (x. Dt 11). Họ là những người đã cộng tác với Chúa, nỗ lực làm cho đức tin sinh hoa kết trái nơi cuộc đời của họ cũng như nơi tha nhân. Nếu được liệt kê vào danh sách những gương mẫu đức tin trong thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta sẽ nói đến các thánh tử đạo Việt Nam. Đức tin là bí quyết đem lại cho các ngài sức mạnh. Các ngài là những người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: từ những quan lại trong triều đình đến những nông dân chân lấm tay bùn; từ những người giàu có đến những người nghèo nàn cơ khổ. Tất cả đều tìm được nguồn sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa, thà hy sinh mọi sự còn hơn là mất ơn nghĩa với Chúa. Họ chấp nhận đánh đổi tất cả để được sự sống đời đời. Sức mạnh của đức tin kỳ diệu là thế.

Sức mạnh của đức tin còn thể hiện qua sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Giáo Hội là bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Giáo Hội là chiếc thuyền chuyên chở các tín hữu đến gặp gỡ Chúa, đồng thời cũng chuyên chở Chúa đến gặp Dân của Ngài. Lịch sử hai ngàn năm đã chứng minh sức mạnh của Giáo Hội. Mặc dù thời nào cũng có những tội lỗi và gương xấu, con thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị nhấn chìm, vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin, được diễn tả qua hình ảnh tảng đá góc là chính Đức Giêsu. Hãy chiêm ngắm một khung cảnh phụng vụ sẽ thấy sức mạnh của đức tin thật kỳ diệu: những cụ ông cụ bà, những em bé thiếu nhi, những người trưởng thành… tất cả đều toát lên niềm vui khôn tả, khi họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được tâm sự với Ngài. Mặc dù cuộc đời vẫn còn lắm truân chuyên, nhưng những giây phút tĩnh lặng ấy giúp họ gột bỏ bụi trần, tìm được niềm vui vì có Chúa. Chính đức tin nói với họ về sự hiện diện nhiệm màu của Chúa, đồng thời thúc đẩy họ đến với Chúa để được trang bị thêm sức mạnh và ý chí vươn lên.

Trong cuộc sống hôm nay, xung quanh chúng ta những điều kỳ diệu vẫn đang xảy đến. Biết bao người đến với Chúa đã nhận được sự an ủi đỡ nâng thể xác cũng như tinh thần. Có thể khi đến với Chúa, người què vẫn chưa tự mình đi được, người mù vẫn chưa thể thấy được, người liệt chưa thể tự mình trỗi dậy, nhưng chắc chắn một điều, khi đến với Chúa với đức tin và niềm phó thác, họ đã nhận được nghị lực và niềm vui rất lạ lùng, để họ vươn lên, vượt qua khó khăn, đón nhận thực tại, lạc quan và yêu đời hơn, vì họ tin chắc chắn rằng có Chúa cùng đi với họ trong cuộc đời này. Có thể họ bị thiệt thòi về một điểm nào đó, nhưng Chúa lại bù cho họ những khả năng phi thường ở một lãnh vực khác. Đức tin vẫn đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu là thế.

Người tín hữu còn có sứ mạng đem những điều kỳ diệu của đức tin cho anh chị em đồng loại. Hình ảnh những nữ tu dấn thân hy sinh phục vụ người phong cùi hay những trẻ mồ côi, hình ảnh những tín hữu nhiệt thành bất chấp mọi ngờ vực để đến với người nghèo, người nhiễm HIV, hình ảnh các linh mục đến với người dân tộc thiểu số hay những nơi vùng sâu vùng xa để đem ánh sáng Tin Mừng cho những anh chị em vừa nghèo về vật chất vừa nghèo về tình người. Những thực hành bác ái này là những điểm sáng trong đời sống đức tin, đồng thời thể hiện sứ mạng cao cả của người tín hữu, đó là đến với con người để mang cho họ niềm vui và góp phần củng cố đức tin nơi họ. Thiên Chúa đang qua chúng ta để ban phúc lành cho nhân thế. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên những cánh tay nối dài của Người, để làm những việc chính Người đã làm cho con người đương thời tại xứ Palêtin. Chính qua chúng ta mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.

Chúng ta đang cùng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa thể hiện qua một trẻ thơ vừa chào đời. Hài nhi nằm trong máng cỏ lại là chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự từ ban đầu của lịch sử, nay trở nên người phàm để sống cùng, sống với và sống cho chúng ta. Hai ngàn năm đã qua, biến cố Máng cỏ Bêlem và mầu nhiệm Thập giá đồi Canvê vẫn gửi đến chúng ta những sứ điệp quan trọng. Đó là sứ điệp của tình Chúa tình người. Tình Chúa sẽ biển đổi đời ta nên cao thượng. Tình người sẽ giúp ta tìm thấy niềm vui, bởi khi cho đi là ta được nhận lãnh.

Một tác giả là Robert Schuller viết: “Việc bạn hiện hữu trên cuộc đời đã là một quà tặng lớn lao của Thiên Chúa”. Ý thức mình là điều kỳ diệu của Chúa, mỗi chúng ta cần làm cho ánh sáng và vinh quang của Chúa thể hiện nơi cuộc đời mình. Có những điều kỳ diệu được xây nền trên những điều rất bình dị của đời thường. Các thánh là những người đã nỗ lực cố gắng để nên thánh khởi đi từ những điều rất đơn giản của cuộc sống. Một người nông dân, một người ít học, một người sống trong cảnh đạm bạc thanh bần, một người cha người mẹ âm thầm nuôi dạy con cái… tất cả đều có thể làm tỏa sáng vinh quang của Chúa và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống thân yêu của chúng ta.


5. Làm điều phải làm

Suy Niệm

Người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho chủ. Anh chỉ được ăn uống nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức bình thường và tự nhiên đối với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không cần phải tỏ lòng biết ơn anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của ông.

Chúng ta có thể là một Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm điều phải làm.

Khó biết chừng nào khi làm được nhiều điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.

Những việc đạo đức chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã của một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.

Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).

Công trạng, công đức, công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa.

Việc tốt tôi làm có thể làm tôi tự tôn trước anh em.

Người anh cả chỉ thấy những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận người em út.

Làm thế nào để chúng ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình.

Nhận mình chỉ là đầy tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.

Có nhiều bổn phận ta phải chu toàn.

Bổn phận của một thụ tạo trước Thiên Chúa Chí Thánh.

Bổn phận là con cái của Cha trên trời.

Bổn phận là môn đệ trung tín của Đức Kitô.

Bổn phận là anh em của mọi người.

Yêu mến, phụng sự, tôn kính, ca ngợi Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông tròn.

Giả như ta có làm được điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.

Cả một ước muốn tốt lành nơi ta cũng đến từ Chúa.

Thiên đàng không phải là sự trả công của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo đức để rồi Ngài buộc phải cho họ thiên đàng.

Thiên đàng là một quà tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.

Thiên đàng hạnh phúc vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.

Chúng ta không chọn Chúa để được thiên đàng.

Chúng ta mong thiên đàng để được gần Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, dám hy sinh hạnh phúc đời này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính toán vụ lợi không? Con người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?

Con người khao khát hạnh phúc thực sự và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở đâu? Ở thiên đàng có thứ hạnh phúc đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.


6. Tin Tưởng Vào Chúa – An Phong

Ngôn sứ Kha-ba-cúc thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa đoái nhìn: “Lạy Chúa, đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng đoái nghe: con kêu la trước cảnh hung tàn mà Chúa không cứu vớt?”

Và Thiên Chúa, qua miệng ngôn sứ Kha-ba-cúc đã trả lời: “Kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng thì ngã gục; còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình”.

Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng vậy, các ngài thấy mình bơ vơ, yếu đuối và cầu xin: “Thưa Thầy, xin cho chúng con được thêm lòng Tin”. Chúa Giêsu nhắc nhủ các ông cứ kiên tâm thi thành những điều Người truyền dạy, không phải để đổi chác, để đòi lấy công lênh của mình, nhưng như người đầy tớ trung tín, tận tâm thi hành những điều thuộc trách vụ của mình.

Nhìn lại chính mình, chúng ta cũng nhận thấy đời mình chẳng thiếu những khó khăn, cũng bao lần đầy đau khổ; và có lẽ cũng không ít lần chúng ta phàn nàn kêu trách Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhủ: “Nếu anh em có đức Tin lớn bằng hạt cải thôi…”. Nếu chúng ta nhận ra đức Tin của mình, đức Tin chỉ bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể làm được mọi sự; nếu chúng ta tín trung với Niềm Tin của một người đầy tớ “làm việc bổn phận mình”, thì Thiên Chúa sẽ chẳng “thua” lòng trung tín của chúng ta.

Thiên Chúa không ban cho chúng ta một “kho Đức Tin” để dành ở đó, để khoe mẽ hay để trang trí mà thôi. Nếu chúng ta biết khởi sự sống niềm Tin bằng hạt cải, Người sẽ làm tăng trưởng Niềm Tin trong ta; nếu chúng ta biết thể hiện Niềm Tin của mình trong việc bổn phận thường ngày, thì dù là không xứng đáng… “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,37).

Lạy Chúa Giêsu,

Chẳng có chi của chúng con xứng đáng dâng cho Chúa, nhưng Chúa lại sẵn sàng đón nhận tất cả.

Chẳng có chi trong chúng con có thể “chứa đựng” được Chúa; nhưng Chúa lại ban đầy tràn, khởi sự từ một “Đức Tin bằng hạt cải” của chúng con.

Chẳng có chi do chúng con, để được phép đòi công lênh, nhưng Chúa đã vui lòng ban tặng cho chúng con chính “Thịt và Máu” Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mãi mãi là người tôi tớ tín trung của Chúa.


7. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi Châu giảng đạo. Ngài muốn chuyển dịch phúc âm thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ. Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông ‘to bebieve – tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart- lắng nghe với trái tim’.

Một số người nghĩ rằng họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? (Kb 1, 2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát. Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh. Người làm ác sẽ bị oán phạt: Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín (Kb 2, 4).

Trong đời sống đạo, đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ, tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc. Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.

Có lần nghe có vị đại diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa. Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con (Lc 17, 6).

Chúng ta tin vào Kinh Thánh mạc khải và tin vào Đấng Trung Gian được sai đến. Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm về Thiên Chúa Ba Ngôi và chương trình cứu độ nhân loại. Tất cả những điều mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là nguồn mạch và cốt lõi của đạo. Tìm đọc lại từng chi tiết trong Kinh Tin, chúng ta sẽ thấy sự quan phòng của Thiên Chúa cách đặc biệt cho sự sống con người. Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom. Con người được tạo nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên cũng được mời tham dự vào sự sống đời đời. Chúng ta hãy lắng nghe và thực hành tin mừng của Chúa. Vì Lời Chúa là lời hằng sống ban cho chúng ta sự sống đời đời. Tất cả là hồng ân.

Đức tin là nhân đức đối thần. Tin là lần bước trong đêm tối của sự phó thác. Tin như tổ phụ Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tin là thái độ không nghi ngờ, không cần lý luận và không đòi hỏi phải hiểu thấu. Nếu mọi sự nhãn tiền trước mắt, chúng ta không cần phải có đức tin. Trong đời sống tôn giáo, niềm tin là cột trụ và là tâm điểm của mọi sinh hoạt sống đạo. Tiên tri Khahabúc kêu cầu Chúa trong sự mong mỏi đợi chờ. Hầu như Chúa vẫn lặng im nhưng ông luôn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Sống đức tin là biết sống phó thác mọi sự trong tay Chúa.

Con người là loài thụ tạo giống như chiếc bình gốm mỏng dòn dễ bể. Người thợ gốm muốn nắn nên hình thể nào mặc ý, bình gốm không có quyền đòi hỏi. Bình gốm được trưng bày trang trí mỹ thuật là một hạnh phúc tuyệt vời. Con người cũng thế, được hiện hữu là một ơn trọng. Tất cả những gì chúng ta làm chẳng thêm gì cho Chúa nhưng mang lại lợi ích cho chính chúng ta. Chúa Giêsu nói: Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’ (Lc 17, 10). Nhận ra chân giá trị của đời sống để chúng ta tôn thờ Chúa cho phải đạo.

Truyện kể: Có một bà cụ già trải qua thời gian rất nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà bồn chồn lo lắng vì chưa bao giờ xảy đến với bà như thế. Trong thất vọng, bà chạy đến với một vị linh mục xin lời khuyên. Bà hy vọng vị linh mục sẽ lý luận để chứng minh cho bà là Thiên Chúa hằng sống và tốt lành. Bà rất ngạc nhiên rằng linh mục chẳng nói gì về vấn đề này. Lời khuyên rất đơn sơ và xem ra không ăn nhập gì cả. Linh mục nói với bà hãy ra đi và thực hành những nghĩa cử yêu thương, tử tế và cảm thông với những người bà gặp trong đời, mọi sự sẽ tốt đẹp. Bà thực hành lời khuyên và thời gian trôi qua, tất cả những nghi ngờ về Thiên Chúa hoàn toàn biến mất.

Thánh Phaolô là tông đồ nhiệt thành luôn khuyến khích mọi người liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô. Kêu gọi sống kiên tâm và vững mạnh trong ơn nghĩa của Chúa. Phaolô phó dâng hoàn toàn cuộc đời trong Chúa. Những thơ viết cho cá nhân hay các giáo đoàn luôn là những lời khuyên răn, khích lệ và hướng dẫn sống đạo: Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ (2Tm 1, 7). Phaolô say mê trong việc rao truyền Chúa Kitô phục sinh và mọi sự đều qui hướng về Đức Kitô. Đến nỗi ngài đã phải thốt lên rằng tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Ngài tiếp tục khuyên răn môn đệ luôn sống trong sự thật của đức ái: Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô (2Tm 1, 13).

Lạy Chúa, chúng con chỉ là đầy tớ vô dụng. Tất cả cuộc sống đều nhờ bởi ơn Chúa. Xin Chúa đừng để chúng chìm đắm trong sự hão danh và háo thắng. Mọi công trình vĩ đại thuộc tinh thần cũng như vật chất đều qui hướng để làm sáng danh Chúa hơn nữa. Xin Chúa chúc lành cho mọi công việc bổn phận hằng ngày của chúng con. Amen.


8. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”

Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình. Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.

Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được. Chúa là Chủ, con người là tôi tớ. Chúa là Hình, con người là bóng. Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen. Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.

Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công!… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!

Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.

Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa

Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền. Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.

Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8)

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.


9. Nếu các con có lòng tin

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Khi nghe giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm thầy mình bất xứng. Xót thương cho thân phận bất toàn của chính mình, các ông thấy cần phải có ơn phù trợ đến từ Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời, nên đã kêu lên: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con!”(Lc 17,5).

Bài Tin Mừng Chúa Nhật này bắt đầu bằng lời van xin các tông đồ với Chúa Giêsu là xin ban thêm lòng tin. Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn, nên Ngài nói: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải…”

Đức tin là chủ đề nổi bật của Chúa Nhật này, Chúng ta cũng nghe về đức tin trong bài đọc thứ nhất, trong hàng danh tiếng của Khabacúc, được Thánh Phaolo lấy lại trong thơ gởi tín hữu Roma: “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống” (1,17).

Các môn đệ hiểu rằng lời dạy của Thầy Giêsu không phải là tư tưởng mới, nhưng kêu gọi họ hoán cái tận căn, từ bỏ hoàn toàn để theo Đấng mà họ gọi là “Chúa” và là “Thầy”. Đức Giêsu khẳng định rằng nếu có đức tin, họ sẽ tìm được câu trả lời. Vì thế, khi đối diện với lời van xin của họ là gia tăng về số lượng, Ngài liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con”.

Đức tin không hành động theo trật tự lô gích của thế giới này. Đức tin hành động các tổng quát bất ngờ và không thể dự kiến trước được, như: “Gió muốn thổi đâu thì thổi: ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy”. (Ga 3, 8). Theo nguyên lý sự sống: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí.” (Ga 3, 6). Thế nên, đức tin đặt chúng ta vào trong tương quan trực tiếp với Thiên Chúa và cho phép chúng làm điều tưởng chừng như không thể.

Tiếp theo Đức Giêsu trình bày cho chúng ta một dụ rất thường ngày, có tính so sánh trong tương quan giữa chủ nhà và đầy tớ, đúng hơn giữa ông chủ với nô lệ của ông. Người nô lệ chu toàn bổn phận thường ngày đúng như ông chủ mong đợi như: cày bừa hay là chăm sóc đàn vật. Khi về đến nhà, ông chủ lại gọi người đầy tớ vào hầu bàn ăn, từ ‘hầu hạ’ bắt nguồn từ chữ “phó tế” trong sách Công vụ Tông đồ, ám chỉ tích đặc thù của việc bồi bàn là bằng lòng phục vụ vì đức ái.

Ông chủ được phục vụ nhưng lại không mang ơn người đầy tớ; đây là việc đầy tớ phải làm, không có đòi hỏi khắt khe, nặng nề gì cả, anh đã làm việc suốt cả ngày, nhưng là nhiệm vụ của anh, đó là sứ mệnh được ông chủ trao cho với tất cả sự tín nhiệm, ngay cả con trai ông. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người đầy tớ được được cất nhắc lên, nhưng không biết lý do tại sao. Giống như kẻ có đức tin bằng một hạt cải có thể chuyển núi, rời non cũng không hiểu tại sao.

Từ những lời dạy trên, Đức Giêsu muốn người kitô hữu chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc nhỏ nhất, để có thể thay đổi tình trạng hiện hữu của chúng ta, điều này thật là cần thiết. Chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa hay Thánh Thể, để tái khám phá ra trong đức tin, mình không phải là “quân nô lệ, mọi người vẫn còn sợ; Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau

khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 15-17) ).

Qui chiếu về khổ đau có thể làm chúng ta lo sợ; nhưng đức tin giúp chúng ta không bị chi phối bởi những thất bại của thế gian này; vì “người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách. Đúng là để có thể cầm cự tốt cho đến thời đã ấn định, như Thánh Phaolô mời gọi Timôthê người con yêu quý của ngài “Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha” (2 Tim 1, 6-8). Đức tin là tham dự vào “sức mạnh của Thiên Chúa” trong Thánh Thần của tình yêu và lý trí, làm cho chúng ta trở nên người phục vụ, đầy tớ đức ái, nghĩa là tôi tớ của Tin Mừng, mà chúng ta được “ủy thác” như thánh Phaolô kêu gọi chúng ta.

Trong khi đợi chờ sự can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa và ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Kitô, vẫn còn hạt giống của niềm tin cho phép chúng ta tuyên xưng rằng Chúa đến là điều chắc chắn như lời Ngài hứa: “Người sẽ thực hiện, không chỉ với thời gian ấn định. Chắc chắn giờ sẽ đến”. Chúa không cho chúng ta biết ngày giờ khi ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng tối Thứ Sáu Tuần Thánh, mở rộng màn che sự chết trên trái đất của chúng ta (Mt 25, 13). Đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục cuộc hành trình trên thế gian này, trong tin tưởng và hy vọng vào lời Chúa hứa.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban Thánh Thần tình yêu xuống đầy lòng chúng con, để chúng con có sức nhổ tận gốc tất cả những ngờ vực và sống bằng lòng trung thành của chúng con. Amen.


10. Hãy bật rễ lên

Suy Niệm

Cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là thứ hạt nhỏ xíu như đầu kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên sức mạnh của lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh em.”

Để làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.

Có nhiều thứ bám rễ trong đời tôi: những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn, lối nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức… Rễ chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.

Chỉ khi có lòng tin vào quyền năng Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.

Với lòng tin đơn sơ, kiên vững, các ngư phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được núi, dời được non, mà còn làm chuyển rung cả thế giới.

“Xin thêm lòng tin cho chúng con”:

Lời nài xin của các tông đồ cũng là của chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.

Tin là nghe theo lời Chúa, bước ra khỏi thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.

Tin như thế là dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên.

Tin là thái độ can đảm của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ.

Người có lòng tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.

Thế giới hôm nay có vẻ từ chối niềm tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.

Có biết bao giáo phái đủ loại xuất hiện khắp nơi.

Một số thanh niên Nhật tìm lẽ sống nơi giáo chủ Asahara.

Khi thanh niên Singapore có nhà, có xe và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó rất sâu.

Con người còn khắc khoải hoài cho đến khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.

Chúng ta xin Chúa ban thêm lòng tin cho ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những người đang tìm kiếm Chân Lý cứu độ.

Gợi Ý Chia Sẻ

Ngày nay, nhiều bạn trẻ đánh mất niềm tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Theo bạn, đâu là những nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?

Có những bạn trẻ không tin vào Thiên Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây dựng cuộc đời bằng đôi tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì cho bạn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.


11. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi

Chúa Giêsu mời gọi ta tin vào Người. Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo của họ từ chối không nhìn nhận Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của Người. Trái lại, các môn đệ và Kitô hữu thì khẩn cầu Người: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải thích của Chúa Giêsu giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin. Tại sao ta xin Chúa thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh của lòng tin? Ngoài ra, Chúa Giêsu dùng tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của ta?

  1. a) Lòng tin là một ân huệ Chúa ban

Giáo lý Công giáo gọi đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin. Đức tin không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao Người muốn ta phải tin vào Người? Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta. Tất cả những đặc tính ấy làm cho Người trở nên đối tượng lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về Người, đó là một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập giữa Người với ta. Vì thế, đức tin có hai phía: về phần Chúa, Người là Đấng “trung thành” trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận phải đáp lại lòng trung thành của Người. Người muốn đưa ta tới cùng đích của đời ta là được cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.

Đức tin có lịch sử của nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin vào Thiên Chúa” (St 15,6). Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn đầu một dân tộc để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi. Ông là gương mẫu sống đức tin. Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung thành và toàn năng (Dt 11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người và thi hành những điều Người dạy. Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử đức tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10). Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,7t) để dẫn đưa đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).

Như vậy, đối với một cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu về Chúa Kitô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến với Thiên Chúa Cha.

  1. b) Sức mạnh của lòng tin

Các môn đệ xin Chúa Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của lòng tin ấy. Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin là những điều họ đã chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người. Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người. Người hứa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm môn đệ: “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Chúa Giêsu bảo ta hãy để cho lòng tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó ta được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.

  1. c) Phục vụ trong khiêm tốn

Đức tin luôn ràng buộc với sứ mệnh. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin vào tình yêu của Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình. Tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn, không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được những tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng một bài học ấy: “Đối với anh em cũng vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Tỷ dụ người đầy tớ chu toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta có được lòng tin vào Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy: ta nhận được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy và cho đi là năng động của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y hệt như Chúa Giêsu đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho các môn đệ Người, kể cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích thực là đức tin sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).

  1. d) Suy nghĩ và cầu nguyện

“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho tôi “được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người mỗi ngày một trung thành hơn”?

Tôi thử nhìn lại lịch sử đức tin của tôi. Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào? Vẫn còn là những điều học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?

“Những cây dâu” nào trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa quả đạo đức?

Cầu nguyện:

“Lạy Chúa Giêsu, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. A-men.”

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 55)

12. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.

Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không? – Có.

– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?

Vị Rabbi than phiền: – Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?

Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.

Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “Đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “Mến Chúa yêu người”, có ai dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.

Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.

Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.

Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.


13. Đức tin và người đầy tớ vô dụng

(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)

Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:

– Sức mạnh của ĐỨC TIN

– Khiêm tốn khi phục vụ

Hai chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu, thì đức tin không cần “to lớn”, chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’ (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.

Theo đó, đức tin càng lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói, ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay, Đức Maria luôn là người dẫn đầu, “người có đức tin bằng hạt cải”, bởi vì sao? Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin bằng hạt cải.

Phần hai của Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ

Tuy đoạn hai có nhiều câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.

Hai chủ đề riêng biệt, nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của “Đức Tin”.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.

Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen.


14. Xin thêm niềm tin cho chúng con

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức Giêsu một điều như thế. Tại sao các Tông đồ không xin quyền cao chức trọng, giàu có mà lại xin đức tin? Đối với các Tông đồ, đức tin là điều quan trọng nhất, không có đức tin, các ông không thể là tông đồ, không hoàn thành sứ mạng. Bởi lẽ, sứ mạng của các tông đồ là rao truyền cho mọi người biết: Giêsu Nagiaret bị đóng đinh, chết, đã sống lại vì Người là Thiên Chúa. Điều đó ngược với trí khôn của con người không bao giờ xảy ra trong lịch sử, muốn chấp nhận thì phải có Đức tin. Đức tin là ân ban của Thiên Chúa. Dĩ nhiên cũng cần có sự cộng tác của con người. Tựa như muốn có ánh sáng vào nhà, bạn phải mở cửa, muốn có Đức tin, bạn phải mở cửa lòng mình. Ơn Chúa được ban nhưng không, nhưng phải cầu xin. Lời cầu nguyện là cánh cửa của đức tin, phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa.

Để nói về đức tin, Đức Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: “Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển”.

Dĩ nhiên, Đức Giêsu không khuyên ta cầu xin những phép lạ lẫy lừng. Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối các dấu chỉ kỳ diệu người Dothái yêu cầu. Nhưng bằng hình ảnh hạt cải và cây dâu, cũng như hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim, Đức Giêsu mạnh mẽ nói với ta, điều con người không thể, đức tin mở cho ta thấy lại dễ dàng với Thiên Chúa.

Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.

  1. Bessière kể: Tôi biết một người nhờ ngọn cỏ mà sống. Một cô gái đã bị tai ương hoạn nạn đè bẹp cô. Trước mặt cô chỉ là một tương lai xám xịt, dễ chịu nhất đối với cô là được ra đi cho rảnh nợ đời. Những bước chân vô hồn vô định trên hè phố, đã tình cờ dẫn cô đến một cọng cỏ. Cọng cỏ xanh non đang cố trổi lên khỏi kẽ nứt bê tông để vươn lên ánh sáng. Sự sống nhỏ nhoi yếu ớt nhưng xanh tươi có vẻ mạnh hơn cả tấm xi măng nặng nề, đã cho cô một dấu chỉ. Cô lấy lại can đảm, để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra từ cọng cỏ ấy một sứ điệp. Cọng cỏ đã cứu sống cô.

Trong các nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, Thánh Phaolô dậy: đức mến là cao trọng hơn cả, bởi lẽ về thiên đàng, không có đức tin và đức cậy chỉ còn đức mến. Nhưng trong cuộc sống trần thế, đức tin lại cần thiết, bởi không có đức tin thì không có đức cậy và đức mến. Đức tin khai mở cho người ta được lãnh các bí tích, là căn cước để vào được Thiên đàng. Bởi thế, khi ban bí tích rửa tội, linh mục chủ sự hỏi người dự tòng: “Con xin sự gì cùng Hội thánh?” Người dự tòng thưa: “Con xin đức tin”. Linh mục hỏi tiếp: “Đức tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng đáp: “Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời “.

Thật may mắn cho ta, được sinh ra trong đức tin từ nhỏ. Đức tin không phải là tĩnh tại, đức tin cần phát triển. Để lớn mạnh trong đức tin, người tín hữu cần phải nuôi dưỡng, bằng việc làm, cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, đặc biệt với người trí thức trình độ văn hóa và giáo lý phải cân xứng. Họ phải có khả năng biện bạch đức tin của mình cho người khác, cũng như cho chính mình. Họ cũng cần có khả năng đó khi mỗi ngày phải chạm trán nhiều hơn với thuyết vô thần và thái độ dửng dưng đối với tôn giáo. Họ buộc lòng phải lý giải niềm tin đối với Thiên Chúa của mình.

Bởi thế, đức tin không chỉ được khẳng định suông, nó đòi lý lẽ. Đức tin có lý lẽ là một đức tin vững mạnh. Đức tin đó giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao. Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.

Tuy nhiên, ta đừng mong rằng, đức tin làm sáng tỏ mọi điều. Ta sống trong một thế giới có biết bao cuộc tìm kiếm hão huyền, nhằm tìm ra mọi lời giải đáp. Ta có đức tin, không có nghĩa ta hiểu biết mọi điều. Mà ta cũng không cần biết mọi lời giải đáp. Một điều cần, ta phải vững niềm tin. Và như các Tông đồ đã xin: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”.


15. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Hình như chọn đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và phục vụ không vị lợi vì đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng xong việc người ta không có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin của mình, người tín hữu không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng phải nghĩ rằng hành động như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng như người nội trợ chu tất công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì khen ngợi. Dụ ngôn mang cái tựa hơi lạ ‘những người đầy tớ vô dụng’, do một sự phiên dịch dễ gây hiểu lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. ‘Đầy tớ vô dụng’ ở đây có nghĩa đầy tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về thái độ người có đức tin.

1) Trước hết chúng ta ý thức rằng đức tin là một ân huệ.

Khi các tông đồ nài xin Chúa: Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được Chúa Thánh Linh thần ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp nhờ ơn Thiên Chúa. Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành vi sáng tạo thiên nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi yêu thương nâng chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi, ân huệ Thiên Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên Chúa. Có ý thức được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên Chúa, mới có được tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh thần Phúc Âm của chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận và cho không vị lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và chúng ta cảm tạ Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.

2) Đức tin phải ở trong thế hành động

Nhân danh đức tin mình, Kitô hữu là một người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc cơ bản người Kitô hữu phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Hai việc ấy dính liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi khen là bày tỏ niềm xác tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn hay thương xót, vì vậy Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục, cảm tạ. Phục vụ đồng loại là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng ta phục vụ họ. Con người đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa trong tư cách con cái. Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao nhất của cầu nguyện. Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa sống động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được nhờ cầu nguyện, tức là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức tin thêm sức mạnh vì ở trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó là phần thưởng vậy.


16. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi những kẻ sát nhân và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị phá thai, những trẻ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ chúng. Đó là một thế giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi thế giới bây giờ đã hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền thông đã làm cho chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?

Habacuc, một tiên tri Do Thái đã sống sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật sự tồi tệ như thời đại của chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính trị đã lan rộng, nền luân lý hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người nghèo, và việc thờ lạy ngẫu tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacop. Thiên Chúa đã cứu Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào đất hứa, đám dân mà Người đã làm Giao Ước quan trọng đối với họ.

Habacuc là một vị tiên tri bị chán ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong thống hối và canh tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã trở lại với Thiên Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của lời kinh cầu, có vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn một cách cay đắng với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông ta đã cầu nguyện: “Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin sự giúp đỡ nhưng Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng Ngài đã không can thiệp”.

Những người khác có thể đã cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh Kinh như hầu như không ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một tiếng vang mới đã can đảm nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông với Thiên Chúa đã được chú ý tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú ý hơn. Ngài đã không ra lời sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của Ngài. Thiên Chúa không hỏi: “Tại sao con dám nói với Ta cách như thế”. Đúng hơn Thiên Chúa đã yêu cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm: “Người công chính, bởi vì đức tin của ngươi sẽ được sống”.

Habacuc là một con người của đức tin. Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách nhiệm với những tạo vật của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một Giao Ước với dân Người hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người đối với họ. Habacuc đã phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một người công chính với một Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế gian này. Ông đã tin rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc là một người có đức tin lớn lao.

Đức tin là một đặc ân. Các tông đồ sợ rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng một điều gì đó giống như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa xin tăng thêm đức tin cho chúng con”. Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách chắc chắn và cần thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là lời cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những điều sai trái trong xã hội của chúng ta.

Sự cầu nguyện của chúng ta sẽ được tràn đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh Phaolô đã bảo đảm với Timôthêô;”Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là một sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức, yêu thương và khôn ngoan”. Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Thánh Thần đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự trông đợi nhưng cũng với sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào mà chúng ta cầu nguyện. Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là một người khôn ngoan, yêu mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng công chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay đổi.


17. Phép lạ của lòng tin

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tại một cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho cử tọa thấy rằng Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly nước, đổ vào đó một ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa như sau:

“Thưa quý vị, tôi vừa mới làm một phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa làm mà thôi. Ông Giêsu đã biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó. Nhưng quý vị hãy xem tôi còn làm được điều ngoạn mục hơn nữa”. Nói xong, ông lấy một thứ bột khác cho vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên trạng.

Trong đám cử tọa, một người đứng lên phát biểu: “Thưa ông, ông quả thực là người tài ba nhưng liệu ông có dám uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?” Quả thực, ông giáo sư biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy chỉ là một hóa chất độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng phát biểu mới quay xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:

“Thưa quý vị, đây là sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của Ngài, Chúa Giêsu đã rót cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ rượu mà vị giáo sư nầy chế biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc”.

Anh chị em thân mến,

Hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc biệt là trong cuộc sống của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ phi thường của Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu hôm nay đã nói: “Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới biển kia cũng được”. Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển”. Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó, người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra, không phải là người ấy hành động nữa mà là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.

Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu chứng tỏ chúng ta chưa tin, hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa làm hay không làm là vì chưa tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động. Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin đã chết rồi” (Gc 2,17). Ngài lấy ví dụ: “Nào có ích gì, nếu người nào rêu rao mình có đức tin trong khi chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào thiếu ăn thiếu mặc mà một người nào trong anh chị em lại nói với họ: ‘chúc anh chị em đi bình an, ăn no mặc ấm’, mà không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc, thì nào có ích gì? Đức tin đó có cứu được người ấy không? Cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin đã chết mất rồi” (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin sống bằng đức ái. Đức tin phải được biểu lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia sẻ cho nhau cái ăn cái mặc, và nhất là biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ lẫn nhau một cách vô điều kiện.

Thưa anh chị em,

Sống đức tin là sống phục vụ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân trong chế độ xã hội phong kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ. Chế độ phong kiến là chế độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ chủ như là chuyện đương nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi như đương nhiên. Nhưng Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan điểm phong kiến đó. Chính Ngài đã “đến không phải để được hầu hạ, nhưng để làm tôi tớ mọi người” (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: “Ai lớn nhất trong anh em phải làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. Có làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh vang tự đắc, nghĩa là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi.”

Anh chị em thân mến,

Nếu nhờ đức tin, mọi người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu sánh với hạt cải bé nhỏ. Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển” cũng được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẫy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Và văn hào Kierkegaard đã nói: “Điểm tựa ấy chính là đức tin”. Đức tin có cả một sức bật như vậy, nó có khả năng biến đổi cả xã hội, cả thế giới đầy những bất công, bạo lực, chia rẽ, chiến tranh nầy thành một vương quốc của tình yêu, thành một “Trời Mới Đất Mới” trong ngày Cánh Chung.


18. Đức tin – McCarthy

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Maurice là một người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi chia tay.

Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp cò.

“Con vẫn còn tin Thiên Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.

“Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp đến thế?”linh mục hỏi.

“Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô ấy”.

“Anh đã đau khổ nhiều phải không Maurice?” linh mục nói.

“Cha khỏi phải nói điều đó”, anh đáp.

“Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?” linh mục hỏi.

“Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.

Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.

Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.

Chúng ta không thể không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:

Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.

Niềm tin không hợp lắm khi thường hay biến đổi.

Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.

Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.

Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.

Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.

Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.


19. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’ – McCarthy)

Trong số những người có đạo, có một xu hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì đó. Họ tưởng tượng Thiên Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện xong công việc thì theo lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín phục vụ Người khi ở trần gian. Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một thái độ làm thuê, vụ lợi vào điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu thương giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin Mừng.

Sự thật nổi bật là: chúng ta không bao giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta. Đức Giêsu nói rằng dù khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm được (và ai trong ta dám liều lĩnh xác nhận điều đó?) Chúng ta cũng không thể đưa ra bất cứ đòi hỏi nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do thái đã bị ý tưởng công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.

Chân lý nền tảng về Kitô giáo là chúng ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn giáo của công nghiệp. Sự cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ có thể cho rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có quan niệm đó. Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con cái không thực hiện ý muốn của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó bởi vì chúng muốn cố gắng đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.

Quả là một niềm vui lớn khi chúng ta khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình với Thiên Chúa. Không phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng đáng với tình yêu đó. Và Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa.

Chúng ta không giữ các giới răn để Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta; chúng ta giữ các giới răn bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như sau: Một Thiên Chúa quảng đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không phải vì bổn phận. Vì thế, đức tin không đủ; chúng ta cũng cần có tình yêu. Trong khi đức tin làm cho mọi việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.

Các công việc quảng đại nhất và anh hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành, không phải trong đường lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc hoặc những phần thưởng nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy xem xét tấm gương sau đây.

Buổi chiều muộn của một ngày mùa đông giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một tiếng kêu vang lên: “Có một người dưới lòng sông”. Người ta chạy đến bờ hè và nhìn xuống dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông đang dập dềnh trong nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng nhìn trong tiếng ồn ào của xe cộ.

Rồi với một tiếng két của thắng xe, một chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ đậu xe sát lề đường. Một thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên chỗ bờ hè, quan sát thật nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không thành công, anh ta đã túm được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.

Trên lề đường, một đám đông tụ tập xung quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay lúc đó, xe cứu thương đến và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy khỏe hẳn sau cơn thử thách. Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được khai thác, bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của dân chúng, người cứu nạn đã biến mất.

Điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm là chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình, Người muốn chúng ta xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng, mà vì yêu thương Người và nhiệt thành phục vụ Người.

Sự cứu chuộc là một ơn huệ chứ không phải là một  phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to lớn, nhưng nó không thể so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận được một ân huệ.


20. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.

Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác được.

Quả thật, giữa con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.

Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.

“Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.

Lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.

Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.


21. Đức tin và khiêm nhường

Có một vị ẩn tu nổi tiếng bên Ai Cập trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con người luôn lấy sự khiêm nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài và một số đệ tử cùng đi dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất hiện như muốn cản đường họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị thánh đều bỏ chạy.

Vài năm sau, vị ẩn tu đang hấp hối trên giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:

– Thưa cha, hẳn cha còn nhớ ngày nọ khi chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều sợ hãi và bỏ chạy. Chúng con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng cha cũng run sợ như chúng con.

Con người thánh thiện ấy trả lời như sau:

– Không! Cha không hề sợ hãi trước con vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.

Vị ẩn tu đang hấp hối giải thích như sau:

– Lúc ấy cha nghĩ rằng, thà bỏ chạy còn hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên trong cha sau này.

Kitô giáo đề cao sự khiêm nhượng như một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô phải luôn trang bị cho mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí… là những việc lành mà Thiên Chúa ân thưởng bội hậu cho họ.

Sự giàu có và địa vị cao trọng của họ trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất công bình và hợp lý mà Thiên Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp của mình nên những người biệt phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần cùng trong xã hội như những người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa đang đè nặng trên họ.

Đối lại với những tính toán khôn lường và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu có, Chúa Giêsu đề ra lòng tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Qua hình ảnh của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày ở đồng áng, để rồi khi về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý nói rằng, tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một Thiên Chúa là Cha yêu thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi Ngài mà thôi. Sau khi đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt lên: “Tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng”.

Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng như cách diễn tả niềm tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính toán so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những việc lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc làm ăn và cuộc sống của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ rằng, những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích thực không bao giờ so đo tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi niềm tin tưởng và phó thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng khiêm nhượng đích thực của Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn tâm niệm: “Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của tôi mà thôi, nhưng nhờ đó mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện”.


22. Khiêm nhường và tin tưởng

Trong phạm vi đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, tôi nhận thấy có nhiều người quá tự tin, luôn ỷ lại vào sức riêng của mình. Họ cho rằng những nhân đức hay những thành công họ gặt hái được, hoàn toàn do sức lực và tài năng riêng của họ, để rồi họ vênh vang tự đắc, coi trời bằng nửa con mắt.

Dĩ nhiên, tôi không phủ nhận rằng: tin tưởng vào sức lực và tài năng riêng của mình là điều tốt trong một phạm vi nào đó. Vì tục ngữ tây phương vốn thường bảo:

– Vouloir c’est pouvoir. Muốn là được.

Một khi mình đã dứt khoát lập trường và tiến hành không nghi ngại, thì kể như đã giải quyết được một nửa vấn đề. Vì thế, người xưa đã bảo:

– Thành như quả quyết, bại như do dự.

Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy:

– Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.

Bụng đói mà cứ nằm chờ cho sung rụng vào miệng, thì đến bao giờ một nhận được một trái.

Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: tài năng và sức lực riêng của mình là điều cần, nhưng không phải là điều quyết định. Yếu tố căn bản cho mọi thành công, đó là tình thương và sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.

Chẳng hạn trong đời sống tự nhiên, chúng ta ra sức cày sâu cuốc bẩm, vất vả đổ mồ hôi xuống trên ruộng đồng, nhưng nếu Chúa không cho mưa thuận gió hòa, thì mùa màng lúa thóc của chúng ta cũng khó mà trúng được. Vì thế, thánh Phaolô đã quả quyết:

– Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là đấng làm cho đâm bông kết trái.

Chẳng hạn trong đời sống trí thức, chúng ta chăm chỉ căm cụi học hành để được thi đỗ, để được trau dồi thêm những kiến thức cần thiết, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc đời, nhưng nếu Chúa không ban cho khỏe mạnh, nay yếu mai đau, thì công việc học hành của chúng ta cũng sẽ bị cản trở.

Chẳng hạn trong đời sống siêu nhiên, chúng ta muốn khử trừ một nết xấu, nhưng nếu không có ơn Chúa trợ giúp, thì điều chúng ta dốc quyết chưa chắc đã được ba bảy hai mươi mốt ngày, để rồi cuối cùng bị rơi vào quên lãng, mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực và chúng ta vẫn chứng nào tật ấy.

Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã phán:

– Không có Thầy, các con không thể làm gì được.

Hay như lời tục ngữ Việt Nam cũng đã xác quyết:

– Mưu sụ tại nhân, thành sự tại thiên.

– Không thầy đố mày làm nên.

Trong mọi hoàn cảnh, hãy khiêm nhường và tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, cùng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta dù tài năng thấp kém cũng có thể làm được những việc kỳ diệu.

Năm 1683, đoàn quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến đến kinh thành Vienne, đe dọa toàn thể thế giới công giáo. Tình hình đen tối. Phương tiện lại thiếu thốn. Mặc dầu vậy, Đức thánh cha Innôcentê XI, một mặt kêu gọi mọi người cầu nguyện, nhất là lần hạt mân côi. Một mặt hoài giải những bất đồng giữa các vua chúa, kêu gọi họ sát cánh bên nhau để chiến đấu, cũng như tin tưởng Chúa sẽ phù trợ.

Khắp nơi đều vang lên những tiếng khẩn cầu tha thiết. Và sự gì phải đến, đã đến. Đoàn quân công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, giải thoát toàn thể Âu Châu khỏi sự tàn phá của Thổ Nhĩ Kỳ.

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng:

– Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Nhưng với Chúa, chúng ta có thể làm được mọi sự.

Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa, như lời khuyên của thánh Phanxicô Salêsiô:

– Chúng ta có thể hái những bông hoa bên vệ đường, miễn là bàn tay phải nắm chặt lấy Chúa.

Cũng vậy, trong khi thu lượm những thành quả trần thế, hãy giơ một bàn tay cho Chúa, đừng bao giờ rời xa Ngài, vì nếu Ngài không gìn giữ chở che, chắc chắn chúng ta sẽ té ngã.

Hãy làm việc như chỉ có mình chúng ta. Đồng thời hãy tin tưởng như kết quả chỉ do một mình Thiên Chúa ban mà thôi.


23. Đức tin

Có lẽ chúng ta bỡ ngỡ và thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu lại so sánh đức tin với hạt cải? Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở xứ Palestin, nhỏ hơn hạt quả trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khoảng 4 – 5 thước. Hạt cải nhỏ bé như vậy mà chẳng lẽ người tín hữu Chúa lại không có được một lòng tin nhỏ bé như thế sao? Nếu có, thì tại sao họ không thực hiện được những việc vĩ đại kỳ lạ như Chúa đã hứa? Vậy, hoặc là họ không có một chút đức tin nào, dù chỉ bằng hạt cải. Hoặc là lời Chúa phải có ý nghĩa khác?

Đúng vậy, khi lấy hạt cải làm thí dụ, Chúa không có ý dạy rằng đức tin có thể đo lường được, vì không những đức tin thuộc lãnh vực tinh thần, thiêng liêng mà còn là một yếu tố siêu nhiên, siêu phàm mà chúng ta chỉ lãnh hội được qua dấu hiệu hay việc làm bên ngoài thôi. Thực vậy, người ta không thể nhìn thấy đức tin, vì nó không phải là vật chất. Nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc thế giới tính thần. Người ta không thể thấy được nó, nhưng có thể biết nó có, nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Thí dụ: tôi có đức tin không, chẳng ai biết nhưng khi thấy tôi đi lễ, thấy tôi đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được tôi là người có đức tin. Vì tin có Chúa, tôi mới đi lễ để thờ phượng Ngài, tôi mới nghiêm trang để tôn kính Ngài. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ, mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.

Tuy nhiên, đức tin không phải là một năng lực diệu kỳ ban cho chúng ta để chúng ta làm những chuyện động trời, giật gân như những nhà ảo thuật, pháp sư hay phù thủy cao tay ấn hầu trình diễn cho mọi người giải trí. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói đức tin bằng hạt cải có năng lực chuyển núi rời non, truyền khiến cho cây khô héo, hoặc tự bứng đi xuống sống dưới biển, Ngài chỉ có ý đề cập tới sức mạnh siêu phàm của đức tin mà thôi. Cũng như người ta không thể đo lường đức tin như đo lường hạt cải, thì đức tin cũng không phải dùng để làm trò ảo thuật. Việc chuyển núi rời non không phải chỉ tùy thuộc vào đức tin mà còn tùy ở nhiều yếu tố khác nữa.

Chúng ta có đức tin không? Chúng ta cần phân biệt niềm tin và đức tin. Niềm tin thì ai ai cũng có. Còn đức tin thì chỉ những ai đã lãnh bí tích rửa tội mới có mà thôi. Vậy tất cả chúng ta đều có đức tin. Nhưng hiện giờ đức tin của chúng ta thế nào? Có lẽ vẫn còn rất yếu kém phải không? Có bao giờ chúng ta noi gương các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta không? Các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin, có nghĩa là các ngài đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta cũng vậy, chúng ta đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta phải xin Chúa gia tăng đức tin để chúng ta sống và hành động theo đức tin.

Người ta kể rằng: tại một giáo xứ kia, người ta tụ họp nhau rất đông trong nhà thờ để cầu xin Chúa cho trời đổ mưa, vì trời hạn hán quá lâu rồi, trong khi mọi người đến nhà thờ cầu nguyện thì có một em thiếu niên cũng đến và đem theo một cái dù. Mọi người thấy em cầm cây dù tới nhà thờ thì xì xào với nhau: “Thật là dở hơi, trời đang hạn hán ai mà lại mang dù đến thế kia”. Cậu bé trả lời: “Ông bà cầu xin Chúa cho mưa, ông bà tin như thế phải không? Chắc chắn là Chúa sẽ cho mưa, nên tôi phải đem dù theo để lát nữa còn về được”. Quả thật, Chúa liền cho một trận mưa thật lớn sau giờ cầu xin của mọi người. Nhưng có lẽ không phải vì đức tin của những người khác mà là do đức tin vững chắc của em thiếu niên đem theo cây dù kia.

Tôi xin nói thêm một chút nữa: cũng giống như mọi tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được sinh lợi. Năng khiếu không được rèn luyện sẽ mai một với thời gian, một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta diễn tả đức tin bằng những việc đạo đức, và chúng ta còn phải nuôi dưỡng đức tin bằng nhiều cố gắng khác nữa, nhất là sống quảng đại, vị tha và yêu thương.

Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta không ngừng ra khỏi cái nhìn gò bó, hẹp hòi của chúng ta, và không ngừng nhận ra Ngài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong những biến cố bất ngờ và nghịch thường nhất. Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong mọi người anh em, nhất là nơi những người thấp hèn, những người bất hạnh, và ngay cả nơi những người thù ghét chúng ta.

Người Kitô hữu tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Đức tin ấy không chỉ là hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một đức tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin, có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Người Kitô hữu luôn được mời gọi lớn lên trong đời sống đức tin của mình. Đức tin là một mầm sống phải không ngừng được triển nở và lớn lên mãi. Người Kitô hữu cần được lớn lên mỗi ngày. Nhưng giữa những thực tế của cuộc đời, biết bao bóng tối có thể bủa vây chúng ta, có thể làm chúng ta sợ hãi. Những lúc ấy đức tin non yếu của chúng ta dễ dàng bị lung lay. Chính vì thế chúng ta luôn phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.


24. Niềm tin

Thử thách đau khổ là điều chúng ta không thích lắm. Vậy mà chúng ta vẫn gặp trong cuộc đời. Thế nhưng nếu biết tín thác vào Thiên Chúa, vươn lên bằng một sức mạnh của niềm tin. Sứ điệp lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta củng cố và khám phá lại xem niềm tin của mình lãnh nhận từ đâu? Và chúng ta đón nhận sức mạnh niềm tin đó bằng cách nào và thể hiện niềm tin đó ra sao trong môi trường sống của mình. Tôi đã chấp nhận điều mình không thấy dựa vào lời chứng của người khác đáng tín nhiệm hơn. Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người trong việc thể hiện niềm tin, nếu Ngài không giúp, không ban sức mạnh, chúng ta không thể dấn thân và hướng về Ngài được. Bởi vậy, đức tin trước hết là một hồng ân, một món quà chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa một cách nhưng không, nhưng rất có giá trị. Vì thế, người Kitô hữu không được tự mãn với giá trị đó nhưng phải khao khát tìm kiếm như các tông đồ hôm nay trong bài Tin Mừng này, tìm Ngài xin Ngài hướng đi.

Trong những năm tháng đi theo Thầy, sống bên Thầy, học cùng Thầy, các tông đồ vẫn chưa đặt trọn cả con tim, tấm lòng của mình vào Thầy, bởi thế đứng trước những khó khăn, điều khiển cộng đoàn, các ông cảm thấy chưa đủ can đảm để chu toàn bổn phận cao cả ấy, nên đã chạy đến cầu cứu Thầy gia tăng sức mạnh để gánh vác cộng đoàn. Tại sao các ông lại khao khát đến thế? Bởi vì các ông đang cần, đang thiếu nên mới xin Thầy ban cho, ban thêm đức tin cho mình. Trong khi các ông đang khao khát một lòng tin vững mạnh thì Thầy lại ban cho một hạt đức tin bé nhỏ như hạt cải. Trước lời cầu xin đó Chúa mời gọi các ông ý thức lại tầm quan trọng và giá trị của niềm tin mình. Bằng cách hãy rời bỏ chỗ đứng của mình chuyển sang chỗ đứng đức tin, rời xa tầm nhìn của mình chuyển đến tầm nhìn đức tin. Ngày nay khi khoa học ngày càng phát triển, người ta tin vào nỗ lực tri thức mình hơn là tin Chúa. Theo bạn nghĩ gì về vấn đề này? Như thế để có được sức mạnh của niềm tin người tông đồ phải làm gì? Thiết nghĩ rằng cần mở lòng đón nhận qua sự gặp gỡ và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.

Cảm nhận sự hiện diện Thiên Chúa sẽ giúp người ta đón nhận được niềm tin đối diện với thử thách trong việc lựa chọn: dấn thân hay lùi bước, củng cố niềm tin hay đành đánh mất niềm tin. Cần sống tích cực hơn để tránh rơi vào tình trạng ngã lòng, kêu trách Thiên Chúa như dân Cựu ước năm xưa mà ngôn sứ Habacúc trong bài đọc I vừa nêu lên cho chúng ta. Cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa còn là tin Chúa, để Chúa lôi kéo, dẫn đi, biến đổi và gia tăng sức mạnh giúp người tông đồ can đảm chịu đựng đau khổ, không hổ thẹn làm chứng cho Tin Mừng như bài đọc II trong thư thứ 2 thánh Phaolô tông đồ gửi cho Timothê vừa nhắn gửi chúng ta tư tưởng này. Vì thế đón nhận niềm tin là dịp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và tín thác vào Ngài.

Gặp gỡ Thiên Chúa là tín thác vào Ngài để lãnh nhận một sức mạnh mới thôi thúc người tông đồ dám mạo hiểm trong cách nghĩ, dám hành động trong cách làm ngay cả những công việc vượt sức con người. Gặp gỡ Chúa trong niềm tin giúp người ta dễ dàng qui hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp nơi mình. Lúc đó, người ta mới có đủ sức mạnh để chuyển núi dời non… mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu trong cuộc sống và thể hiện hoa trái của niềm tin.

Sống đức tin đòi người ta phải hành động như lời thánh Giacôbê: “Đức tin không hành động là đức tin chết”. Hành động ở đây là hành động vô vị lợi, phục vụ nhưng không. Cách phục vụ này ngoài đời rất khó gặp, bởi vì không ai làm công không cho người khác bao giờ. Để đức tin sinh ơn ích, người Kitô phải sống như người đầy tớ tầm thường trước mặt Chúa, phải hành động như người làm công vô dụng, vô dụng không phải là vô tích sự nhưng có nghĩa là chu toàn bổn phận những công việc hàng ngày một cách khiêm nhường không cần ai biết đến, không tìm quyền lợi cho mình. Đó là cách trao ban niềm tin, phục vụ niềm tin cho người khác.

Đã đón nhận thì phải có trao ban, trao ban với tinh thần trách nhiệm: Không đòi Chúa trả công, bắt người ta đền ơn mình. Vì đức tin chúng ta lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa thì giờ đây chúng ta phải trả lại nhưng không trong việc trao ban tình thương, chia sẻ tình bác ái cho tha nhân.

Là người Kitô hữu: không phải lúc nào niềm tin của chúng ta cũng vững mạnh cả đâu: có những lúc tôi cảm thấy có Chúa, tin Chúa, yêu Chúa bởi vì tôi gặp điều tốt lành, nhận nhiều hồng ân…

Có những lúc tôi cảm thấy không có Chúa, chán Chúa, đâm ra nghi ngờ không tin Chúa nữa bởi vì tôi gặp nhiều bất hạnh đau khổ, thử thách: cháy nhà, gặp tai nạn, thiên tai, lũ lụt, mất mùa, mất nhà, mất của mất người thân, hoặc thất nghiệp, thất bại, thất tình… Những lúc đó chúng ta đừng quá bi quan nhưng cần phải bình tĩnh suy nghĩ lại cho dù ta có đay nghiến ông trời, nguyền rủa Thiên Chúa, than thân trách phận, chúng ta cũng không tránh khỏi những đau khổ thử thách. Cho bằng chúng ta:

. Hãy lắng nghe tiếng Chúa, ý Chúa muốn tôi trong hoàn cảnh nào?

. Cầu nguyện, đón nhận, phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.

Niềm tin luôn là một ân huệ Chúa ban: nên để có được sức mạnh niềm tin mình, người tông đồ cần phải biết mở lòng đón nhận, khao khát tìm kiếm ơn Chúa và thể hiện trong cuộc sống để niềm tin chúng ta mỗi ngày càng sinh nhiều hoa trái. Hoa trái này cần phải cụ thể bằng một quyết tâm cho mình: “Sống điều mình tin bằng việc yêu thương, giúp đỡ, nâng đỡ anh em đang gặp thử thách bên chúng ta”.


25. Đức tin giúp con người hạnh phúc

Trong một lần đi chia sẻ với các em sinh viên tại bờ hồ cạnh ký túc xá Tân Phú Thủ Đức, một em sinh viên khi chia sẻ trả lời câu hỏi “Là Kitô hữu, bạn được gì?” nói: “người bạn trong phòng của em thấy em thường cầu nguyện ban tối trước khi ngủ cũng như đi lễ Chúa Nhật, có lần đã nói với em: bạn có đạo, bạn hạnh phúc hơn mình, vì bạn có Chúa. Khi bạn buồn bạn có Chúa để nói, còn mình không có Chúa và bạn thân không ở gần, nên khi có điều buồn chẳng biết chia sẻ cùng ai”. Đức tin không vô bổ như có một số người hay “rêu rao”. Đức tin giúp con người vượt qua những khủng hoảng trong cuộc sống, giúp người ta sống an bình và chấp nhận cuộc đời.

Nhờ tin, được sống

Đức tin cứu độ không chỉ là tin có Thiên Chúa. Vì tin có Thiên Chúa, ngay cả ma quỷ cũng tin có Thiên Chúa (Gc.2, 19). Tin có Thiên Chúa, chưa đủ để giúp con người vượt qua những khó khăn và được bình an trong cuộc sống. Đức tin cứu độ, là tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài đang làm những điều tốt nhất cho mình.

Đức tin cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Không có ơn Thánh Thần, con người không thể tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chính đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa này, mà con người xin Thiên Chúa “gia tăng lòng tin của chúng con”. Đức tin, cũng bao hàm thái độ phó thác tất cả nơi Thiên Chúa. Thái độ phó thác chỉ có, khi tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Chính thái độ tin này, làm con người bình an ngay trong nghịch cảnh, ngay khi những điều trái ý đang xảy ra với mình, ngay cả khi dưới con mắt nhân loại đó là tuyệt vọng.

Trong cuộc sống, ai lại không gặp những khó khăn. Có những lúc, ngay cả những người thân yêu cũng như thể chẳng hiểu mình, như thể mình cô độc trên đời. Tin vào Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình, Ngài sẽ giúp mình vượt qua sự cô độc đó. Có nhiều trường hợp gặp quá nhiều khủng hoảng, một người muốn tự tử để “được giải thoát” khỏi tất cả. Tuy vậy, vì tin rằng Thiên Chúa yêu thương và Ngài tạo dựng mình, Ngài yêu thương mình, và nếu có ai làm hại mình thì Thiên Chúa vẫn có thể lèo lái để ngay cả điều hại cũng thành tốt cho mình, nên người đó đã vượt qua khủng hoảng kinh khiếp đó. Cũng có thể mình và gia đình mình gặp gian nan thử thách như thể không thể vượt qua, tin vào Thiên Chúa yêu thương và phó thác tất cả cho Ngài, sẽ giúp mình và gia đình vượt qua những gian nan thử thách.

Kinh Thánh Cựu Ước có rất nhiều trình thuật cho thấy lòng tin của con người đối với Thiên Chúa. Chẳng hạn ông Nô-ê đóng tàu trong một hoàn cảnh không có gì đe dọa, và cam chịu những tiếng cười chê khinh bỉ (St.6, 5tt). Khi lụt hồng thủy đến, ông và gia đình đã sống nhờ chiếc tàu. Chính nhờ tin và vâng lời Thiên Chúa, mà ông và gia đình đã được cứu.

Đức Maria- người tin tuyệt đối vào Thiên Chúa

Hôm nay là lễ Mân Côi (07.10.01), cũng là dịp chúng ta nhìn lên Đức Mẹ, để thấy Mẹ tin vào Thiên Chúa như thế nào. Nhiều người Công Giáo chịu ảnh hưởng bởi quan niệm Đức Maria được Thiên Chúa yêu thương và được chuẩn bị cho là Mẹ Thiên Chúa, nên nhìn Đức Maria như thể rất xa vời với mình, bởi vậy khó nhận ra Đức Mẹ có những điểm giống mình và mình được mời gọi nhìn lên Mẹ để noi gương bắt chước.

Hãy nhìn Mẹ trước biến cố truyền tin, như bất kỳ một cô gái nhà quê nào khác ở Nazarét. Maria đã yêu Yuse và muốn lập gia đình với Yuse như chuyện thế gian thường tình. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, và Maria đã chấp nhận đề nghị của Thiên Chúa bất chấp:

Nguy cơ mất người mình yêu mến là Yuse, vì làm sao Yuse có thể hiểu “tự nhiên” mà Maria có thai;

Nguy hiểm đến tính mạng, vì chỉ cần Yuse nói sự thật, cái thai đó không phải của Yuse, thì tính mạng Maria vô cùng nguy hiểm. Luật Do Thái truyền ném đá những người ngoại tình;

Danh tiếng gia đình bị ô nhơ, vì con gái “không chồng mà có con”.

Với tất cả những điều này, Maria vẫn thưa tiếng xin vâng, nghĩa là, Maria chọn Thiên Chúa trên tất cả, trên cả tình yêu riêng của mình, trên cả danh giá gia đình, trên cả mạng sống của mình. Maria chỉ có thể thưa tiếng xin vâng, khi Maria tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa sẽ lo tất cả cho mình.

Mẹ Maria tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, và sẵn sàng để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên cuộc đời mình. Chính điều này, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời. Thái độ này không chỉ xảy ra một lần trong cả đời của Mẹ, nhưng đã liên tục xảy ra suốt đời của Mẹ, chẳng hạn như lúc sinh hạ Con trong chuồng chiên cừu, khi Đức Giêsu cố tình ở lại đền thờ, khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Cuộc đời của Mẹ, có lẽ còn nhiều gian nan và thập giá hơn cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi, để có thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa như Mẹ.

Nếu có đức tin bằng hạt cải

Đức Giêsu nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây dâu này, nhổ rễ và chuyển xuống biển mà mọc, thì nó sẽ vâng lời”. Không ai đã làm như vậy, hoặc vì không ai có đức tin bằng hạt cải, hoặc vì những điều “lạ thường” đó vẫn đang xảy ra mà con người không nhận ra thôi. Chính Đức Giêsu cũng không chuyển núi dời non, nhưng Ngài đã làm những điều rất “không bình thường” trong cuộc sống: Ngài đã chấp nhận cái chết, cái chết ô nhục trên thập giá, vì yêu.

Xin Chúa cho chúng ta có đức tin “bằng hạt cải”, hầu có thể khiêm tốn và kiên nhẫn phục vụ anh em trong cuộc sống thường ngày. Xin cho chúng ta có đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa tình yêu, hầu chúng ta sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này và ở đây, giây phút này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Để có thể phục vụ cách khiêm tốn, có cần đức tin không? Tại sao?
  2. Không đức tin, con người có thể sống hạnh phúc không? Tại sao?
  3. Với kinh nghiệm bản thân, đức tin (tin vào Thiên Chúa) giúp gì cho bạn?


26. Máy thời gian – Lm. Vũ Minh Nghiễm

“Nếu đức tin bằng hạt cải”

Hôm nay, kính mời bà con cô bác cùng làm một chuyến du hành.

Chúng ta hãy ngồi vào máy điện toán thời gian, và đi giựt lùi trở lại vào lịch sử. Đi đến năm 1776, trong tay không quên mang theo một tờ nhựt báo hôm nay.

Đến nơi rồi, chúng ta hãy dâng tặng cho tổ tiên của chúng ta tờ báo mang theo. Chúng ta thấy các ngài mới vừa đọc là đã chau mày lại, vì có nhiều danh từ trên tờ bác các Ngài không hiểu nổi. Ví dụ: xe hơi, máy bay, phi hành gia, radio, TV, vân vân…

– Nầy các cháu, xe hơi nghĩa là gì? các ngài hỏi.

– Kính thưa tiên tổ, xe hơi là thứ xe chạy bằng dầu, bằng xăng, hay một thứ nhiên liệu nào khác, không cần người đẩy hoặc ngựa kéo.

– Xe mà không cần ngựa hoặc người kéo hay đẩy, làm sao có thể chạy được? Chứ máy bay nghĩa là gì?. Tiên tổ hỏi tiếp.

– Thưa tiên tổ, máy bay là một thứ máy xe hay tàu, ngồi lên là nó nổ ầm ầm, rồi cất mình bay bổng lên thượng tầng không khí, mang hành khách đi thật mau, thật xe, nước nầy sang nước khác, châu họ sang châu kia.

– Xe hay tàu, bay sao được? Bay là phải có cánh. Chim nhờ có cánh mới bay, chứ xe, hay tàu, làm thế nào mà bay? Các cháu khùng rồi. Chứ TV nghĩa là gì?

– Thưa, TV là một cái máy truyền hình. Người ta ngồi ở nhà mà có thể xem được và nghe được những việc đang xảy đến cách xa ngàn vạn dậm, như bên Tàu chẳng hạn.

– Thôi! Thôi! Tổ tiên các cháu hiểu cả rồi. Các cháu khùng khùng hạng nặng! Xe không người đẩy, không ngựa kéo mà có thể chạy được. Tàu mà có thể bay được, máy mà có thể chiếu hình sống động xa từ bên Trung Quốc, chiếu vào tận trong nhà được! Quả thực, các cháu đau bệnh thần kinh nặng lắm. Nghe nói ở VN có những nhà thương Dưỡng Trí tại tỉnh Biên Hoà, hay chỡ Rẫy gì đó. Các cháu nên đến ghi tên vào gấp trước khi quá trễ.

Thấy ông bà tổ tiên chẳng ai hiểu được chúng ta, đi tới đâu chúng ta cũng bị các ngài mắng cho là điên là khùng, chúng ta buồn rầu, lại ngồi vào máy thời gian, trở về với vị trí hiện thời của chúng ta.

Bấy giờ chúng ta thấy rõ rằng những điều mà người một thế hệ coi là tầm thường thì người của thế hệ khác lại cho là lạ lùng không thể có được. Điều mà người của thế kỷ kia không bao giờ dám mơ tưởng đến thì người của thế hệ này lại coi như dĩ nhiên.

Và đây là bài học của chuyến du hành đi về quá khứ.

Sống trên đời, nếu chúng ta có được thái độ tin tưởng rằng một việc nào đó có thể thực hiện được, chúng ta sẽ có cơ may thành công. Trái lại, nếu chúng ta giữ cái thái độ chủ bại, hoài nghi rằng việc đó không thể thực hiện được, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ thất bại.

Bây giờ mời bà con cô bác lại tiếp tục cuộc thử nghiệm của chúng ta.

Nầy đây có một đứa chắt chút của chúng ta từ năm 3000 cũng ngồi máy thời gian trở về thăm chúng ta là những người đang sống trên quả đất nầy hôm nay. Khi ngồi máy thời gian trở về, người chắt chút nầy cũng mang theo trong tay một tờ nhựt báo biếu cho chúng ta. Khi đọc, chúng ta tuyệt nhiên không thấy có một chỗ nào nói đến nạn cao bồi du đãng, ma túy nghiệm ngập, cướp của giết người. Không có chỗ nào nói đến nghèo khổ, giặc giã chiến tranh giữa phe nầy với phái khác, giữa nước nọ với nước kia. Không có những chuyện đau thương, hỗn loạn như chúng ta đang mục kích trong thế kỷ 21 nầy. Tờ nhựt báo chỉ nói toàn những chuyện an bình thịnh vượng, tương trợ, tương ái, tương thân.

Đọc qua tờ báo, chúng ta có cảm tưởng như thế nào?

Hẳn chúng ta sẽ nói với người cháu chắt chút từ năm 3000 trở về thăm chúng ta là tổ tiên rằng:

– Này cháu, những gì nói trong tờ báo của cháu đây toàn là chuyện hoang đường, đầy luận điệu tuyên truyền cho những người của thế kỷ 21. Một thế giới an bình thịnh vượng, và người người được lạc nghiệp an cư, trong yêu thương thân thiện… thế giới đó chỉ có trong giấc mơ mà thôi, cháu ạ. Một người có chút lương tri thấy rõ như ban ngày rằng, ở đâu có con người, thì ở đó có giàu nghèo, có tranh chấp; ở đâu có nước nầy nước nọ thì ở đó có bạo động, giặc giã chiến tranh…

Thấy chúng ta là tổ tiên, không hiểu nổi những chuyện viết trên tờ nhựt báo, người chắt chút của chúng ta buồn rầu từ giã ra về với thế giới năm 3000. Còn chúng ta ở lại với thế giới năm 2000, trí lòng đầy suy tư…

Sau hai cuộc thử nghiệm trên, chúg ta nhận thấy rằng những việc mà tổ tiên chúng ta của năm 1776 cho là hão huyền, như xe hơi, máy bay, radio, TV, thì chúng ta, con cháu của năm 2000 nầy thấy đó là sự thật.

Vậy những điều người chắt chút của năm 3000 nói về một thế giới an bình, thịnh vượng, mọi người đều tương trợ, tương ái tương thân, hôm nay chúng ta cho là chuyện hoang đường, biết đâu ngày mai sẽ thành sự thật?

Bài học quan trọng của hai cuộc thử nghiệm trên là đây:

Trước hết, nếu chúng ta sống với tâm trạng này rằng hòa bình trên quả đất hôm nay không thể có được, chúng ta sẽ thất bại trong công việc kiến tạo hòa bình trên quả đất.

Thứ hai, nếu chúng ta sống với tâm trạng nầy rằng thiên hạ chung quanh chúng ta toàn là người vô tâm vô tình, vị kỷ, khó thương. Chúng ta sẽ thất bại trong công việc xây dựng một xã hội tận tình, vị tha, dễ thương dễ mến.

Sau cùng, nếu chúng ta sống với thái độ nầy rằng các nước thiên hạ, ngàn đời, cha truyền con nối, tiếp tục bạo động, hận thù ghen ghét nhau, chúng ta sẽ thất bại trong cố gắng hòa giải. Và Liên Hiệp Quốc vẫn bị mang tiếng xưa nay là con chó chết mà thôi.

Vậy, chúng ta phải kết luận rằng:

– Hoà bình trên quả đất nầy có thể có được.

– Tình tương thân tương ái giữa những người chung quanh chúng ta có thể thành sự được.

– Sự thuận an giữa các quốc gia có thể kiến tạo được.

Lý do khiến những viễn tượng trên đây có thể thành sự thật là vì Chúa Yêsu đã đến với chúng ta, đang ở giữa chúng ta, đang dạy bảo chúng ta phải ăn ở như thế nào cho hợp đạo làm người.

Lý do khiến giấc mơ hòa yêu thương giữa loài người nói chung, giữa những người chung quanh chúng ta nói riêng, có thể thành tựu được là vì chính Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. Bằng không, Ngài đã chẳng hề dạy chúng ta cầu xin trong kinh “Lạy Cha” rằng: Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời vậy. Ngài đã chết để làm cho “Nước Cha trị đến” được thành sự thật. Ngài đã sống lại để khiến cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Đây cũng là chính điều Chúa Yêsu dạy chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay.

“Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dầu có bảo cây dâu này: hãy bật gốc lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời.”

Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay là đây: “Nhờ đức tin, quyền lực của Thiên Chúa ở trong tay chúng ta.” Do đó, không còn việc gì gọi là không thể thực hiện được nữa. Dầu là một thế giới trong đó không còn chiến tranh nữa, không còn đói khổ nữa, không còn hận thù nữa.

Chúng ta hãy nhớ lại cuộc du hành không gian. Những điều mà người thế kỷ trước coi như không thể có, thì người thế kỷ sau cho là tầm thường. Và ngay trong cùng một thế kỷ, điều mà người nầy cho là không có thể làm, thì ngươi khác lại làm được. Thánh Grê-go-ri-ô đã chuyển một hòn núi đi nơi khác, lấy chỗ mà làm nhà thờ. Thánh Raymond Pennafort lần kia đã lấy áo làm thuyền đi qua mặt biển…

Chỉ vì các Ngài đã có lòng tin kiên vững vào lời Chúa phán trong ngày hôm nay: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải thôi…”

Vậy trong tất cả mọi sự, làm được hay không làm được, và làm được thì làm đến mức nào, tất cả đều do nơi lòng tin của chúng ta mạnh hay yếu mà thôi.

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa thêm đức tin cho con. Nếu không lớn bằng hạt cải, thì bằng nửa hạt cải cũng tạm được cho con hôm nay.


27. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn

“Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng tôi” (Lc 17:5).

Khi trở thành người Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự của ký giả Tim Drake trên tờ National Catholic Register, số ra tháng 2 năm 2001, nói về những khó khăn mà một số các vị mục sư phải đương đầu khi trở lại với niềm tin Công giáo. Chẳng hạn, mục sư tiến sĩ Kenneth Howell, thuộc phái Tin lành Trưởng lão (Presbytarian church), đã tâm sự: “Sau khi nghiên cứu và học hỏi về Bí tích Thánh Thể, tôi nhận ra rằng các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai đã cùng đồng nhất trong niềm tin vào Mình và Máu Đức Kitô.” Việc nhận biết này kèm với những khám phá về nền tảng của thiên chức linh mục và tinh thần hiệp nhất Kitô hữu đã khiến Kenneth tiếp cận thân thiết hơn với đạo. Tuy nhiên vì có những khác biệt trong thực hành nên phải đến bốn năm sau Kenneth mới thật sự trở lại.

Nói đến trở lại là nói đến những tác động khủng khiếp trên đời sống, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, bạn bè, thân hữu. Có những người từng là mục sư lâu năm như Kenneth, bây giờ trở thành người Công giáo, ông ta sẽ làm gì để sống? Có ai trọng dụng tài năng của ông? Làm thế nào để trợ cấp cho gia đình? Việc chịu chức của họ trong các giáo hội trước đây có còn ý nghĩa gì nữa chăng?

Biết bao vấn đề được nêu lên. Nhưng vấn đề lớn nhất là sự thiếu cảm thông trong gia đình và nơi bạn bè. Maricus Grodi, 59 tuổi, một cựu mục sư phái Tin lành Trưởng lão tâm sự: có lắm điều mà vợ con hay giáo hữu của mình không thể chấp nhận, có khi vì thành kiến với Đạo, nhưng cũng có khi vì họ thiếu cơ hội nghiên cứu học hỏi. Họ không thấy được những gì mình được thấy.

Ngoài những thách đố trong niềm tin và liên hệ gia đình, còn có thách đố về nghề nghiệp sinh sống. Như Kenneth từng dạy tại một chủng viện Trưởng Lão suốt 7 năm. Bắt đầu mỗi niên học, các giáo sư thường được yêu cầu ký vào bản tuyên xưng niềm tin căn bản của Giáo hội Trưởng lão. Nhưng đến một ngày, Kenneth đã không thể làm điều đó và quyết định nghỉ việc. Nghỉ việc là phải đương đầu với bao khó khăn tài chánh gia đình.

Khi đọc qua những thách đố mà bao vị mục sư đã gặp phải khi trở lại với niềm tin Công giáo, tôi tự hỏi: động lực nào đã khiến họ dám đánh đổi tất cả cho niềm tin Công giáo như vậy? Họ nhận được gì, khi mà dưới cái nhìn khách quan thì dường như họ đang mất đi rất nhiều: mất nghề nghiệp, giáo dân, bạn bè, và có khi còn mất cả tình cảm cha mẹ, vợ con?

Phải chăng vì những con người đó đang có cùng một tâm tư như Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài” (Phil 3:8-9).

Lợi được Đức Kitô, và là một Đức Kitô đang hiện hữu trọn vẹn trong Bí tích Thánh Thể, được thuộc về Đức Kitô, và là thuộc về một Đức Kitô hiệp nhất, không bị xé mảnh, không bị phân tán hay méo mó, đó là con đường giải thoát chân chính mà Thánh Phaolô đã khám phá và không ngừng viết đi viết lại vì lợi ích của các Kitô hữu.

Thánh Phaolô là người đã khám phá dung mạo tuyệt vời của Đức Kitô để sau đó làm một cuộc trở lại, tiên phong cho bao cuộc trở lại khác. Việc trở lại của Phaolô, trước hết là một sự hoán đổi cái nhìn về Đạo. Sự kiện mắt ông bị loà không thấy được gì trên đường đi Đamas, để rồi sau đó được chữa lành và tiếp nhận một khả năng nhìn mới, đã khẳng định: cái nhìn của Phaolô về Đạo đã được đổi thay, và từ đây một đời sống mới bắt đầu.

Ngày hôm nay, được chứng kiến bao cuộc trở lại, tôi tự hỏi: Có nhiều người thấy được những giá trị vô biên của niềm tin Công giáo, của Bí tích Thánh Thể, của sứ mạng hiệp nhất Kitô hữu, và đã dám đánh đổi những gì đáng yêu nhất trên thế gian hầu có được những điều họ vừa tìm gặp. Phần tôi, người mang danh có Đạo, liệu tôi có thật sự trân quí niềm tin của mình và nhiệt tâm chia sẻ sức sống múc được từ niềm tin đó cho kẻ khác không? Tôi có dám đánh đổi chút gì trong đời để giữ gìn và làm tăng trưởng niềm tin, nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể… hay tôi đã đánh mất tất cả từ lâu rồi?

Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn đang yếu kém của chúng con.” Xin cho chúng con gặp được Chúa như Thánh Phaolô đã gặp trên đường Đamas. Xin cho chúng con luôn biết trở lại mỗi ngày trong tâm tình yêu mến Thánh Thể và Giáo hội. Để nhờ đó đời chúng con luôn tràn đầy sức sống của trời cao và không ngừng trao ban tình Chúa cho mọi người. Xin Chúa Thánh Thần kiện toàn đời sống và lời nguyện xin của chúng con. Amen”.


28. Đức tin trong bóng tối

Một buổi chiều nọ, nhà khảo cổ học Gene Savoy và các bạn đồng nghiệp bị lạc lối trong một khu rừng ở nước Peru. Họ cảm thấy lo sợ vì nếu họ không tìm được doanh trại của họ thì sẽ phải chết trong khu rừng này. Họ chạy toán loạn đi tìm con đường mòn đã dẫn họ đi vào rừng. Thình lình họ nhận thấy rằng sự hỗn loạn đi tìm con đường mòn chỉ làm tăng thêm sự mệt mỏi vô ích. Họ lấy lại bình tĩnh và đứng yên lặng suy nghĩ. Một tia sáng đã bừng lên trong trí óc. Savoy ghi lại điều đó: “Tôi đưa mắt nhìn vào một thế giới đẹp đẽ của những cánh hoa xinh xắn, mùi hương thơm từ những cánh hoa nở rộ, và những con chim hót líu lo. Đúng thế, Thiên Chúa ở đây. Tâm hồn tôi trầm tĩnh. Tôi bình tĩnh bước vài bước về bên trái và tôi tìm thấy con đường mòn.”

Câu chuyện trên ăn khớp với các bài đọc hôm nay. Trước hết, nó minh chứng những lời trong sách Khabacúc, “Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín.” Thứ đến, nó minh chứng cho những lời Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc Âm, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiếu cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’ nó liền vâng lời các con.”

Đây là điểm thường làm cho chúng ta phải lo lắng, liệu đức tin của chúng ta có bằng được hạt cải? Cho dù đức tin của chúng ta rất mạnh mẽ đến đâu, thì cũng có lúc nó mịt mù yếu ớt. Điều mà hôm nay trong sáng, mai lại có thể tối tăm mù mịt. Giống như mặt trời có lúc ẩn sau đám mây, rồi lại hiện ra trong sáng.

Đức tin chúng ta tăm tối thường thì bởi ba lý do sau: Bản tính con người, chính chúng ta, hoặc Thiên Chúa.

Trước hết, nó có thể là do bởi bản tính con người nghĩ là có lúc “hứng cao” lúc “cụt hứng”. Nói cách khác, đức tin của chúng ta bị ảnh hưởng bởi tâm trạng hoặc mất hứng trong con người.

Một tác giả đã viết về cảm nghiệm này như sau: “Một ngày kia, cuộc sống thật đẹp đẽ, chúng ta cảm kích mọi sự và mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những gian truân đau khổ trong cuộc đời. Một ngày khác, cuộc sống thật đen tối, đó là lúc chúng ta có thể đếm được rất nhiều kẻ thù, tìm ra được khuyết điểm của mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những lúc vui vẻ trong cuộc đời” (Anthony Padovano, Belief in Human life).

Thứ hai, nguyên nhân đức tin chúng ta trong đêm tối là bởi do chính chúng ta. Chúng ta có thể coi trọng thân xác bên ngoài hơn là linh hồn bên trong. Nghĩa là, chúng ta để cho đời sống đức tin yếu dần đi do bởi vì chúng ta phạm tội và không dùng những của ăn thiêng liêng. Cũng giống như thân xác không ăn uống gì, lại còn thêm bệnh tật nữa thì chết dần chết mòn.

Thứ ba, đức tin trong đêm tối có thể là do chính Chúa an bài như thế. Nghĩa là, Thiên Chúa để cho xảy ra như vậy để chúng ta đào sâu và tăng cường hơn trong đời sống đức tin. Thiên Chúa dùng đêm tối này để giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đời sống đức tin, như Ngài đã từng thử thách Abraham khi Ngài nói phải sát tế người con duy nhất.

Trong những hoàn cảnh này, chúng ta hãy biết chấp nhận và dùng nó như là điều mà Chúa đã an bài cho chúng ta. Đó là sứ điệp mà chúng ta nhận được qua bài đọc hôm nay.


29. Chú giải của Noel Quesson

Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng

Thánh Luca vẫn luôn tả lại “cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ơ đây, Luca dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.

Sau khi đã nói với những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức Giêsu nói với các “Tông đồ”. Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành cho nhóm Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm Mười Hai mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính thức của Tin Mừng của Đấng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. “Apostoloi” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “những người được sai đi”.

Trong đời sống hằng ngày, tông đồ là một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban cho mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức về đặc quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm Mười Hai: Tính chất chính thống của “sứ vụ” và của việc “sai đi” do đích thân Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ đi. Họ là các “chứng nhân” của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy. Họ có thể nói lại: Những lời ấy đến trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của Người. Họ có thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người. Nhất là họ thấy Người sống động sau khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao điều đó cho đến tận cùng trời cuối đất.

Theo một ý nghĩa loại suy, Giáo Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các “tông đồ”. Nhưng những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc tích của chúng: Tôi cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi… để trở thành chứng nhân của Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình yêu của Người.

Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”

Danh xưng “Chúa” chỉ xuất hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu khi còn sống. Luca dùng danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không được sử dụng bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng Phục sinh.

Hơn nữa, lời cầu xin của các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy bạn hữu của Đức Giêsu nói với Người một lời “cầu xin”, “như thể” Người là Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin Mừng, với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.

“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”.

Trở thành tông đồ, không đơn giản là một quyết định của con người.

Trở thành chứng nhân của sự sống lại trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt như khi người ta đơn giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.

Chỉ có đức tin mới mở ra cho những thực tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi thứ duy lý của khoa học. Và đức tin là một “ơn của nhiên Chúa” “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”

Vậy thì ai, nếu không phải là chính Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và chối bỏ thảm hại của họ?

Vậy thì ai nếu không phải là Thiên Chúa, đã làm họ trở thành những “chứng nhân can đảm” đến độ chịu tử đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên, một điều chinh phục được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là sự đón nhận khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người không làm gì cả: “đón nhận” là một hành động tích cực cao độ của con người. Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức tin là một mặt trời. Một “ơn” luôn luôn được ban tặng cho tất cả mọi người. Nhưng phải mở cõi lòng mình ra. “Ơn của Thiên Chúa”, sáng kiến không mất tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được “cầu xin”: Lời cầu nguyện là cánh cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa. “Lạy Chúa, xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con…”

Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em

Một hình ảnh khó quên theo đúng kiểu mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý của Đức Giêsu. Hạt cải là loài “nhỏ nhất trong các loại hạt” (Mc 4,31). Còn cây dâu là cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân: Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần, Người đã từ chối các “dấu chỉ” kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình ảnh này, Người mạnh mẽ nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất khả, cho Thiên Chúa.

Một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì cả… thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp về phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất… để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.

“Các bạn hãy nhìn xem: Một trinh nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên đàng ở giữa chúng ta; chỉ còn một dân tộc… Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua, những kẻ có quyền thế bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng… Các bạn hãy nhìn: nước biến thành rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân chúng không còn đói nữa… chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, các sa mạc đầy hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy tràn…”. Chỉ cần một chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những người chán nản lấy lại niềm hy vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con đường không lối thoát được mở ra, chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái sinh… vâng, cây mọc trong biển, núi dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ cần một chút Đức tin… Gia đình đang khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng. Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra và Người đứng đó, bên kia biển! Và “cây cối nhảy múa vui mừng” (Thánh Vịnh 95).

Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau

Trước tiên chúng ta cứ để cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào thời của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là “vật sở hữu” của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.

Cần phải nói thêm rằng chúng ta không có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để biện minh cho những thái độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin Mừng biện hộ cho tình yêu thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.

Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

Lạy Chúa, phải đấy. Phải biết ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng con một chân lý rất quan trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những hình ảnh nghịch lý hầu như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người như chúng con.

Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm

Lạy Chúa, Chúa muốn nói về điểm này. Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội! mà là một bài học về các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con người hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ nực cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả trước mặt Người.

Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay chúng ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là “ông chủ”! Hình ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt nó đối lập với nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một “người cha”, một “người chồng”, kể cả một “người phục vụ”: “Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ “ (Lc 12,37). Chúng ta phải chấp nhận những mâu thuẫn bên ngoài đó.

Vâng, lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé, chăm lo thực hiện với lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con. Như Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn sàng để “phục vụ”. Thánh nữ Jeanne d’Arc đã nói: “Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên”. Đức Maria đã nói: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.

Hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi

Trước khi yêu cầu chúng ta, Đức Giêsu đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl. 2,6).

Những người Pharisêu sau cùng đã tưởng rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc của họ: Có qua có lại mà. Vả lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không tính công để trả lại cho chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự phụ rằng mình có một quyền năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một “thần tượng” chứ không phải trước mặt Thiên Chúa.

Thái độ chân thật duy nhất trước Thiên Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở thành người đầy tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã: Phục vụ, chính là thống trị!


30. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ

(Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn Lc 17,7-9 [10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của ông chủ đối với đầy tớ của ông.

Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.

Những gì chúng ta đọc được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải, là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao ước với họ.

Lời than thở này của Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm “vâng lời” mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta biết vai trò của mình và vâng phục.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức tin (17,5-6);

2) Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).

3.- Vài điểm chú giải

– xin thêm lòng tin (5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.

– Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.

– cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là “cây sung” (HL sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.

– đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công

– lại bảo nó…? (7): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.

– Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.

– vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng” (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn, đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là “vô dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô dụng” đây là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư cách anh cho anh được hưởng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức tin (5-6)

Chúng ta không biết động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non” (x. Mt 17,20) hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển”. Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người giúp đỡ: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).

* Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)

Với công thức Người chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.

Dụ ngôn được kể trong các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm gì?”; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng… Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là

Đấng tạo hóa và Chúa tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.

Dụ ngôn này cũng được các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn phận” mà thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.

+ Kết luận

Đức tin là niềm tín nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ, lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Đứng trước các trách nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin. Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người không sao làm nổi.
  2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.
  3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
  4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của triết học Tây phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.
  5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là tôi tớ “vô dụng”, chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn cả.
  6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).


31. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật

Xin thêm lòng tin cho chúng con

Các tông đổ xin với Đức Giêsu: “Xin cho chúng con thêm lòng tin!” Sao lại xin thêm lòng tin? Tin là thuộc lãnh vực phẩm chất, đâu thuộc lãnh vực số lượng mà lại xin thêm lòng tin. Có lẽ do tại cách nhìn về sự việc.

Và cũng như mọi lần, Đức Giêsu trả lời theo một đường lối khác, một cái nhìn ngược lại.

Một hạt cải trở thành một cây to lớn … một cây dâu mọc giữa biển … một ngọn núi di chuyển. Siêu thực: một từ ngữ có thể diễn tả đặc tính của bức tranh về một thế giới mới, một thế giới do Đức Giêsu công bố và trở thành hiện thực nhờ lòng tin. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngắm một bức tranh của những nhà danh hoạ về siêu thực.

Đức tin quả là có tính “siêu thực”. Tin là một cái nhìn khác về điều có thể. Tin là vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, vượt qua trật tự tự nhiên, để thấy được một hiệu quả khác. Nhờ tin, con người đạt tới một đời sống hoàn toàn mới mẻ, không chỉ là kết quả của những nguyên nhân vật chất, nhưng là một cuộc sống được tặng ban, một sự trào vọt, một cuộc sáng tạo phát xuất từ Thiên Chúa.

Quà tặng! Phải nhấn mạnh đến điều này. Tin là một hồng ân vô thường và nhờ tin mà nhận được những hồng ân khác. Thế nhưng, có lẽ người ta quá chú trọng đến quà tặng mà không chú ý đến chính việc làm. Người ta chờ có thể truyền lệnh cho núi non, người ta muốn thấy cây dâu mọc giữa biển khơi. Nhưng ít khi người ta làm việc với lòng tin, ít khi người ta biết đón nhận những điều giáo huấn. Người ta muốn có những kết quả lạ lùng trước khi thi hành những lệnh truyền của Chúa.

Chỉ là người tôi tớ

Chất liệu của dụ ngôn này dựa trên mối liên hệ giữa người nông dân và người đầy tớ của ông. Chắc chắn rằng người đầy tớ không có quyền gì đối với ông chủ. Sau những giờ làm việc cực nhọc ở ngoài đổng, người đầy tớ không được phép nhớ đến việc ăn uống, nghỉ ngơi. Người chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm, hay hầu hạ để cám ơn. Người đấy tớ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho chủ. Đến khi nào người chủ không còn sai khiến gì cả, thì người đầy tớ mới được nghỉ ngơi. Người đầy tớ không hề nghĩ đến việc tham dự vào thế giới của người chủ mà anh có bỗn phận phải phục vụ. Đối với anh, một món tiền gọi là lương, được ăn uống, chừng đó là tất cả.

Tại sao Đức Giêsu lại nói dụ ngôn này?

Từ trước tới nay, người biệt phái vẫn nghĩ rằng tất vả việc lành, việc thiện, việc đạo đức của họ đều là những công nghiệp trước mặt Thiên Chúa mà người đời phải suy tôn và Thiên Chúa phải tính công. Đoạn văn Tin Mừng kể về chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (xem Lc 18,11-12) cho thấy rõ ý tưởng này. Họ tưởng rằng những việc họ làm đã biến họ thành con người thánh thiện, đạo đức, và không cần đến Thiên Chúa, không cần sự can thiệp của Người. Chính sự tính toán này, thay vì làm cho họ trở thành những người thánh thiện, lại phá đỗ tất cả mọi việc họ đã làm. Họ ra về mà chẳng được tha tội, chẳng được Thiên Chúa xót thương. Trong khi đó, người thu thuế nhận biết mình là người tội lôỵi, nên trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa, và anh đã trở thành người công chính.

Thiên Chúa không hề mắc nợ ai. Con người chẳng có gì để tự hào trước Thiên Chúa, chẳng có gì để khoe khoang. Thực ra, tất cả mọi hành vi của con người đều là hồng ân của Thiên Chúa. “Không có Thầy, chúng con sẽ không làm gì được.” Vậy thì, con người có gì để mà kể công, để mà tự hào. Họ đừng ảo tưởng, đừng coi đó như công trạng, nhưng phải nhận ra rằng đó chỉ là bỗn phận, là trách nhiệm của mình. Mọi hành động phượng tự, mọi hành vi bác ái, thật ra vẫn chưa đủ để cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và của người khác. Con người có tạ ơn Thiên Chúa suốt cả đời mình cũng vẫn chưa đủ, vậy thì có gì mà tự hào, mà kể công. Cho dù có đem cả sức lực của mình để phục vụ người khác, con người cũng chỉ thực hiện những điều trong ơn gọi Ki-tô hữu của mình, cũng chỉ là để đáp lại hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình. Có gì đâu để khoe khoang, để kể công.

Bởi đó, nếu có ai tưởng rằng mình hữu dụng, nếu có ai nghĩ rằng mình đã thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, nếu có ai nghĩ rằng mình đã làm tròn bỗn phận của mình, thì rõ ràng người đó không hiểu gì về Ki-tô giáo, về sự thánh thiện và công chính của người môn đệ Đức Ki-tô.

Hồng ân của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người đều không chấp nhận sự tính toán. Bởi vì khi tính toán, con người không phân biệt được vẻ lớn lao của Thiên Chúa và sự thấp hèn của người phàm, không phân biệt được quà tặng với bỗn phận ; họ là những con người hữu hạn, nhưng lại muốn cân đo cái vô biên.

Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là người chủ độc tài, hà khắc, luôn áp bức những người tôi tớ của mình. Trái lại, Người là Cha yêu thương. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu chỉ muốn cho con người, nhất là những người Biệt phái, hiểu rằng: Họ đã được Thiên Chúa trao ban những quà tặng lớn lao, lớn lao hơn những việc họ làm. Con người có làm gì chăng nữa cũng chưa xứng hợp với hồng ân đã lãnh nhận. Và để đón nhận thêm những hồng ân khác, họ phải khiêm tốn, phải nhận ra sự yếu hèn của mình.

Theo gương Người Tôi Tớ

Hơn một lần, Đức Giêsu đã trình bày yêu cầu đặc biệt của Nước Thiên Chúa: thực hiện trọn vẹn lề luật. Chính Người cũng cẩn thận thi hành những điều được coi là bỗn phận của người được sai đến trần gian. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất lề luật, hoàn tất bỗn phận: “Mọi sự đã hoàn tất.”

Chính Đấng Thiên Sai cũng là người khắt khe với chính mình: là người chăn chiên, Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên ; là người trổng nho, Người dành mọi nôỵ lực cho vườn nho.

Như thế, Đức Giêsu có quyền để nói với chúng ta là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta phải thể hiện trọn vẹn ơn gọi của mình, phải thi hành đầy đủ, đúng đắn những lời của Thiên Chúa đã đặt nơi chúng ta. Chúng ta phải đem hết cả năng lực đã được Thiên Chúa trao ban, để hoạ theo hình ảnh của Đấng đã gọi và chọn chúng ta. Có người cho rằng lời mời gọi vượt qua và đạt tới sự thánh thiện này không phải là đặc trưng của Ki-tô giáo. Thế nhưng, nên nhớ cho rằng, Tin Mừng có tính cách tuyệt đối và một hình ảnh độc đáo là Đức Giêsu Ki-tô, mà không đâu có được.

Như thế, trong cách diễn tả của Đức Giêsu, chúng ta là những người thợ, những người bị giới hạn vì thời gian, vì không đủ khéo léo, và cũng có thể vì chất liệu kém. Kiêu căng, tức là không nhận ra giới hạn của mình, và điều ấy làm chúng ta thành dị dạng, bị méo mó. Chúng ta cần nhớ thân phận của mình như Đức Giêsu nhắc nhở: những đầy tớ vô dụng, tầm thường. “Các con không thể làm cho mình cao hơn một tấc được”, và Người cũng thêm: “Cha trên trời biết rõ các con cần gì”, “Người sẽ trả lại cho các con gấp trăm.”

Khi đưa ra dụ ngôn để dạy bảo con người, Đức Giêsu đã thực hiện nơi chính mình. “Tôi đến không phải để được hầu hạ, nhưng để phục vụ mọi người.” Chính điều đó đã đưa Người tới vinh quang, tới sự phục sinh. Đó là kết thúc của con người đã “làm việc bỗn phận”.

Vậy, tin không phải là gì khác hơn là tín trung với bỗn phận của mình. Nhờ tín trung và khiêm tốn, mọi sự đều trở thành có thể.

* * *

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, xin ban cho con luôn khát khao điều làm vui lòng Cha.

Xin ban cho con một tâm hồn thức tỉnh để không một tư tưởng hão huyền nào kéo con xa Cha.

Xin ban cho con tâm hồn tự do mà không một đam mê mãnh liệt nào có thể lấn át được. … (theo thánh Tô-ma A-qui-nô).


Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

1. Mân côi

Hôm nay là ngày lễ kính Mẹ Mân Côi, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về chuỗi tràng hạt của chúng ta.

Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức do chính Mẹ đã truyền dạy. Thực vậy, vào năm 1206, bè rối Albigeois nổi lên và trở thành một mối đe doạ cho Giáo Hội tại nước Pháp. Thánh Đaminh được sai đến để cảm hoá. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn thất bại, bè rối mỗi ngày một lan rộng. cuối cùng thánh Đaminh đã cầu xin với Đức Mẹ, và theo truyền thuyết thì chính Đức Mẹ đã hiêẹn ra, truyền dạy thánh Đaminh phép lần hạt Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã cảm hoá được những người theo bè rối, dẫn đưa họ trở về cùng Giáo Hội.

Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức có nội dung phong phú và cao cả. Đúng thế, xét về những lời kinh chúng ta đọc, thì kinh Lạy Cha là lời kinh do chính Chúa Giêsu đã truyền dạy, còn kinh Kính Mừng là lời kinh được rút tỉa từ lời chào kính của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, tất cả đều xuất phát tự Kinh Thánh. Nhưng quan trọng hơn là về những mầu nhiệm suy gẫm. Đó là những biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu có liên quan mật thiết với Mẹ Maria, trình bày cho chúng ta tất cả mầu nhiệm nhập thể và cứu độ mà Thiên Chúa đã vì yêu thương mà thực hiện cho chúng ta qua dòng thời gian. Đồng thời qua mỗi biến cố, qua mỗi sự kiện, chúng ta đều rút ra một nhân đức, một bài học cụ thể áp dụng vào đời sống thiêng liêng. Từ đó chúng ta có thể kết luận: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược cuộc đời Chúa Giêsu, một bản đúc kết Tin Mừng Phúc Âm.

Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một việc đạo đức được Mẹ ưu chuộng và được Giáo Hội khuyến khích. Thực vậy khi hiện ra tại Fatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh đó là tôn sùng Trái Tim Mẹ, cải thiện đời sống, và lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ nhận thấy việc lần hạt Mân Côi sẽ bao gồm cả hai mệnh lệnh kia, vì nhờ kinh Mân Côi chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến Mẹ cũng như tìm thấy được những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc đổi mới đời sống. Ngoài ra các Đức Giáo Hoàng không ngừng nhắc nhở chúng ta chu toàn việc đạo đức cao cả này. Đức Lêo XIII đã nói: Kinh Mân Côi phảng phất hương thơm và duyên dáng những cánh hồng, xứng đáng được dâng kính Đức Trinh Nữ Maria. Đức Piô X thì bảo: Nếu các con muốn cho gia đình mình được êm ấm và hạnh phúc, các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối trong giờ kinh gia đình. Đức Piô XII đã viết: Trong những lời kinh và những cách cầu nguyện tôn kính Mẹ Maria thì chuỗi Mân côi là một việc đạo đức cao cả nhất. Đức Thánh Cha Gioan XXIII thì bảo: Kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn. Sau cùng Đức Phaolô VI đã xác quyết: Kinh Mân Côi rất thích hợp với người tín hữu, đồng thời cũng rất làm cho Mẹ được hài lòng, hầu ban xuống cho chúng ta những ơn lành cần thiết.

Tuy nhiên điều Giáo Hội nhấn mạnh không phải chỉ là đọc kinh Mân Côi, mà còn là suy nghĩ và sống kinh Mân Côi, nhờ đó mà kinh Mân Côi tăng cường đức tin, nuôi dưỡng đời sống đạo đức và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Thế nhưng chúng ta đã đọc, đã gẫm và đã sống kinh Mân Côi như thế nào? Phải chăng chúng ta cố đọc cho thật nhiều như một cái máy sản xuất ra những lời kinh, mà tâm tình thì lại trống rỗng, còn cuộc sống thì lại chìm ngập trong tội lỗi.


2. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho hòa bình

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

  1. Kinh Kính Mừng

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”,

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc “Mẹ nào mẹ chẳng thương con”. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

  1. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết”.

Thánh Bênađô nói: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ”.

Còn Thánh Bônaventura nói: “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng”.

Thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi”.

Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.

Kinh Mân côi là kinh chính Đức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: “Các con hãy tiếp-tục đọc Kinh-Mân-Côi hằng-ngày”. Và nhất là: “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình”.

  1. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Chẳng nói đâu xa, tại Thánh phố Vinh tình hình đang nguy cấp giữa Địa phận Vinh với chính quyền. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và cho quê hương Việt Nam. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Trong lúc này chúng ta cảm thấy cần phải hướng về Đức Maria, Nữ vương hòa bình… phải khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Đức Maria, Nữ vương hòa bình, Đấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thương cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những người thế lực trên Trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực. Chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi. Chúng ta chỉ biết tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, vào Chúa. Đức Maria, như gương mẫu của Người Phụ nữ phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Đấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.


3. Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Ngày 21 tháng 9 vừa qua, Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã long trọng vinh danh Nữ Tu Công Giáo Angelique Namaika và trao tặng cho chị giải thưởng Nansen. Đây là giải thưởng cao quý của Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc để tôn vinh những người làm việc với những người tị nạn. Chị Angelique Namaika đã giúp thay đổi cuộc sống của hơn 2.000 phụ nữ và các bé gái đã bị buộc phải rời nhà của họ sau khi bị nhóm Quân đội Kháng chiến của Allah lạm dụng trong những năm dài địa ngục của họ. (x. Vietcatholic 30.9.2013).

Hôm nay ngày 7 tháng 10, Giáo hội suy tôn một phụ nữ diễm phúc nhất trần gian, đó chính là Đức Mẹ Mân Côi. Với tâm tình sùng mộ, mọi tín hữu suy tôn Mẹ Maria là Nữ Vương Ban Sự Bình An. Suốt tháng Mân Côi, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân Côi là lời kinh hòa bình. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh cầu nguyện cho hòa bình thế giới, mỗi người cầu xin bình an cho gia đình cho tâm hồn mình.

Lễ Đức Mẹ Mân Côi được ĐGH Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng là nhờ các tín hữu lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến. Một phép lạ của Đức Mẹ trong Tháng Mân Côi. ĐGH Leo XIII đã thiết lập Tháng Mười là tháng Mân Côi vào ngày 1-9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại Giáo hoàng của ngài.

Ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, suy tôn Mẹ là Nữ Vương Ban Sự Bình An với 3 lý do.

  1. Lý do thứ nhất

Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Kinh Mân Côi, xét về phương diện mầu nhiệm suy gẫm, là kinh về Chúa Giêsu. Nhưng xét về nội dung thành phần của chuỗi hạt, tức là từng kinh Kính Mừng, thì đó là kinh về Đức Maria. Mẹ kết hợp cuộc đời mình với Chúa Giêsu qua 20 ngắm: Vui, Sáng, Thương, Mừng. Vui là vui với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể; Sáng cũng là sáng với Chúa Giêsu qua mọi nẻo lối rao giảng Tin Mừng; Thương là thương cùng với Chúa Giêsu trên đường Thánh giá; và Mừng còn là mừng cùng với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm phục sinh. Mỗi ngắm như thế là mỗi phần đời khác nhau, nhưng liên kết cả 20 ngắm lại sẽ thấy cuộc đời của Đức Mẹ gắn bó với đời của Chúa Giêsu không rời nửa bước. Con đi đâu thì Mẹ theo đi đó: Con xuống thế làm người chuộc tội nhân loại, thì Mẹ cũng hiệp công với Con của mình từ đêm giáng sinh cho đến chiều tử nạn mà bước đi trên đường giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Con của Mẹ là Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha, thì Mẹ vì sự gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình trong suốt hành trình như thế cũng đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Nếu Eva xưa đã để lại thảm họa, thì với Mẹ Maria cách riêng trong kinh Mân Côi, cách riêng hơn nữa trong lời kinh Ave Maria, nền hòa bình viên mãn của trời đã chính thức mở ra. Vì vậy, Đức Mẹ trong kinh Mân Côi, hay Đức Mẹ Mân Côi cũng chính là Nữ Vương Hòa Bình.

  1. Lý do thứ hai

Vì Mẹ cũng hỗ trợ con người trong công cuộc xây dựng hòa bình với nhau.

Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Thế kỷ XVI, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân Côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân Côi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân Côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân Côi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan…

Chuỗi Mân Côi chính là một phương thế hòa bình hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Ở đâu kinh Mân Côi được ưa chuộng, ở đó tước hiệu hòa bình đi liền với danh xưng của Mẹ cũng được mộ mến. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con”. Xét về cấu trúc của kinh Mân Côi phần sau của mỗi ngắm chúng ta quen đọc “ta hãy xin cho được” ơn này ơn khác, hoặc phần sau của chính kinh Kính Mừng với câu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…”, chúng ta cũng thấy cả một dự phóng, cả một chương trình, cả một lời kinh dâng lên Mẹ Mân Côi mong hòa bình nội tâm, làm tiền đề cho cách cư xử giao hòa của con người với Thiên Chúa cũng như cách đối xử hòa bình giữa con người với nhau. Đằng nào cũng thế, giúp đỡ con người dập tắt chiến tranh năm xưa (lý do của lễ Mân Côi) hay là nâng đỡ con người xây dựng hòa bình hôm nay, Đức Mẹ Mân Côi trong lòng Giáo Hội chính là tượng đài Nữ Vương Hòa Bình.

  1. Lý do thứ ba

Vì Mẹ còn khuyên tất cả mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra và ban sứ điệp: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau. Chuỗi Mân Côi được đặt như một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp chúng ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Bao giờ cũng thế, trong nghệ thuật công giáo, Đức Mẹ không đứng một mình, luôn luôn có Chúa Giêsu hiện diện, hoặc trong những thế kỷ gần đây tại Lộ Đức, cũng như tại Fatima, Đức Mẹ hiện diện với chuỗi Mân Côi. Nếu có ai hỏi tôi: Đức Mẹ có lần hạt không? Chắc chắn tôi sẽ đưa ra lời khẳng định: Có. Không chỉ vì Đức Mẹ đã lần chuỗi chung với ba trẻ ở Fatima hoặc với cô Bernadette ở Lộ Đức, mà còn ngay trong mầu nhiệm của chuỗi kinh Mân Côi đã có sự hiện diện của Đức Mẹ rồi. Có nghĩa là Mẹ cùng lần hạt với chúng ta và hơn nữa Mẹ kêu gọi chúng ta lần hạt. Cá nhân lần hạt Mân Côi, cá nhân vui sống thảnh thơi an bình; gia đình lần chuỗi Mân Côi, gia đình hạnh phúc một đời an vui. (x. ĐGM Giuse Vũ Duy Thống, bài giảng tại Tàpao ngày 13-10-2011).

Giáo hội tôn vinh Đức Mẹ Mân Côi là Nữ Vương Hòa Bình. Chuỗi Mân Côi là chuỗi kinh của nền hòa bình. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận khuyên nhủ: “Chuỗi Mân Côi là giây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: âu yếm như Bêlem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mầng lúc phục sinh, tông đồ bên thánh Gioan. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ” (Đường Hy vọng số 922); “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (Đường Hy vọng số 947).

Lạy Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Hòa Bình, xin giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ đó, chúng con có thể cộng tác với Mẹ trong công cuộc xây dựng nền hòa bình thế giới và đem ơn cứu độ cho muôn dân. Amen.


4. Quà tặng

Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy: Quà tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ nam châm hút tình cảm của kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột chặt người khác lại với chúng ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển hình: Giacop đã bảo con đem dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của Simeon bị quan phạt được tha thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho Đavit, để xin nhà vua xá tội cho Nabal.

Còn chúng ta thì sao? Bước vào giữa tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì? Chúng ta nên nhớ rằng: Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị thiệt thòi. Cũng như cha mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi ngược lại. Cha mẹ bao giờ cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu thương cha mẹ.

Với niềm tin đó, chúng ta hãy đến với Mẹ hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay không. Hãy mang theo một thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.

Như chúng ta đã biết kinh Mân Côi xuất phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu cho mọi tâm tình cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn kinh Kính Mừng là lời chào kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời kêu xin của cộng đồng dân Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong cuộc đời của Chúa. Và chúng ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng được rút gọn.

Ngoài ra kinh Mân côi là một lời kinh bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy nguồn nghị lực và niềm hy vọng cho bản thân.

Hơn thế nữa, trải qua dòng thời gian kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá nhân, cho xã hội, cho dân tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là trong phạm vi gia đình, bởi vì gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn ươm trồng cây đức tin cho con cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh nào êm đẹp cho bằng cảnh tượng gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau dâng lên những lời kinh ca tụng Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong gia đình sẽ xích lại gần nhau hơn, cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương của Mẹ.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta có thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi. Bởi vì chỉ trong tình yêu chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà không nhàm chán. Vậy chúng ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không? Chúng ta đã thực hiện lời Mẹ truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như lễ vật Abel chúng ta dâng tiến Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một hạt ngọc chúng ta thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta, mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của Noe, để với con thuyền này chúng ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ bến vĩnh cửu là quê trời.

Ước gì lời kinh mân côi sẽ là lễ vật thường xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai ngày, nhờ đó mà chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với Mẹ.


5. Lễ Mẹ Mân Côi

(Trích dẫn từ ‘Sống Tin Mừng’)

“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).

Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.

Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.

“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.

“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.

“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.

Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.

Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.

Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.

Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.


6. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.

2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?

3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?


7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.

Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.

Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.

Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.

2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?

3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?


8. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới

(Suy niệm của Lm Px Đào Trung Hiệu)

Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: “Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.

Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.

Gương một nhà trí thức…

Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: “Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!”. Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi”.

Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”

Êm đềm mà thấm lâu…

Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.

Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua… đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.

Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.

Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.

Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.

Hướng đến một nhân loại mới

Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).

Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”, chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:

“Chữ E-va Mẹ đảo vần,

Thành A-ve gửi bình an cho đời”.

Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.

Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại…

Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.

Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng” không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.

Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.

Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.


9. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin

(Suy niệm của Lm Đaminh Đinh Viết Tiên)

  1. Kinh Mân Côi, bài ca đi cùng năm tháng

Trong Giáo Hội cũng có những bài ca, có thể gọi là “đi cùng năm tháng”, những bài ca luôn đồng hành với Giáo Hội qua thời gian, qua những thăng trầm, những sóng gió của lịch sử. Bài ca đó có tên là “Chuỗi Mân Côi”, là những Kinh Kính Mừng. Bài ca này được vang lên mỗi ngày trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư, được lâm râm khẩn cầu nơi môi miệng của mọi người, kẻ trí thức hay người bình dân, người thanh niên hay những người tuổi đời đã xế bóng.

Kinh Mân Côi quả là “bài ca đi cùng năm tháng” đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi người chúng ta. Ở đây xin đan cử Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ mọi người đến với Mẹ qua Kinh Mân Côi.

Trong tông thư “Kinh Mân Côi” Ngài chia sẻ như sau: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi (…) Kinh Mân Côi đã đồng hành với tôi trong những lúc vui sướng cũng như trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ (…) Kinh Mân Côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu. Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó (…). Con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.

Mối quan tâm của riêng ta và của những người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của ta. Vì thế, lời kinh Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh chị em thân mến, với những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng trong nhịp sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết bao ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh Nữ qua Kinh Mân Côi”.

  1. Kinh Mân Côi, lời kinh kết nối
  2. Với Đức Maria

Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền tin, với lời mừng của bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.

Trong cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết thúc bằng lời thưa xin vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc, nhưng còn ở trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa: Xin vâng.

Xin vâng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức tin, nhất là dưới chân Thánh Giá.

“Còn Đức Maria thì ghi nhớ những sự việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19.51). Khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi là ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa và của Mẹ. Qua việc cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận thật sâu sự đồng hành của Mẹ trong cuộc đời mỗi người.

  1. Với Đức Giêsu

Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”. Lời kinh đã kết nối với Đức Mẹ, để rồi được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.

Nơi trường học của Đức Maria, chúng ta được học bài học cơ bản: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm như vậy” (Ga 2,5). Như vậy, nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước chúng ta sẽ được dẫn đến đích điểm là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin cũng là giáo án mà Mẹ sẽ dạy chúng ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin và can đảm bước theo Chúa. “Phúc cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được thực hiện trong cuộc đời em” (Lc 1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa với Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời.

  1. Với mọi người trong Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria

Thực ra đây là hệ lụỵ của hai mối kết nối trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng chính từ đây mở ra một nhãn giới mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất cả những ai đọc và suy niệm Kinh Mân Côi.

Thói quen của các gia đình Việt Nam là việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc Kinh Mân Côi và suy niệm Tin Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có sức biến cải tình trạng gia đình.

Mỗi tối khi màn đêm xuống dần, sắp sửa kết thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi người quây quần trước bàn thờ, cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi buồn đều dâng lên Chúa, những thất bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn khởi trong ngày đều được trình bày cho Chúa nghe… tự nhiên tâm hồn cảm thấy ấm hơn và tình thân trong gia đình được nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng lên Chúa và được sẻ chia cho nhau, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.

Nếu Chúng ta đọc Kinh Mân Côi với tất cả tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng tin mạnh mẽ, niềm cậy trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.

  1. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta cảm nghiệm: Mẹ vẫn ở bên ta

Tổng thống George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ. Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: – Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?

Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.

Mẹ của Tổng thống George Washington đã không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản và lòng nhân hậu của một người mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân phụng sự tổ quốc, vui sống trong trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc gia.

Đối với người Kitô hữu, Mẹ luôn hiện diện âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng ta.

– Sự hiện diện của Mẹ trong gia đình Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại niềm hân hoan vô bờ cho trẻ Gioan Baotixita.

– Sự hiện diện của Mẹ tại tiệc cưới Cana đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách được uống rượu ngon làm hoan hỉ lòng người.

– Sự hiện diện của Mẹ trên đường Thánh Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi Canvê.

– Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối Gioan, đại diện loài người lại cho Mẹ.

– Sự hiện diện của Mẹ trong nhà tiệc ly đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

Và chắc chắn sự hiện diện của Mẹ trong cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc. Sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm vui, sự ủi an, lòng can đảm giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin.

Những lúc mệt mỏi rã rời trong cuộc sống hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng trĩu u buồn của quá khứ, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ thấy tâm hồn thanh thản và bình an

Đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, là những giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với tấm lòng từ bi nhân hậu của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời đầy thử thách chông gai này.


10. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Lịch sử Cứu Độ đã khởi đầu với việc Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Abraham, được tiếp nối và thực hiện trong lịch sử Israel cho đến khi như lời thánh Phaolô viết “Khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và lệ thuộc vào lề luật Do thái”. Về Người Con ấy, Sứ Thần Gabriel đã nói “Người sẽ nên cao cả, và Thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô tận”. Như thế lịch sử Cứu Độ phải được đón nhận như là lịch sử vương quyền của Đức Kitô trong dân Người: trước hết nơi Israel và bây giờ là nơi Giáo Hội của Người.

Qua cơ cấu diễn biến của lịch sử cứu độ chúng ta thấy cốt lõi là một cuộc đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với con người. Cuộc đối thoại không nhằm cách ly con người khỏi cuộc sống thường ngày với những lo âu và hy vọng của họ, nhưng ngược lại cuộc đối thoại nhằm mở cánh cửa đời sống, cánh cửa gia đình, cánh cửa dân tộc và xã hội để Thiên Chúa, và đích xác hơn là để Con của Người bước vào và đổ tràn Thánh Thần Người, để mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và toàn thể xã hội tự thẳm sâu đáy lòng mình có thể thốt lên “Abba, Cha ơi” đối với Thiên Chúa, và như thế, mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và xã hội trở nên “người thừa tự” gia sản của “Cha” trên trời.

Abraham đã dần dần khám phá ra được chân lý ấy khi ông ra khỏi xứ Ur. Từ biến cố này qua biến cố khác, cuối cùng ông được mời gọi tiến lên ngọn núi Thiên Chúa chỉ định, ở đấy ông đã khẳng định được với tất cả tự do và yêu mến: chính Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho ông và con cái ông.

Ở bình minh của Tân Ước, không phải nơi Đền Thánh Giêrusalem, mà ở trong chính mái nhà nhỏ bé nghèo nàn của Mẹ, Đức Maria được mời gọi trở về với chính mình, với vấn đề thiết thân nhất của Mẹ: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến người nam!” Để rồi Mẹ được mời gọi để xác tín với tất cả sự tin yêu tự do Thiên Chúa sẽ đến, sẽ đảm nhận lấy cuộc sống Mẹ cho nó trở nên cảnh vực Thần Linh. Đó là điều thánh Phaolô cũng nói như thế trong mấy câu thư vắn tắt chúng ta vừa nghe.

Vì thế, khi đón nhận công việc thiết lập vương quyền của Đức Kitô như là sứ mạng riêng biệt của mình, Giáo Hội Đức Kitô qua các tông đồ đã ý thức về trọng tâm thiết yếu của sứ vụ là trở về “nơi các ông thường trú ngụ để “đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Cầu nguyện từ đó đã là hơi thở và sức sống của Giáo Hội, của công cuộc loan báo tin mừng Cứu Độ.

Thật khác với biết bao suy nghĩ và hành động của chúng ta ngày nay: chúng ta bị lôi kéo vào sức hấp dẫn và tính hiệu quả của những tổ chức, cơ cấu và phương tiện, đã gạt qua một bên nỗ lực “Đối Thoại với Thiên Chúa” “nỗ lực cầu nguyện liên lỷ”. Gia đình Kitô Giáo nơi chúng ta thường trú không còn là “nhà cầu nguyện”, thậm chí ngay cả “Nhà Cầu Nguyện” cũng trở thành những trung tâm trình diễn, tiếp thị, kỹ thuật. hơn là nơi con người đối thoại với Thiên Chúa!

Bài sách Công Vụ Tông Đồ tuy thật vắn gọn, nhưng đã gợi nhớ một yếu tố nền tảng của cuộc đối thoại cứu độ: Các Tông Đồ đã cầu nguyện với Đức Maria và cùng với anh em của Đức Giêsu. Sở dĩ các ông đã cầu nguyện cùng với Đức Maria, là vì duy mình Đức Maria mới có kinh nghiệm trọn vẹn về “đối thoại cứu độ” này. Với Đức Maria đây là đối thoại do sáng kiến của Thiên Chúa, được “Thánh Thần bao bọc chở che” và chính Thiên Chúa hoàn thành. Giáo Hội phải nhờ Mẹ để thực hiện sự cầu nguyện.

Trong viễn ảnh đó mà chúng ta hiểu được tại sao Giáo Hội khắp nơi, và cách riêng Giáo Hội Việt Nam vô cùng yêu mến và trân trọng Kinh Mân Côi. Chính đây là lúc mỗi người như được sống lại khung cảnh Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ, để bên gối Mẹ, Giáo Hội và mỗi người được Mẹ dẫn dắt qua mọi biến cố đời sống, Mẹ khám phá ra sự mời gọi của Thiên Chúa và bằng cách nào để Thiên Chúa đảm nhận lấy cuộc sống nhỏ bé của mình, mà thực hiện nên những điều kỳ diệu. Trong cũng cái nhìn đức tin ấy, chúng ta mới thấu hiểu được tại sao chỉ là những lời kinh thật đơn giản, không đòi hỏi sự thông thái khôn ngoan, lời kinh chất phác của những tâm hồn thật quê mùa, lời kinh phản ánh rất trung thực lời “Xin Vâng” của người con gái Xion làng Nazaret xưa, lại có thể có quyền lực giải thoát con người trong mọi tình huống khó khăn nhất, và đem lại có khi cho cả một dân tộc niềm hoan lạc hạnh phúc. Chỉ vì lời kinh ấy là ân tình trao ban kinh nghiệm về Thánh Thần của Mẹ.

Trong tháng Mân Côi và trong đời sống, khi trở về với Kinh Mân Côi, người Kitô hữu phải cảm nhận được niềm vui được trở về mái nhà Tiệc Ly xưa, để một lần nữa họ được Đức Mẹ cho thấy Chúa Thánh Thần đã đến với Mẹ bằng ngõ ngách nào, và làm sao Ngài đã hoàn thành sứ mạng của Ngài trong mỗi biến cố đời Mẹ: Sứ Mạng làm cho Chúa Giêsu hình thành và lớn lên trong lòng dạ và cuộc sống Mẹ. Đây qủa thực là một viễn cảnh bao la và kỳ diệu chờ đợi chúng ta trong Kinh Mân Côi. Ước gì những suy nghĩ này giúp chúng ta có thêm nhiệt tình và sốt sắng lần chuỗi Mân Côi.


11. Phương thuốc thần diệu – Lm Ignatio Trần Ngà

Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là Ađam và Evà bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau… là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân…” (Rm 5, 19)

Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.

Tràng chuỗi mân côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi mân côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

* Gương vâng phục của Mẹ Maria

Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.

Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi…

Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ…

Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.

Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).

* Gương vâng phục của Chúa Giêsu

Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.

Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất… (Lc 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)

Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.

Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.

Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Canvê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.

Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)

Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:

“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6-8)

Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Pl 2, 9)

Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rm 5, 19)

Như thế, chuỗi mân côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.

Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.


12. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Ignatio Trần Ngà)

Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.

Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân… “ (Rm 5, 19)

Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)

Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.

* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria

Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.

Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.

Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.

Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).

* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu

Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.

Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất… (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)

Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.

Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.

Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.

Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)

Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Pl 2, 9)

Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rm 5, 19)

Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).


13. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:

– Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?

Cụ già điềm nhiên trả lời?

– Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:

– Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.

Cụ gì bình tĩnh hỏi người sinh viên:

– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?

Người sinh viên hăng hái đề nghị:

– Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.

Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Anh chị em thân mến,

Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.

Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!

Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.

Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.

Anh chị em thân mến,

Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.

Nói rằng chuỗi Mân Côi là Kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.

Thưa anh chị em,

Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.

Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.


14. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”

Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:

“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.

Thưa anh chị em,

Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.

Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).

Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.

Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.

Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.

Như thế, thưa anh chị em,

* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.

* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.

* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.

Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.

Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.

Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.


15. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)

(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Vũ duy Thống)

Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.

Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.

1) Kết nối với Đức Maria.

Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.

Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.

Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.

Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.

2) Kết nối với Chúa Giêsu.

Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.

Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.

Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.

Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.

Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.

3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.

Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.

Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.

Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.

Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.

Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.


16. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng

(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Vũ duy Thống)

Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.

Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.

1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.

“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.

Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.

Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.

Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.

Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.

Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.

3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi

Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.

Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.

Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.

Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.

Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.


17. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu

(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?

1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.

Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.

Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.

Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.

2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.

Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.

Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.

“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.

3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh

Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.

Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.

Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.

Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.


18. Đức Chúa ở cùng Bà

Suy Niệm

Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.

Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.

Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.

Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.

Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.

Đức Chúa Trời ở cùng Bà.

Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.

Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.

Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.

Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.

Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.

Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).

Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).

Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.

Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)

Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.

Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.

Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.

Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).

Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.

Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.

Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?

Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?

Cầu Nguyện

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.


19. Tôi là nữ tỳ của Chúa

Suy Niệm

Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.

Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.

Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.

Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. “Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).

Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.

Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?

Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?

Cầu Nguyện

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa


20. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như: “Nuôi con chẳng quản chi thân, Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”. Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con: “Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.

Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.

Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.

Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ – Năm canh dài thức trọn năm canh”.

Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.

Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.


21. Kinh Mân Côi

Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.

Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.

Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.

Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.

Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.

Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.

Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.

Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.


22. Kinh Mân Côi

Có một ông trùm đã nói với cha sở như sau:

– Chỉ tại cái tivi mà gia đình con không còn lần hạt vào buổi tối nữa. Người ta thích quây quần bên nhau để giải trí, hơn là để cầu nguyện.

Cũng chính ông trùm ấy đã nói về cậu con trai của mình, khi được nhắc nhở là hãy vào nhà thờ sớm, trước thánh lễ, để cùng với mọi người đọc kinh, thì cậu ấy đã trì hoãn và trả lời:

– Nhà thờ chưa lần hạt xong.

Và ông trùm ấy đã phát biểu với nhiều tiếc xót:

– Vào thời chúng con, người ta chờ nhà thờ đông đủ rồi mới lần hạt, còn bây giờ thì khác, người ta lần hạt để chờ mọi người tới đông đủ.

Lời than thở đầy tiếc xót trên đây của ông trùm phản ảnh được phần nào thái độ hiện nay đối với việc đọc kinh Mân côi tại gia đình cũng như tại nhiều xứ đạo.

Để phục hồi lòng tôn sùng kính mến Mẹ qua việc đọc kinh Mân côi, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại những hậu quả to lớn mà kinh Mân côi đã đem lại cho chúng ta.

Trước hết, với kinh Mân côi chúng ta cùng Mẹ sống lại những chặng đường quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu và đi sâu vào những mầu nhiệm chính yếu của lịch sử ơn cứu độ. Từ đó chúng ta sẽ nhận ra những tín hiệu Phúc âm cho những chặng đường của niềm tin hôm nay trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội cũng như Giáo hội.

Trong sinh hoạt của Giáo hội, kinh Mân côi luôn được cổ võ bởi vì lời kinh này đã đem lại cho chúng ta hình ảnh về Mẹ Maria, hình ảnh một người mẹ luôn gần gũi, gắn bó và mật thiết với chúng ta. Vậy chúng ta có đọc kinh Mân côi trong ý hướng ấy hay không?

Tiếp đến, với kinh Mân côi chúng ta sẽ được nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa, Đấng Cứu độ của chúng ta. Tất nhiên, có nhiều con đường để đến cùng Chúa, nhưng con đường được Mẹ chỉ dạy sẽ là con đường chắc chắn nhất, bảo đảm nhất và an toàn nhất, bởi vì Mẹ là người gần gũi với Chúa hơn bất cứ tạo vật nào.

Vì thế, các nhà đạo đức vốn thường đưa ra một kinh nghiệm quí giá, đó là:

– Per Mariam, ad Jesum, nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa.

Vậy chúng ta có lần hạt với cảm nghiệm đó không?

Và sau cùng, với kinh Mân côi chúng ta còn được Mẹ bầu cử trước mặt Chúa. Nhờ lời bầu cử của Mẹ, chúng ta sẽ lãnh nhận được những ơn lành hồn xác, như lòng mong ước.

Lời van xin của kinh Kính mừng: Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử…Đã gói ghém tất cả nỗi lòng của chúng ta qua mong ước được thánh hóa hôm nay và được cứu rỗi ngày mai.

Chiến thánh tại vịnh Lépante năm 1571 gắn liền với kinh Mân côi mà ngày lễ hôm nay là một nhắc nhở, cũng đã ghi sâu trong tâm trí chúng ta một hình ảnh khác nữa về Mẹ Maria, đó là Mẹ luôn che chở và cầu bầu cho chúng ta. Vậy chúng ta có lần hạt trong tâm tình này hay không?

Tạp chí “Kiến thức ngày nay” có một bài viết về những người phụ nữ giàu nhất thế giới,trong đó có nữ hoàng Elisabeth nước Anh. Tài sản của nữ hoàng trị giá hàng tỷ đô la. Thế nhưng, khi đọc bài báo ấy, chúng ta cảm thấy nó lạnh lùng, nó xa vắng bởi vì nó chẳng liên quan gì tới chúng ta.

Thế nhưng, khi thoáng nghe những bài hát về Mẹ, chúng ta bỗng cảm thấy nao nao con tim và ngọt ngào cả tâm hồn, bởi vì chúng ta thấy trước mặt mình tấm lòng của một người mẹ giàu tình thương và nhân ái.

Tuy nhiên, điều quan trọng đó là bản thân chúng ta có biết tìm đến với Mẹ và nhất là tìm đến với Mẹ qua lời kinh Mân côi, như Mẹ đã truyền dạy hay không?


23. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi – ĐGM. Bùi Tuần

Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.

Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.

Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.

Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.

Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.

Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.

Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.

Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.

Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.

Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.

Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.

Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.

Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.

Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.

Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.

Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.

Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.

Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.

Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.

Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.

Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.

Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.

Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.

Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.

Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.

Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.

Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).


24. Thánh Mẫu Mân Côi

Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.

Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.

Cũng chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của Kinh mân côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.


25. Kinh Mân Côi

Vào thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần hạt Mân côi, như là một phương thế tuyệt diệu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.

Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.

Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?

Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.

Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.

Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.

Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào?

Cha Lacordaire nói:

– Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.

Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:

– Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.

Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.

Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.

Rồi anh ta kể tiếp:

– Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.

Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.


26. Lễ Đức Mẹ Mân Côi

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về một việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.

Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống tràng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nói được là thi vị hơn nhiều.

Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây Phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là chapel – nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.

Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.

Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các tu sĩ mỗi ngày đọc đủ một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ, vừa đọc vừa bái quỳ.

Từ tập tục bên ngoài đội hoa, bên trong bái quỳ, người ta đi dần đến việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.

Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp thuận, khi Người hiện ra với thánh Đaminh vào thế kỷ XIII. Thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và dòng của ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.

Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7 tháng 10 năm 1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công Giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công Giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi này.

Đó là phần lịch sử, nhưng lịch sử thường gắn liền với đời sống. Sở dĩ tràng chuỗi Mân Côi đã được Giáo Hội chấp nhận và đã cổ võ là vì đó là một bản tóm lược Phúc Âm.

Lần chuỗi không phải là việc đọc một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy, suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự Vui để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự Thương để đi theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm năm sự Mừng để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.

Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.

Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở Lộ Đức và Fatima.

Tại Rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng thánh nữ Catherine Labouret: Con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Mẹ.

Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Bernadetta đến quỳ tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.

Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc Kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đọc Kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.

Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy Phanxicô phải lần hạt mới được về thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy là phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.

Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỷ, nhất là để nhờ Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa. “Ad Jesum per Mariam. Amen”.


27. Mẹ đầy ơn phước – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.

Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa Abraham và con cháu ông”.

“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.

“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:

“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha

Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan, kiêu ngạo, nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn. Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con.

Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria, đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”. Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.


28. Kinh Mân Côi

Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.

Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria… Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.

Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.


29. Hiệu quả của Kinh Mân Côi

Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.

Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.

Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.

Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.

Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.

Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.


30. Kinh Mân Côi và Phúc Âm

(Lc 11,15-26)

Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.

Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.

Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.

Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.

Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.

Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.

Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.

 

Pin It

Gửi phản hồi