HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN THÁNG 10
Thứ tư – 03/10/2012 06:11
HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN THÁNG 10
Những đoạn suy niện cầu nguyện ngắn rất xúc tích mỗi ngày trong cả tháng 10, tác giả giúp chúng ta cùng hướng tâm hồn về với Chúa.
1 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Hóa Thành Lương Thực
Thánh Thể là điểm hẹn đặc biệt để chúng ta gặp gỡ tình yêu của Đức Kitô. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. (Ga 15,9). Đây là một tình yêu lạ lùng, một tình yêu tự mở ra cho mỗi người chúng ta. Đây là một tình yêu chuyển hóa thành của ăn của uống lấp đầy cơn đói khát sự sống thiêng liêng đích thực. Vâng, chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta “uống … rượu của cây nho” (Mc 14,25).
“Ở lại” trong Đức Kitô, đó là điều kiện tiên vàn và thiết yếu để trổ sinh hoa quả. Cũng như Đức Giêsu chỉ sinh hoa kết quả khi Ngài vâng theo ý muốn cứu độ của Cha, các môn đệ của Ngài chỉ sinh hoa quả khi họ sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và loại trừ tội lỗi ra khỏi đời sống mình.
2 THÁNG MƯỜI
Được Người Làm Vườn Cắt Tỉa
Nhìn trong ánh sáng của dụ ngôn cây nho và cành nho, chúng ta thấy Thánh Thể trở thành tiêu điểm chính trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người. Công trình này được tóm tắt trong những lời sau đây: “Cha Thầy là người trồng nho” (Ga 15,1). Người trồng nho ấy quan tâm chăm sóc từng cành nho. Là Đấng Tạo Hóa và đồng thời là Cha chúng ta, Ngài muốn tất cả mọi người – vốn được dựng nên giống hình ảnh Ngài – sẽ nhận được sự sống của Ngài qua Chúa Con.
Từ khi tạo dựng, công việc của Chúa Cha là chăm sóc và đáp ứng cho tất cả những gì Ngài đã dựng nên. Ngài chăm sóc ưu tiên nhất cho con người mà Ngài đã dựng nên giống hình ảnh Ngài. Trong dụ ngôn, con người được gọi là những cành nho mà Chúa Cha cắt tỉa để có thể lớn lên và có được sự sống dồi dào.
Người Trồng Nho ấy tự tỏ hiện chính Ngài là Thiên Chúa tình yêu. Ngài đối xử với chúng ta như một người Cha và Ngài muốn chúng ta đáp lại bằng tấm tình con thảo. Tất cả điều này nhắc nhở chúng ta về tính cao cả của đời sống thiêng liêng chúng ta, về sự sung mãn của ơn cứu độ.
Như vậy, Thiên Chúa vẫn không ngừng quan tâm và thúc đẩy chúng ta biết khao khát tình yêu thông truyền sức sống của Ngài. Với sự quan tâm của người Cha, Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng mình không hề sống trong một vũ trụ với định mệnh mù quáng. Không, chúng ta luôn sống dưới đôi mắt của Cha trên Trời, Đấng luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta. Ngài vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Thiên Chúa mời gọi ta cộng tác phần mình trong chương trình yêu thương và cứu độ của Ngài. Ngài biến đổi chúng ta nên mới bằng ân sủng tái sinh của các bí tích tinh luyện và canh tân. Đó là Bí Tích Hoà Giải và Thánh Thể. Qua các bí tích này, Ngài cắt tỉa chúng ta và thể hiện lại mầu nhiệm Vượt Qua vĩ đại là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Con Một Ngài.
3 THÁNG MƯỜI
Khuôn Mặt Nhân Loại Của Thiên Chúa
Thánh Kinh đưa ra câu trả lời rất phong phú cho câu hỏi: “Con người là ai?” Chúng ta tìm thấy câu trả lời này trong Sách Huấn Ca : “Đức Chúa tạo dựng con người từ bùn đất, và Ngài tạo nên họ giống hình ảnh Ngài. Ngài cho họ sống đời tạm trên trần gian và rồi lại trở về với đất bụi. Ngài ban tặng con người sức mạnh của Ngài, Ngài trao cho họ quyền thống trị mọi sự trên mặt đất.” (Hc 17,1-3)
Ở đây chúng ta có câu trả lời cho vấn nạn con người và định mệnh của họ. “Ngài tạo nên con người giống hình ảnh Ngài”. Vì thế, theo cách diễn tả rất khéo của thánh Gregory thành Nyssa (PG 44,446), con người là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa”. Để hiểu biết đúng đắn về con người, chúng ta không bao giờ được phép đánh mất quan điểm này của mạc khải Thánh Kinh; từ Sách Sáng Thế đến Sách Khải Huyền, Thánh Kinh khai mở đầy đủ chiều kích đích thực của con người. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và để cứu độ và giải phóng con người khỏi tội lỗi, Thiên Chúa đã đi vào thân phận con người.
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô Assisi,
Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
5 THÁNG MƯỜI
Tính Nhân Bản Của Thánh Kinh
Từ khi Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài cho Abraham – nghĩa là tái lập cuộc đối thoại giữa con người với Đấng Sáng Tạo vốn đã bị gãy đổ do tội Adam – tính nhân bản đích thực theo Thánh Kinh không ngừng khẳng định phẩm giá độc đáo nơi mỗi con người. Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Mỗi người đều được Chúa Kitô cứu chuộc và mời gọi đi vào trong mối hiệp thông với Ngài.
Đó là địa vị của con người trong thế giới này và trong bậc thang giá trị. Đành rằng văn chương và nghệ thuật thường đề cập đến tính yếu đuối, mỏng dòn, thú nhục dục, thói đạo đức giả và tính thô bạo của con người. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, trên hết, con người thật kỳ diệu với lối suy nghĩ sáng sủa, với những khám phá khoa học, với những cảm hứng trữ tình trong thi ca, với những sáng tạo nghệ thuật trác tuyệt, với tính cách đạo đức anh hùng, và quan trọng nhất là với những chứng tá thánh thiện trong Đức Kitô.
6 THÁNG MƯỜI
Bánh Nuôi Nhiệm Thể Đức Kitô
Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.
Sự sống của thân thể này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.
Chân lý này được minh họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.
Nhưng Thánh Thể không chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất, về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức Kitô.
7 THÁNG MƯỜI
Kiên Vững Trong Niềm Tin Của Chúng Ta
Tất cả chúng ta phải xác tín rằng trong hiện tình của đời sống Giáo Hội, chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và không thối chí nản lòng trước bao khó khăn mà mình phải đương đầu. Rất dễ có nguy cơ chúng ta đâm bối rối, ngay cả tuyệt vọng và cay đắng. Chúa vẫn luôn dẫn dắt Giáo Hội của Người. Người dùng Giáo Hội để hoàn tất các mục đích của Người, nhưng Người không hề chước miễn cho Giáo Hội khỏi những khó khăn, nghịch cảnh và lo âu trong cuộc đời này.
Để đương đầu với những thách đố ấy, chúng ta cần phải gặp gỡ, thảo luận và lập chương trình cho tương lai. Chúng ta phải nghĩ ra những ý tưởng mới và tìm kiếm những phương thế mới, hầu có thể củng cố Giáo Hội và đẩy mạnh việc thánh hóa các linh hồn, không ngừng rao giảng cho mọi người Tin Mừng của Đức Kitô. Tiềm ẩn bên trong các khó khăn của chúng ta là sứ điệp đầy năng lực đổi mới của Đức Kitô.
Đám đông dân chúng hỏi Đức Giêsu: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, đó là tin vào Đấng Người sai đến" (Ga 6,28-29). Đây là mệnh lệnh nền tảng cho chúng ta, một mệnh lệnh vẫn còn hiệu lực cho mọi người mọi nơi mọi lúc.
Những lời tâm huyết mà Thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôthê của Ngài cũng thật ý nghĩa cho chúng ta: “Hãy công bố Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2).
8 THÁNG MƯỜI
Về Lòng Đạo Đức Bình Dân
Có một điểm đặc biệt tôi muốn đề cập với anh chị em, đó là lòng đạo đức bình dân và mối quan hệ của nó với đời sống phụng vụ trong Giáo Hội.
Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II có nhắc đến vấn đề này khi nói đến “việc thực hành đạo đức của quần chúng Kitô hữu”. Những việc đạo đức bình dân được Công Đồng khen ngợi và khuyến khích miễn là chúng “tuân theo những qui luật và những chuẩn mực của Giáo Hội”. Vì thế chúng ta không nên thờ ơ hay coi thường những thực hành đạo đức vẫn đang sống động giữa lòng đại chúng Kitôhữu. Tôi đang nghĩ tới những lễ hội mừng các thánh bổn mạng, những cuộc hành hương đến các nơi thánh, và vô số những hình thức sùng kính các thánh.
Quả thật, như Đức Phaolô VI đã ghi nhận trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, lòng đạo đức hay sùng kính bình dân có ý nghĩa rất phong phú. “Nó biểu lộ nỗi khát khao Thiên Chúa mà chỉ những người đơn sơ nghèo khó mới hiểu được ; nó làm cho người ta biết quảng đại và hy sinh – đến mức anh hùng – khi việc biểu lộ đức tin bị đe dọa; nó cưu mang trong mình nó một cảm thức sâu sắc về những phẩm tính của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện đầy yêu thương; nó làm nảy sinh những tâm tình bên trong không kém sâu đậm: lòng kiên nhẫn, cảm thức về thập giá trong đời sống hàng ngày, sự gắn bó và cởi mở với người khác, thái độ dấn thân…” (EN 48).
Chắc chắn không phải tất cả những thực hành đạo đức này đều có giá trị cao ngang nhau. Vì chủ thể thực hành chúng là những con người, nên các động lực thực hành của họ có thể bị pha trộn với cảm tính và với hướng đích đơn thuần có tính cầu an hơn là để diễn tả đức tin hay để bày tỏ lòng biết ơn và tôn thờ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, những việc đạo đức bình dân được phô bày qua những dấu hiệu, cử điệu và những nghi tiết đôi khi xem ra quá quan trọng, thậm chí chỉ để tạo cảm xúc. Tuy nhiên, tự bản chất chúng là những biểu hiện nội tâm sâu thẳm của con người. Chúng cho thấy rằng con người – là một tạo vật – tự nền tảng phải lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa.
9 THÁNG MƯỜI
Vừa Phong Phú Vừa Nguy Hiểm
Chúng ta thấy rằng lòng đạo đức bình dân là một cái gì vừa phong phú vừa nguy hiểm. Vì thế, các mục tử của Giáo Hội cần phải ý tứ để kiểm soát những sự lạm dụng. Nhưng các ngài cần thi hành công việc mục vụ của mình với lòng kiên nhẫn cao độ. Như thánh Augustinô đã lưu ý vào thời của ngài, khi đứng trước một số hình thức tôn sùng các thánh: "Chúng ta dạy điều đúng đắn, song chúng ta cũng cần phải biết bao dung đối với những điều lệch lạc" (Contra Faustum 20,21 : CSEL 25,263).
Điều quan trọng là phải nhận ra nhu cầu sùng ngưỡng sâu xa nơi con người – nhu cầu ấy tự bộc lộ ra bằng những cách thế khác nhau. Chúng ta phải cố gắng để không ngừng tinh luyện nó và làm cho nó thấm đẫm Tin Mừng của Đức Kitô. Đây là cung cách mà xưa nay Giáo Hội vẫn áp dụng khi đứng trước sự thách đố của các nền văn hóa bản địa ngoài Kitô giáo cũng như khi đứng trước lòng đạo đức và những hình thức sùng ngưỡng bình dân.
Đó là cách mà Giáo Hội đã làm khi tiếp nhận những làn sóng người mới tòng giáo sau sắc chỉ của Constantine. Đó cũng là cách mà Giáo Hội đã làm để Kitô hoá các dân man di ở châu Âu. Đó cũng là những gì đã xảy ra khi Giáo Hội cần rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ở tân thế giới. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng phải tiếp tục làm thế nếu muốn thích ứng sứ điệp Kitô giáo với các đặc tính và các truyền thống của các dân tộc khác nhau.
Chúng ta không bao giờ được quên chuẩn mực mà Đức Gregory Cả đưa ra cho Thánh Augustinô thành Canterbury, vị Tông Đồ của nước Anh: "Không được phá hủy các đền thờ ngoại giáo, nhưng phải thanh tẩy và thánh hiến các đền thờ ấy cho Thiên Chúa; cũng phải làm như thế đối với các tập tục tôn giáo mà dân chúng đã quen cử hành để đánh dấu các biến cố trong đời họ" (Gregory Cả, Regesta Pontificum, 1848, thư đề ngày 10 tháng 7, 601).
10 THÁNG MƯỜI
Lòng Tôn Sùng Đích Thực Đối Với Chúa Kitô
Trong một quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời như nước Ý, lòng đạo đức bình dân có một đặc tính Kitô giáo không thể phủ nhận được. Rất nhiều tập tục của quốc gia này bắt nguồn từ các lễ mừng của Giáo Hội và vẫn còn được nối kết với các dịp lễ ấy. Cần phải lưu ý đến nguồn gốc của các tập tục này. Trong trường hợp một số tập tục có vẻ đi lệch khỏi các nguồn gốc nguyên thủy, cần phải cố gắng để trả lại cho chúng ý nghĩa ban đầu.
Đối với những sự sùng ngưỡng có tính cá nhân, chúng ta cần liệu sao để chúng không bao giờ bị méo mó trở thành một thứ đạo đức sai lạc, mê tín dị đoan, hay những thực hành ma thuật. Như vậy, lòng sùng kính các thánh – vốn được thể hiện trong các lễ kính thánh quan thầy, trong các cuộc hành hương, rước kiệu và trong rất nhiều hình thức đạo đức khác – không được bị giảm trừ đến chỉ còn là chuyện cầu xin sự bảo vệ, cầu xin cho được những sở hữu vật chất, hoặc cho sự lành mạnh thể xác. Tiên vàn các tín hữu phải xem các thánh như là những mẫu gương sống và bắt chước Chúa Kitô. Các thánh phải được giới thiệu như là một con đường dẫn tới lòng sùng mộ lớn lao hơn đối với Chúa Kitô.
Phương cách tốt nhất để chống lại những lạm dụng là đưa những lời Tin Mừng vào trong các cử hành đạo đức bình dân. Đối với các tín hữu ưa chuộng những hình thức sùng ngưỡng bình dân, chúng ta cần hướng dẫn họ đi từ một dạng thái đức tin mơ hồ đến những biểu lộ của niềm tin Kitô giáo đích thực. Chúng ta phải tìm cách Phúc Aâm hoá lòng đạo đức bình dân, qua đó chúng ta có thể giúp tháo gỡ những khuyết điểm của nó, gạn đục khơi trong nó, làm cho những yếu tố ‘hàm hồ’ trở nên có ý nghĩa minh bạch hơn trong bối cảnh của đức tin, đức cậy và đức ái Kitô giáo đích thực.
11 THÁNG MƯỜI
Bài Sai Muôn Thuở
Lời Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, vẫn luôn vang vọng: ”Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
Đó là những lời sau cùng của Chúa trước khi Ngài rời bỏ mặt đất cách hữu hình để trở về với Cha. Những lời ấy, trong sức mạnh và hiệu năng của nó, cho thấy rõ căn tính của Giáo Hội – đó là một Giáo Hội được ủy thác kho tàng sự thật và ơn cứu độ thần linh không phải để giữ cho riêng mình nhưng là để thông chia cho mọi người khác nữa. Những lời ấy của bản văn Tin Mừng theo Thánh Matthêu là hiến pháp của Giáo Hội, vì Giáo Hội, tự bản chất của mình, là một cơ chế truyền giáo.
Loan báo Tin Mừng, đó là công bố cho toàn thế giới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết và sống lại để làm Chúa của kẻ sống và người chết. Từ bối cảnh đó, chúng ta hiểu ý tưởng của Thánh Augustinô, như được Công Đồng Vatican II lặp lại: “Các Tông Đồ, là nền móng của Giáo Hội, bắt chước mẫu gương của Chúa Kitô, đã rao giảng lời chân lý và xây dựng các giáo đoàn” (AG, 1).
12 THÁNG MƯỜI
Muối Và Ánh Sáng Cho Trần Gian.
Trước khi được tung vào khắp thế giới, các Tông Đồ đã cùng với Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, cầu nguyện và chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã hứa gởi Thánh Thần, Đấng Phù Trợ, đến đưa dẫn các Tông Đồ vào toàn bộ chân lý và ban cho các ngài ân sủng để đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng. Thật vậy, phải có sức mạnh của Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể soi sáng cho mọi người. Chỉ nhờ Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể trở thành muối và ánh sáng cho trần gian (Mt 5, 13-14). Chỉ nhờ Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể canh tân và cứu độ mọi người, đem họ đến cùng Chúa Kitô.
Khi Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin lần đầu tiên được chính thức thành lập, đó cũng là giai đoạn sôi động của những khám phá lớn lao về các vùng đất mới. Những thế giới mới mở ra vẫy gọi bước chân các nhà truyền giáo của Giáo Hội. Và nhu cầu thiết lập một cơ chế để phục vụ cho mục đích rao giảng Tin Mừng trở thành cấp thiết hơn bao giờ.
Ngày nay, chúng ta đang ở trong một thời đại khác hẳn. Công cuộc thám hiểm trái đất đã hoàn tất. Tất cả các lục địa đều đã mở ra sẵn sàng đón nhận sứ điệp của Tin Mừng, với những giáo hội tươi trẻ và đầy triển vọng. Một mùa gặt bội thu đang mời gọi những thợ gặt có khả năng là ánh sáng và muối cho trần gian.
Hai ngàn năm lịch sử Giáo Hội, xét về mặt địa dư thì Tin Mừng đã được loan báo cho toàn thể thế giới. Nhưng trong bối cảnh sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình, Giáo Hội không quên bổn phận thăng tiến con người, phát triển xã hội và bảo vệ các quyền của con người.
13 THÁNG MƯỜI
Một Thời Đại Khẩn Trương
Thật bi đát là còn nhiều vùng trên thế giới, người ta vẫn chưa biết hoặc đã lãng quên Tin Mừng. Xã hội hiện đại vốn tự hào là một xã hội thông tin, nhưng có hàng triệu con người mong mỏi được nghe Tin Mừng mà chỉ mới được biết loáng thoáng hoặc chẳng biết gì cả về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Và trong thế giới cũ, vốn in đậm truyền thống đức tin Kitô giáo hàng bao thế kỷ, đang tồn tại những ý thức hệ sai lạc và tư tưởng duy vật quá tràn ngập đến nỗi nhiều người sợ rằng thế giới có nguy cơ bị nhận chìm vào trong vực thẳm đen tối của chủ nghĩa vô thần. Vì thế, song song với nhu cầu Phúc Aâm hóa, chúng ta nhận ra một nhu cầu cấp bách không kém, đó là tái rao giảng Tin Mừng.
Tất cả chúng ta – linh mục cũng như giáo dân – đều được mời gọi khơi lại ý thức trong Giáo Hội về nhu cầu khẩn thiết của việc Phúc Aâm hóa và tái Phúc Aâm hóa. Đặc biệt, chúng ta phải giúp cho thế hệ trẻ nắm bắt sứ điệp này. Tâm hồn các bạn trẻ thường bị phân tán bởi những hy vọng trống rỗng. Chúng ta phải nhấn mạnh với họ về tính khẩn thiết của công việc truyền giáo, là lời tiếng gọi thách đố tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa. Chúng ta cũng cần phải làm cho các cộng đoàn Kitô hữu trở nên liên đới mật thiết với những nhu cầu những thử thách của các anh em tại các vùng truyền giáo.
14 THÁNG MƯỜI
Loan Báo Tin Mừng,
Một Nhu Cầu Cấp Bách Và Toàn Diện
Công Đồng Vatican II, trong Sắc Lệnh Truyền Giáo, đã tổng hợp một cách tuyệt vời cả lý do lẫn trách nhiệm loan báo Tin Mừng. Sắc Lệnh này đề cập đến các hoạt động truyền giáo của Giáo Hội : “Lý do của sứ mạng truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên Chúa, Ngài ‘muốn tất cả mọi người được cứu độ và được biết sự thật. Và sự thật là: Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất. Cũng chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, Đấng đã trao hiến chính mình làm giá chuộc cho mọi người’ (1Tm 2,4-6), và ‘không có ơn cứu độ nơi bất cứ ai khác’ (Cv 4,12). Do đó, mọi người phải trở về với Ngài sau khi đã nhận biết Ngài nhờ lời rao giảng của Giáo Hội, và phải kết hiệp mật thiết với Ngài cũng như với Giáo Hội là thân thể của Ngài qua Phép Rửa…”
“Đành rằng Thiên Chúa – bằng những cách thế chỉ một mình Ngài biết – có thể dẫn dắt những người có lương tâm ngay thẳng nhưng không biết Tin Mừng đến với đức tin – ‘bởi người ta không thể làm hài lòng Thiên Chúa được nếu không có đức tin’ (Dt 11,6); tuy nhiên, bổn phận tất yếu của Giáo Hội phải là rao giảng Tin Mừng, nghĩa là hoạt động truyền giáo của Giáo Hội luôn luôn còn đầy đủ tính khẩn thiết của nó – hôm nay và mãi mãi” (TG, 7).
Loan báo Tin Mừng là công việc thường xuyên của Giáo Hội. Nó luôn khẩn thiết và không bao giờ có thể chước miễn. Ơn cứu độ của con người luôn là vấn đề nóng bỏng. Đó là lý do tại sao Đức Phao-lô VI, trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, đã viết: “Người tông đồ phải hiến dâng tất cả thời giờ, tất cả sức lực, và nếu cần, hy sinh cả sự sống mình cho việc loan báo Tin Mừng” (EN, 5).
15 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Chúa Kitô
Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái
Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.
Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.
16 THÁNG MƯỜI
Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến
Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.
Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).
17 THÁNG MƯỜI
Người Nghèo Là Những Ai?
Nhưng ai là người nghèo trong thời đại chúng ta? Tin Mừng nói đến những người mù, những người bị áp bức, và những người bị giam cầm (Lc 4,18). Người nghèo là những người sống mà không có được những nhu cầu thiết yếu để sống, cả những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần.
Ngoài ra, trong thế giới hôm nay, hàng triệu người phải rời bỏ quê hương mình để lánh nạn. Hàng triệu người, đôi khi toàn bộ những bộ tộc hay những vùng dân cư, bị đứng trước nguy cơ tuyệt chủng vì hạn hán hay vì thiếu lương thực.
Làm sao người ta có thể nhắm mắt trước tình trạng nghèo khổ và ngu dốt của những đồng loại mình chưa bao giờ có được cơ hội đến trường? Làm sao có thể không day dứt khi nhìn thấy vô số người đang phải chịu đựng một cách hoàn toàn bất lực trước sự bất công và trước tình trạng kém phát triển? Cũng có rất nhiều người đã bị tước đoạt quyền tự do tín ngưỡng và phải đau khổ cùng cực bởi vì họ không thể tôn thờ Thiên Chúa theo lương tâm mình.
18 THÁNG MƯỜI
Mang Tin Vui Cho Người Nghèo
Thời đại của chúng ta đang đứng trước rất nhiều tình trạng đói nghèo về mặt luân lý, trong đó tự do và nhân phẩm của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Khốn nạn cùng cực nhất là tình trạng của những người sống mà không hiểu biết được ý nghĩa của cuộc sống. Lương tâm con người trở nên bị sai lệch hay hoàn toàn hư hỏng, đó là một dạng nghèo. Bao gia đình phân rã hay đổ vỡ, đó cũng là một dạng nghèo. Chung qui, tất cả đều là cái nghèo của tội lỗi.
Trong một thế giới bị xâu xé bởi quá nhiều hình thức nghèo như thế, Giáo Hội phải cố gắng “mang tin vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Và Giáo hội đã làm điều đó bằng cách thể hiện những nỗ lực như của Mẹ Têrêsa Calcutta và những nỗ lực tương tự của nhiều người khác. Tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và công việc phục vụ của họ đối với những con người nghèo khổ nhất đang bộc lộ sâu sắc ý nghĩa ngôn sứ và sứ mạng loan báo Tin Mừng của toàn Giáo Hội.
Những chứng tá hy sinh chất chứa bản chất tình yêu Kitô giáo ấy quả là một nguồn khích lệ lớn lao. Đối với từng người và đối với toàn Giáo Hội, những chứng tá ấy là “một niềm khích lệ trong Chúa Kitô”â, “một sự an ủi trong lòng mến”, và “một sự thông dự trong Thánh Thần”. (Pl 2,1)
19 THÁNG MƯỜI
Chứng Từ Của Tình Yêu Huynh Đệ
Sau khi ghi nhận những công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim của người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến giáo huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).
Phải chăng những lời này của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi cho giáo hội ở Calcutta? Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở mọi nơi trên thế giới, gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời được gởi cho mọi tín đồ thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người thiện chí. Đó là một chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).
Đừng! Chúng ta đừng bao giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau khổ! Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo hướng áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá hình của chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người ta.
Cuối cùng, hãy cho phép những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những người nghèo của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên tiếng nói! Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.
20 THÁNG MƯỜI
Kiến Tạo Hòa Bình Bằng Tình Yêu
Chiến tranh và bạo lực là con đẻ của sự xem thường các quyền căn bản của con người. Quyền căn bản nhất của con người, đó là phải xem mỗi người là một ngã vị độc đáo và không thể thay thế được. Con người được tạo nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài. Qua Bí Tích Phép Rửa, con người trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa và thông dự vào ơn cứu chuộc nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể.
Ở nơi đâu con người còn bị lạm dụng để làm thỏa mãn quyền lợi, nhu cầu, khát vọng của người khác thì ở đó sẽ nảy sinh bạo lực, lộn xộn và chiến tranh. Trái lại, ở nơi nào con người biết phục vụ cho quyền lợi của anh chị em mình, biết xem anh chị em mình “là những tạo vật duy nhất được Thiên Chúa yêu thương do chính bản chất của nó“ (MV 24), thì ở đó có tình yêu đích thực, hòa bình sẽ triển nở. Bởi vì nền móng của hòa bình là tình yêu.
Nói cách khác, Thiên Chúa là nguồn gốc của hòa bình – vì Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi tình yêu. Đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là đời sống yêu thương. Chúa Cha yêu Chúa Con và Chúa Con yêu Chúa Cha. Tình yêu này mạnh mẽ và biệt vị đến nỗi nó được biểu hiện như một ngã vị thần linh – đó là Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta cho phép Chúa Thánh Thần tràn ngập trong lòng chúng ta, nhất là khi lãnh nhận các bí tích, thì chúng ta sẽ có được tình yêu ấy và sẽ trở thành những người kiến tạo hòa bình đích thực.
21 THÁNG MƯỜI
Nhu Cầu Tiếp Nhận Nguời Tị Nạn
Các quốc gia trên thế giới cần phải hợp tác với nhau để đáp ứng nguyện vọng về chỗ định cư cho những người muốn tìm đất sống mới. Chỉ có sự hợp tác trên qui mô lớn giữa các chính phủ mới có thể có được giải pháp thỏa đáng cho vấn đề vốn dai dẳng và nghiêm trọng này. Trong Thông Điệp Pacem in terris, Đức Gioan XXIII đã đề cập đến tình trạng của những người bị trục xuất khỏi quê hương mình vì những lý do chính trị (PT 103–108). Ngài nhấn mạnh: “Những người tị nạn ấy là những nhân vị, và tất cả những quyền lợi của họ trong tư cách là những nhân vị cần phải được tôn trọng. Người tị nạn không thể mất các quyền căn bản của mình, cho dù họ bị tước đoạt quyền công dân tại xứ sở của họ”. (PT 105)
Với những lời khẳng quyết mạnh mẽ này, Đức Gioan XXIII đã đưa ra những lý do căn bản tại sao chúng ta – những Kitôhữu – phải quan tâm đến các anh chị em tị nạn. Họ đến với chúng ta từ những hoàn cảnh đau khổ và bị ngược đãi. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ những quyền lợi cốt thiết của họ, những quyền căn bản của mọi con người, những quyền không thể bị chế định bởi các yếu tố của tự nhiên hay bởi những hoàn cảnh chính trị xã hội.
22 THÁNG MƯỜI
Bảo Vệ Phẩm Giá Của Mọi Con Người
Có lần tôi đã nói trong sứ điệp nhân Ngày Quốc Tế Hòa Bình: “Con đường đúng đắn để xây dựng một thế giới hiệp thông huynh đệ, một thế giới mà công lý và hòa bình sẽ ngự trị khắp mọi nơi, cho mọi dân tộc … đó là con đường liên đới, con đường của đối thoại và của tình huynh đệ đại đồng. Chỉ có con đường đó mà thôi.”
Ý thức liên đới phải vượt thắng mọi cám dỗ khép kín lòng mình. Ý thức ấy thúc đẩy người ta biết kính trọng những truyền thống văn hóa và luân lý của mọi dân tộc. Nó giúp các truyền thống gặp gỡ nhau, cảm thông và trân trọng nhau. Sự liên đới mà xã hội hiện đại cần có chắc chắn không phải là những câu khẩu hiệu mơ hồ sáo rỗng, nhưng phải là sự liên đới cụ thể trong tinh thần tôn trọng giá trị của sự sống, của mọi sự sống. Bởi vì nơi mỗi hiện hữu con người đều có phản ảnh sự hiện hữu của chính Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có lòng bao dung mà thôi thì không đủ, thái độ thuần túy cam chịu càng không đủ. Sự chấp nhận mọi sự như hiện trạng của nó cũng không đủ. Điều cần thiết là phải có một thái độ dấn thân tích cực để tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền của mọi con người, trong bối cảnh là chính căn tính văn hóa của họ.
Thái độ dấn thân tích cực ấy sẽ thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những điều ích lợi cho người khác, xây dựng những mối liên hệ mới, đem lại niềm hy vọng mới, hăng say phụng sự cho hòa bình. Chỉ khi hiểu biết và thông cảm nhau, chúng ta mới có thể giải quyết các xung đột và điều chỉnh những bất công. Và chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra triển vọng thật sự về mối liên đới trong tự do và hy vọng. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra con đường hòa điệu giữa các dân tộc – sự hòa điệu này là điều kiện không thể thiếu cho một nền hòa bình đích thực.
23 THÁNG MƯỜI
Một Thế Kỷ Văn Minh
Tôi cho rằng nếu sau này hậu thế nhớ lại và ghi nhận rằng thời đại này của chúng ta là một thế kỷ văn minh, thì đó không phải do những tiến bộ về mặt văn hóa và kỹ thuật mà nó đạt được, nhưng là do sự phát triển xã hội của chúng ta trong đó thiện ích của con người được nêu thành mục tiêu để kiếm tìm. Vấn đề tìm nơi ăn chốn ở cho hàng triệu người tị nạn trên thế giới ngày nay là vấn đề tiên quyết trong một xã hội phát triển như thế.
Hồi ức về những đau khổ mà nhân loại phải chịu đựng trong suốt thế chiến thứ hai phải buộc chúng ta nhận thức sâu sắc về tính phi lý và kinh dị của tấn bi kịch ấy. Trong cuộc chiến tranh kinh khủng nói trên, hàng triệu con người bị buộc phải trốn chạy, phải rời bỏ nhà cửa và quê hương của mình. Để phòng tránh sự tái diễn của tình trạng đau thương đó, chúng ta phải nỗ lực không mệt mỏi để giải quyết những bất hòa chia rẽ, những cuộc xung đột ý thức hệ và những sự tranh giành quyền lực. Phải dứt khoát vứt bỏ những não trạng ích kỷ phi nhân, chúng ta mới có thể quảng bá được tinh thần tôn trọng con người. Và, cuối cùng, chúng ta sẽ dựng xây được một nền văn minh trên cơ sở của tình yêu và sự thật, trên cơ sở của sự hợp tác giữa mọi dân tộc trên mặt đất.
24 THÁNG MƯỜI
Xin Cho Chúng Nên Một
Chiều hôm trước khi vào cuộc Khổ Nạn, trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả những ai tin vào Ngài. Ngài nói: “ Lạy Cha, con không chỉ cầu xin cho những người này – tức các tông đồ- nhưng còn cho những ai nhờ họ mà tin vào con, để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 20-21).
Chúng ta cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện này với chính Chúa Kitô – vị Thượng tế của Giao Ước Mới. Chúa Kitô hiến trao chính bản thân mình làm hy lễ. Ngài trao hiến chính Thịt và Máu của Ngài. Ngài trao hiến cuộc sống và cái chết của Ngài. Và với hy tế này, hy tế thánh thiện vô song, Ngài giao hòa thế giới với chính Ngài. Đức Kitô chết trên Thập Giá để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu được thốt ra từ chính trọng tâm của hy tế này. Cả lời cầu nguyện và cái chết hy tế của Ngài đều có cùng một mục đích là “Xin cho chúng nên MỘT”.
25 THÁNG MƯỜI
Liên Kết Với Nhau Qua Phép Rửa
Đức Kitô đang nhắm đến loại hiệp nhất nào? Ngài đang nói về sự hiệp nhất do Phép Rửa. Sự hiệp nhất này được Thánh Phaolô quảng diễn trong Thư Galata: “Tất cả anh em, vì đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô, và nên một trong Đức Kitô Giêsu ” (Gl 3,27-28)
Qua Phép Rửa, chúng ta không chỉ được dìm vào trong nước mà trước hết đó là được dìm vào trong cái chết cứu chuộc của Đức Kitô. Và cũng như cái chết của Đức Kitô đánh dấu sự bắt đầu của cuộc sống mới như được vén mở nơi cuộc Phục Sinh, thì việc chúng ta được dìm trong nước của bí tích Phép Rửa cũng đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc sống mới.
Sự sống mới ấy chính là sự sống do ân sủng, cùng một sự sống như được biểu hiện nơi cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Đây chính là sự sống của Đức Kitô được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta trong Chúa Thánh thần.
Sự sống đầy sức cứu độ này chỉ có một mà thôi. Sự sống ấy hiện diện nơi tất cả những ai lãnh nhận Phép Rửa. Đó là lý do tại sao bất cứ ai lãnh nhận Phép Rửa đều nên một trong Đức Kitô. Phép Rửa vừa diễn tả vừa đạt được tiếng gọi hiệp nhất đối với mọi Kitôhữu. Đó cũng là tiếng gọi hiệp nhất trong nhiệm thể Giáo Hội duy nhất, nhờ Thánh Thần.
26 THÁNG MƯỜI
Kiểu Mẫu Và Nguồn Mạch Tối Thượng
Của Hiệp Nhất
Mối hiệp nhất liên kết các Kitô hữu vào một thân thể, đó là mối hiệp nhất bắt nguồn từ Thiên Chúa. Mẫu thức tối thượng của sự hiệp nhất này là Thiên Chúa Ba Ngôi, là sự hiệp thông của Ba Ngôi Vị Thần Linh – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong bữa Tiệc Ly: " Cũng như, lạy Cha, Cha ở trong con, và con ở trong Cha, con cầu xin để họ nên một trong chúng ta" (Ga 17, 21).
Tất cả những người nhờ cùng một đức tin và cùng một Phép Rửa, đã trở nên con cái Thiên Chúa, đều được mời gọi đi vào trong mối hiệp nhất này. Thánh Phaolô nói: "Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô" (Gl 3,26). Vì thế nhờ đức tin, chúng ta là con cái Thiên Chúa trong Đấng là Con Một của Thiên Chúa Cha. Chúng ta phải hiệp nhất trong nguồn hiệp nhất tối thượng này: mối hiệp nhất thần linh giữa Chúa Con với Chúa Cha. Rồi, Chúa Cha và Chúa Con đã tuôn tràn Thánh Thần xuống trên Giáo Hội.
Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn tất cả những người đã chịu Phép Rửa, thúc đẩy họ tin tưởng cầu xin và thưa lên: "Abba, Cha ơi!". Như Công Đồng Vatican II đã dạy: "Chúa Thánh Thần – Đấng cư ngụ trong lòng các tín hữu và cai quản toàn thể Giáo Hội – tạo ra sự hiệp thông kỳ diệu của các tín hữu và hiệp nhất tất cả trong Đức Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài chính là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội. Ngài phân phát vô số các ân sủng và các sứ vụ khác nhau (1Cr 12, 4-11) và làm cho Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô nên phong phú bằng nhiều ân huệ, ‘nhờ đó các thánh được chuẩn bị làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Chúa Kitô’ (Eph 4, 12).
27 THÁNG MƯỜI
Vinh Quang Của Việc
Khiêm Tốn Phục Vụ Tha Nhân
Mối hiệp nhất do đức tin và Phép Rửa phản chiếu đặc biệt vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà Thiên Chúa Cha từ đời đời đã ban cho Chúa Con, vinh quang mà Ngài đã ban cho Chúa Con trên mặt đất này, nhất là khi Ngài bị treo trên cây thập giá. Vì thế, tiếng gọi chia sẻ vinh quang này sẽ làm lan tỏa khát vọng hiệp nhất. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một" (Ga 17,22).
Vậy đâu là vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con? Đó là vinh quang của việc phục vụ người khác cách khiêm tốn, vinh quang của việc thi hành thánh ý Cha trong mọi sự, vinh quang tột đỉnh nơi thái độ tự do chấp nhận cái chết trên thập giá, nơi hy tế cứu chuộc hết thảy trần gian. Vinh quang của Đức Kitô là như thế.
Đó cũng là con đường vinh quang được tiếp bước bởi các môn đệ Đức Kitô. Phương thế tuyệt hảo nhất để tôn vinh Thiên chúa là theo gương mẫu của Đức Giêsu, Đấng đã nói: "Nếu ai muốn theo Tôi, hãy bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi" (Lc 9,23). Bất cứ ai tôn vinh Thiên Chúa bằng cách này đều thông dự vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa và nên một với Ngài, như Chúa Cha và Chúa Con là một.
Hiệp nhất là một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng duy nhất trong Ba Ngôi thần linh. Ở đâu ân sủng này được đón nhận trong đức tin, ở đó sẽ có các hoa quả của Thánh Thần: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ" (Gl 5,22). Vâng, Thiên Chúa giúp chúng ta vượt qua những chia rẽ và tái khám phá sự hiệp nhất trong Ngài. Ngài ban cho chúng ta ánh sáng chân lý và ân sủng cần thiết để chúng ta đổi mới tâm hồn. Ngài giải thoát ta khỏi sự ngu muội, khỏi lầm lạc, và khỏi tội lỗi – khỏi tất cả những nguyên do gây chia rẽ trong chính bản thân mình và trong các mối quan hệ với người khác. Chúa Thánh Thần luôn ở gần những kẻ kêu cầu Ngài. Ngài ban tặng chúng ta mối hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và giúp chúng ta hoà giải với anh chị em mình.
28 THÁNG MƯỜI
Gương Mù Của Chia Rẽ
Mặc dù hiệp nhất là điều mà con nguời sẽ chẳng bao giờ có thể tự mình đạt được, song chúng ta cũng phải tìm kiếm hiệp nhất và cố gắng tranh thủ hiệp nhất. Hiệp nhất là một trong những đặc tính của Giáo Hội, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: " … Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền." Nhưng thực tế, trong Giáo hội duy nhất ấy lại có tình trạng … bất hoà giữa các Kitôhữu.
Nhiệm vụ tái lập mối hiệp nhất giữa tất cả những người tin vào Chúa Kitô ngày càng trở nên cấp bách. Những chia rẽ trong quá khứ và hiện tại là một gương mù cho những người ngoài Kitô giáo, những chia rẽ ấy là một sự đối nghịch rõ ràng với ý muốn của Chúa Kitô. Chúng là trở ngại nghiêm trọng cho nỗ lực rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội.
Công cuộc đại kết đòi hỏi những cố gắng không ngừng và những lời cầu nguyện tha thiết của chúng ta. Trước hết phải nhận thức rằng mối hiệp nhất của Phép Rửa có ý nghĩa rất sâu xa và rất hàm súc. Mối hiệp nhất này thực sự liên kết tất cả những người đã chịu Phép Rửa lại với nhau, và cho họ được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mối hiệp nhất này tồn tại mãi mãi, bất chấp những khác biệt hay những chia rẽ. Lời của Thánh Phaolô vẫn mãi còn xác thực: “Vì tất cả anh em đã được thanh tẩy trong Đức Kitô và mặc lấy Đức Kitô, nên không còn Do thái hay Hy lạp, cũng không còn nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; vì tất cả anh em là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,27 – 28).
Chúng ta phải sẵn sàng cộng tác với Đức Kitô và với các tín hữu khác để đạt được sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các môn đệ của Đức Kitô trên toàn thế giới. Chúng ta vui mừng nhìn thấy những bước tiến đã đạt được trong lãnh vực đại kết. Chúng ta đã có những nỗ lực vượt qua các thành kiến in hằn xưa nay, vượt qua những xét đoán sai lầm và những luận điệu khích bác. Chúng ta đã hiểu biết nhau hơn và tôn trọng nhau hơn trong tình huynh đệ. Đã có những bước tiến đáng kể trong cuộc đối thoại giữa các giáo hội và trong sự cộng tác giữa các Kitôhữu trong việc phục vụ cho nhân loại. Chúng ta ngày càng có được nhiều cơ hội hơn để cầu nguyện chung giữa các Kitô hữu – trong sự tôn trọng các truyền thống khác biệt. Tất cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường tiến đến sự hiệp nhất trọn vẹn trong Đức Kitô. Chúng ta tràn trề hy vọng mong chờ một ngày chúng ta sẽ thực sự nên một như Chúa Cha và Chúa Con là một.
29 THÁNG MƯỜI
Để Thế Gian Tin Rằng Cha Đã Sai Con …
Sự hiệp nhất giữa các môn đệ Đức Kitô là một điều kiện để thi hành sứ mạng của Giáo Hội. Hơn thế nữa, nó còn là một điều kiện để thực thi sứ mạng của chính Đức Kitô trong thế giới này. Nó là một điều kiện để rao giảng và củng cố cách hiệu quả đức tin của chúng ta vào Đức Kitô. Chúa Giêsu cầu nguyện: “Con cũng cầu xin … cho những người sẽ tin vào con …để họ nên một trong chúng ta, và để thế gian tin rằng Cha đã sai con… Xin cho họ hoàn toàn nên một, để thế gian biết rằng Cha đã sai con, và để họ nhận biết Cha yêu thương họ như Cha đã yêu con” (Ga 17, 20 – 23).
Sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu là điều thiết yếu cho việc rao giảng Tin Mừng, bởi vì sự thành bại của việc rao giảng Tin Mừng tùy thuộc vào chứng tá sống của cộng đoàn Kitôhữu, chứ không chỉ là chuyện thuyết giảng Lời Chúa. Làm sao những người ngoài Kitô giáo có thể có thể bắt đầu tin vào tình yêu của Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô, nếu họ không nhìn thấy các Kitô hữu yêu thương nhau? Tình yêu không thể được biểu lộ ra cũng không thể xuyên thấu vào trái tim con người ngoại trừ qua chứng tá hiệp nhất.
Vì thế trước hết chúng ta phải tha thiết khát vọng hiệp nhất. Chúng ta phải cầu xin ơn hiệp nhất. Ân huệ này, Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, cũng đặt ra cho Giáo Hội một trách nhiệm đặc biệt trong đại gia đình nhân loại. Nói cách khác, Giáo Hội có trách nhiệm thúc đẩy việc đối thoại và thông cảm nhau giữa tất cả mọi người, để vãn hồi sự hiệp nhất và hòa bình cho thế giới vốn đang bị phân rẽ của chúng ta.
Ngày nay thế giới đầy dẫy những xung đột và căng thẳng. Các quốc gia bị phân rẽ giữa Đông và Tây, giữa Bắc và Nam, giữa bạn và thù. Và ngay bên trong các đường biên giới của mỗi quốc gia, người ta có thể nhìn thấy sự đối đầu nhau giữa các nhóm và các đảng phái: Những giành giựt xâu xé phát sinh từ các thành kiến và các ý thức hệ, từ những định chế cứng ngắt của các quốc gia, từ những rào cản về chủng tộc, và từ vô số yếu tố khác – chẳng có yếu tố nào trong đó xứng đáng với phẩm giá con người.
Chính trong thế giới phân rẽ này mà Giáo Hội hôm nay được mời gọi cổ võ cho sự hòa điệu và hòa bình.
30 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Vượt Qua Mọi Rào Chắn
Giáo Hội bước đi trên con đường tình yêu và chân lý. Trong tình yêu, Giáo Hội nhận ra mọi người đều là con cái Thiên Chúa, là anh chị em bình đẳng trong phẩm giá, bất kể địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo của họ là gì. Trong chân lý, Giáo Hội vượt qua tình trạng nô lệ cho sự sai lầm, đạt được sự tự do mới mẻ trong tâm trí. Thật vậy, không thể có rào cản nào phong tỏa tình yêu Thiên Chúa.
Tiên vàn chúng ta, trong tư cách là những người Kitô hữu, phải không ngừng tín nhiệm vào sức mạnh của thập giá – để chiến thắng tội lỗi và giao hoà thế gian với Thiên Chúa. Như tôi đã nhấn mạnh trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình 1986: “Các Kitô hữu, được soi sáng bởi đức tin, nhận biết rằng sở dĩ thế giới này trở thành một đấu trường xâu xé, căng thẳng, thù địch, bế tắc và bất bình đẳng (thay vì là một nơi của tình huynh đệ chân thành), thì đó chính là vì tội lỗi, nghĩa là vì sự rối loạn luân lý của con người. Kitôhữu cũng biết rằng ân sủng của Đức Kitô không ngừng được ban tặng cho thế giới, và ân sủng ấy có thể biến đổi tình trạng này của nhân loại, bởi vì “Ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đó ân sủng chứa chan” (Rm 5, 26).
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta nên một, như Ngài và Chúa Cha là một. Trong hiệp thông với Giáo Hội, chúng ta kết hiệp với Đức Giêsu và tìm được sức mạnh và nguồn cảm hứng để vượt qua mọi rào cản và chia rẽ, và xây dựng những mối hiệp nhất mới mẻ và chặt chẽ hơn: Mối hiệp nhất trong các gia đình và giáo xứ, mối hiệp nhất trong các giáo hội địa phương, và giữa các giáo hội thuộc những nghi lễ khác nhau; mối hiệp nhất trong hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu và với Giám Mục Rôma.
Thế giới đang chờ đợi những chứng từ sống động về đức tin và tình yêu của chúng ta. Như Công Đồng Vatican II nói: “Tất cả các tín hữu hãy nhớ rằng, họ càng cố gắng sống theo Tin Mừng, họ sẽ càng thăng tiến và sống triệt để hơn sự hiệp nhất giữa các Kitôhữu” (Sắc lệnh về Đại kết, 7). Tất cả chúng ta cố gắng để nên một trong sự hiệp nhất với Đức Kitô Giêsu và với Giáo Hội Ngài.
31 THÁNG MƯỜI
Ơn Hiệp Nhất
Trong ý nghĩa sâu xa nhất, sự hiệp nhất của Giáo hội là một hồng ân của Chúa Cha qua Chúa Kitô. Ngài là “nguồn mạch và trung tâm của mối hiệp thông Giáo Hội” (ibid. 20). Chính Chúa Kitô chia sẻ cho chúng ta Thánh Thần của Người, và Thánh Thần “ban sự sống, sự hiệp nhất và làm sống động toàn thân” (GH 7).
Sự hiệp nhất thâm sâu này được Thánh Tông Đồ Phao-lô diễn tả cách tuyệt vời: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng bởi ơn gọi của anh em; chỉ có một Chúa, một niềm tin, một Phép Rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4, 4 – 6). Những lời ấy thật hùng hồn và kích cảm biết bao! Thật vậy, những lời ấy cho thấy nhiệm vụ của Giáo Hội qua mọi thời đại và mọi thế hệ. Nhiệm vụ thiêng liêng của Giáo Hội là gìn giữ sự hiệp nhất này, và nhiệm vụ này không bao hàm gì khác hơn là trung thành trọn vẹn với Chúa của mình. Giáo Hội phải nỗ lực để tái lập sự hiệp nhất này ở bất cứ nơi nào mà nó đã bị suy yếu hay đã gãy đổ.
Trung tâm mối hiệp nhất của Giáo Hội là chính Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Ngài là “viên đá góc” (Mt 21,42) của toà nhà Thiên Chúa tức là Giáo Hội (1Cr 3,9). Là “viên đá góc” của dân mới Thiên Chúa, của toàn thể nhân loại đã được cứu chuộc, Đức Kitô hiện diện trong cộng đoàn Thánh Thể. Ngài dẫn chúng ta đến với chính Ngài. Và Ngài hiệp nhất chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Chúng ta hãy lắng nghe lời nguyện hiến tế trong bữa Tiệc Ly. Ngài thưa cùng Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chí Thánh, xin gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11).
Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, và Người vốn đã bộc lộ ‘danh’ của Chúa Cha cho các môn đệ Người. Vì Người sẽ không còn ở “trong thế gian” với họ nữa, Người xin Chúa Cha gìn giữ họ hiệp nhất trong sự nhận biết lời đã được ban cho họ (Ga 17,14). Đối tượng số một của lời Người cầu nguyện là sự hiệp nhất của những kẻ Người đã chọn, đó là các Tông Đồ. Nhưng Chúa Giêsu mở rộng đối tượng ấy tới tất cả những ai sẽ đi theo Người qua mọi thời. Người thốt lên: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một” (Ga 17, 20 – 21).
Tác giả bài viết: Nguồn: Lời Chúa hàng tuần