NHÂN BẢN TRONG KI-TÔ GIÁO I
Giáo dục nhân bản là gì?
Giáo dục nhân bản là rèn luyện các nhân đức tự nhiên mà bất cứ ai muốn trở thành người lương thiện, trở nên người trưởng thành cần phải có. Giáo dục nhân bản còn được coi là nền tảng của đạo đức học.
1. Người trưởng thành là người lịch sự.
1/1. Phép lịch sự là những nghi thức, những lễ phép đã trở thành ước lê, do những người sống chung trong xã hội thiết lập ra và cùng thực hiện, những ước lệ này nhằm tôn kính yêu thương nhau, để làm êm dịu cuộc sống chung, bằng cách biết đối xử với nhau cho vừa lòng đẹp ý, phép lịch sự xuất phát từ hai mục đích: Công bằng và bác ái.
1/2. Những bổn phận đối với người có nhân bản.
a, Đối với Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa đấng tạo nên ta.
b, Đối với cha mẹ. Thiên Chúa dạy “ hảy kính trọng cha mẹ ngươi...” (Xh 20,12).
c, Đối với mọi người. Ta phải sống lịch sự, kính trọng với những ai chưa gặp trên đường đời, phải tôn trọng và yêu mến họ như anh em.
d, Phải lịch sự với chính mình: Chúng ta phải sống lịch sự cả khi ở một mình, vì như vậy chúng ta sẻ có tập quán tốt, dù không ai thấy ta, thì điệu bộ, cử chỉ, hành động của ta đều phải tuân theo phép lịch sự, không vì đẹp lòng tha nhân, nhưng vì yêu lịch sự, vì Thiên Chúa luôn luôn thấy ta mọi nơi mọi lúc.
2. Tư cách và cử chỉ của người lịch sự.
2/1. Người lịch sự về thể chất:
Người có giáo dục là người biết sống sạch sẽ. Phải giữ gìn thân thể sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên, vừa thức dậy ta phải đánh răng, chải đầu tóc cẩn thận. Người có giáo dục phải cần lưu ý những vấn đề này:
- Khạc nhổ nơi công cọng. Đừng bạ đâu nhổ đó mà phải tế nhị tìm nơi kín đáo.
- Hắt hơi chảy muĩ phải dùng khăn che lại.
- Khi ngáp phải dùng tay che miệng lại.
- Tránh ngãi đầu, ngoáy tai, cắn móng tay, bẻ tay, khảy mũi nơi công cọng và trước mặt người khác.
2/2. Người lịch sự trong ăn uống.
- Ăn uống phải khoan thai, và cơm phải và thư thả, đừng và một trật ba bốn cái, húp canh thì húp cho êm, đừng để phát ra những tiếng ực ực.
- Miệng đang ngậm đồ ăn đừng há miệng cho người ta thấy thức ăn trong miệng.
- Gắp đồ ăn đừng xáo trộn cả đĩa, đừng kén chọn mà chỉ nên gắp miếng nào gần tay nhất.
- Khi uống thì uống từng hớp, đừng vừa nhai vừa uống. Người lịch sự chỉ xỉa răng khi ngồi bàn ăn, không xỉa răng lúc đi đường hoặc lúc tiếp chuyện với người khác, không nên lấy ngón tay để cạy thức ăn còn dắt ở trong răng, lúc xỉa răng phải dùng bàn tay kia che miệng lại, gặp giấy rác bất cứ chỗ nào trong nhà hãy nhặt bỏ vào sọt rác, dù là một que tăm cũng đừng vứt bậy.
2/3. Người lịch sự trong giao tế.
- Gặp người đáng kính ta có bổn phận chào hỏi, nếu có mũ, nón ta bỏ ra, nếu không có mũ nón ta hơi cúi đầu chào.....Về việc bắt tay, phải xiết chặt tay người mà ta muốn bắt, đừng đưa tay ngưỡng ngạo, cũng đừng xiết nhặt tay quá, người dưới phải đứng đợi người trên đưa tay ra mới được phép bắt tay, nếu phaỉ bắt tay với phụ nữ, thì phải đợi nữ giới đưa tay ra trước.
2/4. Những câu nói luôn ở trên môi người lịch sự. Đó là: Cám ơn, Xin lỗi, Phiền ông, Xin phép.
- Cám ơn: Hai tiếng cám ơn tuy nhỏ mà trọng, nên ta phải tập cho quen. Khi được người khác nói lời cám ơn, ta phải nói lại: Không có gì, hoặc: Không dám ạ đó là bổn phận của tôi..
- Xin lỗi: Không phải khi mình làm điều gì phiền luỵ đến ai, mới nói tiếng xin lỗi, nhưng người lịch sự phải biết dùng tiếng đó mỗi khi cần đến. Chẳng hạn khi đi đường ta lỡ chạm vào người khác, ta cần nói ngay xin lỗi: Ông, bà, anh, chị,v v. Nhưng nếu ta bị người khác chạm vào ta, không cần coi xét lỗi tại ai và nói với người kia ngay: Xin lỗi.
- Phiền Ông, Bà. Muốn hỏi thăm ai việc gì, trước khi vào vấn đề ta phải rào trước bằng câu này: Phiền ông, bà cho tôi hỏi thăm chút việc.
- Xin phép. Chỗ đông người bạn có việc khẩn cấp cần đi trước, bạn phải nói: Xin phép ông, bà...Sau câu này những người lịch sự nhường bước cho bạn và không quên đáp: Xin mời. Khi vào nhà ai thì trước khi ngồi phải xin phép chủ nhà, hay đợi chủ nhà mới ngồi.
2/5. Tiếp khách trọ.
- Bổn phận chủ nhà phải làm cho khách coi nhà của ta là nhà của họ, bằng sự tôn trọng tự do của khách, săn đón phải từ từ, đừng có niềm nở buổi đầu rồi lạnh nhạt về sau, ta nên nhớ người ta chỉ giữ lại cảm tưởng sau cùng. Phải lo dọn cho khách: Giường, chiếu, gối, chỗ rửa mặt, dép, xà phòng (bông) , khăn mặt, gương lược. Về cơm nước, đừng trịnh trọng quá trong buổi đầu, rồi những ngày sau lại sơ sài, đó là dấu hiệu chóng chán trong tình giao hảo, cứ giữ từ từ, muốn có một bữa trọng phải để sau cùng.
- Bổn phận khách trọ: Nguyên tắc chung: “Nhập gia tuỳ tục” đó là châm ngôn của người khách lịch sự. Trước khi đi phải đem theo đồ dùng cá nhân: Khăn mặt, bàn chải đánh răng, gương lược v.v. Phải thật nhã nhẵn trong thời gian trọ. Khen tài làm bếp của chủ nhà, biết có quà cho trẻ mỗi khi đi phố về, tế nhị trả những phí tổn, ví dụ: Chủ nhà mời xem hát, xin phép trả tiền vé, hoặc đi chơi bằng xe xin trả tiền xăng nhớt. Đừng đòi hỏi quá đáng, đừng bừa bãi chỗ này treo cái áo, chỗ kia treo cái khăn, cũng đừng tọc mạch lục lõi giấy tờ trong phòng ta trọ.
- Về cách nói chuiyện: Khi nói chuyện phải rõ ràng, đừng nói oang oang ầm ĩ, đừng dùng những tiếng khó hiểu nhằm tỏ ra mình là có học thức, đừng dùng những lời bay bướm tiểu thuyết và tránh những lời quá thô kệch, quê mùa hoặc tiếng lóng. Những tiếng sau đây người lịch sự không nên dùng: Đen thui, đỏ lòm, mà nên nói đen như mực, đỏ như son. Ông muốn chi. Nên nói ông cần gì, ông dạy gì ạ.
2/6. Những đức tính phải giữ khi nói chuyện.
- Thận trọng. Phải suy nghĩ kỹ càng trước khi nói, đừng bạ đâu nói đó, nói lung tung, nói luôn miệng, nói không để ai nói, nói dai như đỉa đói, đó là cách gây ác cảm với người nghe, chẳng ai khen kẻ nói nhiều, người ta dễ khen kẻ ít nói.
- Nghiêm túc: Đừng nói những câu hai ý, nhất là về vấn đề phái tính. Thánh kinh khiển trách “Lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra...” (Mt2,20).
- Khiêm tốn: Không nên nói về mình quá nhiều lúc nào cũng phô trương cái “ tôi đáng ghét”, tôi thế này, tôi thế nọ. Có ý cho mọi người biết cái tôi của mình. Những người như vậy là những người thiếu giáo dục, dù họ có học vấn đến đâu.
- Bác ái: Đừng nói những lời chua cay vẻ châm biếm, mỉa mai, đó là những lời lỗi đức bác ái, trong thực tế đừng bao giờ nói đến những chuyện của người vắng mặt về những lỗi của họ, đó là nói hành , nói hành là thái độ của người hèn nhát và gây nhiều tai hại. Nghệ thuật nói chuyện là biết nghe, Thiên Chúa ban cho ta hai tai một lưỡi để đào luyện chúng ta, chúng ta nên nói ít mà nghe nhiều.
2/7. Lên xe xuống ngựa:
- Lúc lên xe, người lớn lên trước. Lúc xuống xe, người nhỏ xuống trước. Lúc ngồi trên xe công cọng, nếu thấy người tàn tật, già yếu, bệnh hoạn hoặc phụ nữ có con mọn ta hãy nhường chỗ.
- Chỗ ngồi trong xe: Chỗ trọng nhất là ở ghế phía sau và bên tay phải theo thứ tự hình vẽ dưới đây:
Xe 4 chỗ
lái xe
3 |
0 |
phụ xe
4
|
Số 2 |
|
Số 1
trọng nhất |
Xe 5 - 6 chỗ
Lái xe 4
|
0 |
Phụ xe 5
|
Số 3 |
số 2 |
Số 1
trọng nhất |
Sưu tầm
NHÂN BẢN TRONG KI-TÔ GIÁO II
BÀI 1: VỀ VIỆC ĂN UỐNG
Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. (1Cr 10, 31)
1/1: Khi chuẩn bị bàn ăn, trong mỗi đĩa (tô) đựng thức ăn, có để sẵn một dụng cụ (muỗng, đũa, muôi, dao…) để mỗi người tự lấy món ăn cho mình. Tránh sử dụng đũa, muỗng của mình đang ăn tiếp xúc với các món ăn dùng chung.
2/1: Không gắp thức ăn cho người khác, vì có khi họ không thích món đó, mà cứ ép, thì qủa là bất lịch sự! Tốt nhất là khi ta muốn mời ai dùng món gì, thì đưa tay chỉ về món đó; hoặc nâng đĩa thức ăn ấy lên, rồi đưa về phía người muốn mời.
3/1: Muốn nhờ ai lấy cơm (thức ăn) vào chén giúp mình, thì đừng nên đưa chén vào lúc họ đang ăn, hoặc họ đang lấy món ăn. Nhớ mình phải bỏ đũa xuống, và hai tay cầm chén đưa cho người lấy giúp, lúc nhận lại cũng phải đón bằng hai tay.
4/1: Người lấy cơm (món ăn), không lấy đầy chén, vì người dùng có khi họ còn chan canh (súp) vào cơm, hoặc họ đã ăn gần đủ no!
Hãy noi gương Đức Giê-su và Mẹ Maria: đoán ý người khác để phục vụ (x Lc 7, 11-17; Ga 21, 5t; Lc 1, 39t; Ga 2, 3).
5/1: Nếu đến giờ cơm, mà chủ nhà tha thiết mời ta dùng bữa – khi ta không được mời trước – thì chỉ nên ăn một chén cho vui lòng chủ, chớ thực tình ăn nhiều, vì người ta không chuẩn bị trước.
6/1: Không được rời khỏi bàn ăn, khi mọi người còn đang dùng bữa. Trừ phi có việc cần, thì nên nêu lý do.
7/1: Phải dùng bữa chung trong gia đình, ít là một lần trong ngày. “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau.” (x Tv 133/132, 1)
8/1: Không cáo tội nhau với người trên trong bữa ăn.
9/1: Không chê món ăn thức uống trong bữa ăn.
10/1: Khi lấy món ăn đầu tiên trong đĩa (tô), thì đừng chọn miếng ngon nhất cho mình.
“Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2, 4).
11/1: Không khích nhau uống rượu (bia), làm hại nhân cách người uống, làm hại kinh tế chủ tiệc!
Cũng không động viên nhau hô to: “Một, hai, ba, dô”, rất thiếu văn hóa. Hãy nhớ Lời Chúa Giê-su dạy: “Chúng con ở trong thế gian, nhưng chúng con không thuộc về thế gian”(Ga 17, 11.14).
Người ta nói: Muốn biết tư cách của ai, cứ nhìn họ lúc nhập tiệc với bạn bè, văn hóa Việt Nam thường nói: “Miếng ăn là miếng tốt”, nhưng coi chừng có khi “miếng ăn lại là miếng xấu”.
12/1: Đến bữa ăn, người lớn nhất chưa ăn, người nhỏ không được tự ý ăn trước, trừ khi đã có phép.
13/1: Để thức ăn lại cho người sau, phải luôn luôn lấy ra đĩa riêng cất đi, không bao giờ để lại món ăn trên đĩa (tô) đã dùng rồi.
14/1: Nếu đến giờ dùng bữa, mà ta đang làm dở việc gì, thì cũng phải bỏ đó mà cùng vào bàn, trừ khi có việc cần gấp, thì ta nên nói lý do.
15/1: Khi xỉa răng, nên dùng ngón tay cái và ngón trỏ cầm tăm, ba ngón còn lại để che miệng. Không nên móc thức ăn nơi kẽ răng rồi đưa lên mũi ngửi. Không nhả thức ăn còn lại trong miệng xuống đất mà nên kín đáo để vào khăn ăn (nếu có), hoặc bỏ vào chén của mình đã ăn xong.
BÀI 2: CÓ KHÁCH ĐẾN NHÀ
Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành;thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. (Rm 12, 9.13)
1/2: Đứng lên chào khách, khi khách đến nhà.
2/2: Giữ chó, dù con vật hiền lành, cũng không nên để nó đến gần khách. Cụ thể không để chó ngửi chân khách, làm khách sợ!
3/2: Nên mặc y phục lịch sự để tiếp khách, nếu khách đến bất ngờ mà ta ăn mặc xoàng xĩnh thì phải xin lỗi khách.
4/2: Không đứng (ngồi) nghe khách nói chuyện với ai trong nhà.
5/2: Chủ nhà kéo ghế ra mời khách ngồi.
6/2: Khi ngồi ghế, tránh ngửa ghế ra phía sau hay đu đưa ghế làm chủ nhà xót xa vì sợ ghế gãy!
7/2: Ta là khách, khi ra về ta nên tự đưa ghế xếp lại chỗ cũ.
8/2: Chỉ cho khách nơi rửa mặt, nhà vệ sinh; lấy dép, khăn mặt sạch, xà bông cho khách nếu khách ở chơi lâu.
9/2: Ai rót nước mời khách? Nếu nhà không có ai khác ngoài ta với khách, thì ta tự làm việc đó. Khi có người khác trong nhà, thì ta có thể nhờ người đó(cấp dưới của ta) làm giúp việc này. Nhớ chủ nhà nên nâng ly uống trước đồng thời mời khách dùng.
10/2: Giới thiệu khách cho những người trong nhà trước (nếu là khách mới đến lần đầu). Sau đó mới giới thiệu từng thành phần trong gia đình với khách từ lớn đến nhỏ.
11/2: Mời khách ở lại : Ta là người dưới trong nhà, khi có bạn đến thăm, ta phải tiếp họ nơi phòng khách. Nếu muốn mời bạn vào bất cứ phòng nào khác trong nhà (ngoại trừ phòng khách) hoặc muốn mời bạn ở lại dùng cơm, ta phải hỏi ý kiến người có trách nhiệm.
BÀI 3: KHI ĐẾN NHÀ AI
Tôi là hương thơm của Đức Ki-tô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất! (2Cr 2, 15)
1/3: Ấn chuông, hay gõ nhẹ cửa, đợi chủ nhà mời mới bước vào, dù cửa nhà không đóng.
2/3: Không tự xông xáo mọi nơi trong nhà, khi chủ chưa mời đến.
3/3: Không tự ý hái hoa, quả hay xin cái này, muốn món đồ kia!
4/3: Nếu đến nghỉ nhà người ta lâu, trước khi về phải dọn dẹp phòng cho ngăn nắp, sạch sẽ.
5/3: Đến nhà ai nói chuyện, thấy người ta nhìn đồng hồ, hoặc có biểu hiện muốn chấm dứt câu chuyện, là ta biết họ đang có việc cần, không muốn tiếp ta nữa, ta nên tìm cách kết thúc và ra về!
BÀI 4: SỐNG TRONG CỘNG ĐOÀN
Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su. (Pl 2, 4-5)
1/4: Trọng của công hơn của riêng; việc chung hơn việc cá nhân.
“Không tìm ích riêng tôi, nhưng là cái ích cho đa số, ngõ hầu họ được cứu độ!” (1Cr 10, 33)
2/4: Quyền lợi người yếu hơn người mạnh, trẻ em hơn người lớn, phụ nữ hơn đàn ông. (x Xh 22, 21-23)
3/4: Muốn dạy ai điều gì, ta phải làm trước, nếu không làm được ít là ta sám hối, xin lỗi người mình muốn dạy, rồi mới dạy người khác sau.
Đức Giê-su đã nêu gương cho chúng ta: “Làm rồi mới dạy!” (Cv 1, 1).
4/4: Khuyến khích người khác khi thấy họ làm điều tốt. Nếu họ thích làm thay mình, vui vẻ nhường ngay. Thánh Phao-lô dạy: “Ai làm điều tốt cũng được, miễn Đức Ki-tô được rao giảng là tôi vui mừng!” (x Pl 1, 15-18)
5/4: Muốn sửa dạy ai điều gì, thì tìm điều tốt nơi họ khen trước đã.
6/4: Cười nói sao cho vừa phải, tạo bầu khí vui tươi, không nên nói năng bừa bãi, gây ồn ào và sinh lố lăng.
7/4: Muốn bớt nóng với tha nhân, hãy nhớ đến khuyết điểm nào của mình mà chưa sửa được.
Thánh Phao-lô khiêm tốn thú nhận sự yếu đuối của mình như sau: “Sự lành tôimuốn, tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn, tôi lại cứ làm!” (Rm 7, 19).
8/4: Đôi cánh nhân bản: cần cù làm việc trong vui vẻ; khó với mình nhưng quảng đại với tha nhân!
Thánh Phao-lô dạy: “Đừng ăn bám vào ai, trái lại đêm ngày làm lụng vất vả để khỏi trở nên gánh nặng cho ai! Anh em hãy bắt chước chúng tôi” (2Tx 3, 8-9).
“Cha Ta hằng làm việc, Ta cũng thế!” (Ga 5, 17). Và có vui vẻ phục vụ Chúa mới ưng nhận (x 2Cr 9, 7).
9/4: Muốn góp ý với ai, ta phải làm ba điều này:
§ Ta xin lỗi bạn trước, rồi nói: nếu tôi nói sai, xin bạn bỏ qua.
§ Ta đề nghị cách giải quyết vấn đề mà mình cho là tốt.
§ Tôi không hài lòng khi thấy có người phê bình việc bạn làm, tôi nghĩ là bạn dư khả năng làm lại cho nhiều người thích hơn.
10/4: Người trên và người dưới sống với nhau, đôi bên đều phải nghĩ: người dưới cần Bề trên thế nào, thì Bề trên cũng cần người dưới như vậy. Do đó sống chung với nhau làm sao cho người này cần người kia!
Thánh Phao-lô dạy: “Không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1Cr 12, 25-26).
11/4: Luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác, đừng giữ bộ mặt đưa đám. Pla-tông nói: “Người là con vật biết cười!” Nụ cười trong Thánh Kinh là dấu chỉ có Chúa ở cùng! (x Lc 1, 28).
12/4: Bình thường, khi không có trách nhiệm, không được bóc thư của người khác xem trước!
13/4: Làm nhà không được lấn đường. Tật tham lam chung của nhiều người khi làm nhà cứ lấn ra đường, chỉ nghĩ đến lợi cho mình mà không nghĩ đến quyền lợi cộng đoàn! Nếu ai làm nhà cũng muốn lấn ra đường, dù chỉ là bậc thềm bước vào nhà, thì con đường sẽ hẹp lại, ngăn trở cho việc chung. Lẽ ra ta phải đặt quyền lợi cộng đoàn trên quyền lợi cá nhân.
Thánh Phao-lô dạy: “Mỗi người đừng chỉ dán mắt vào quyền lợi riêng mình, song hãy chú ý đến những quyền lợi của người khác nữa!” (Pl 2, 4)
BÀI 5: Ở NƠI CÔNG CỘNG
Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 16)
1/5: Vào nhà thờ phải đi khoan thai, khi đi qua Thánh Thể Chúa phải quỳ lạy; còn đối với ảnh tượng chỉ cúi đầu để tỏ lòng tôn kính.
2/5: Trước khi ra khỏi nhà thờ, xếp lại sách cho ngăn nắp gọn gàng.
3/5: Không rồ máy xe lớn tiếng, không chạy quá tốc độ. Vào nơi tôn nghiêm, hay công sở, tắt máy xe dắt bộ.
4/5: Đi đường để ý nhìn người chung quanh, biết quen thì chào hỏi người ta trước; không nên cắm đầu cắm cổ đi, thậm chí có người chào ta, mà ta không biết đáp lại bằng một nụ cười biết ơn.
5/5: Không vẽ, không khắc dấu lên bàn ghế, lên tường, hay cây cối ở nơi công cộng.
6/5: Không khạc nhổ bừa bãi, nhất là đang khi chạy xe.
7/5: Phải giữ vệ sinh chung trong khu xóm, nơi công cộng. Thấy rác thì nên nhặt bỏ vào thùng rác!
8/5: Không ngoáy mũi, ngáp, thở dài khi đang nói chuyện. Nếu cần ngáp hay hắt hơi thì lấy tay hoặc dùng khăn che miệng lại!
9/5: Không ở trần hay mặc đồ ngủ ra đường. Đến nhà thờ phải mặc y phục đoan trang, nết na, lịch sự. Tránh mặc vải mỏng, hở hang!
10/5: Khi thấy tai nạn, hay ẩu đả nhau, biết không thể giúp họ được gì thì đừng bu lại xem!
11/5: Đi vệ sinh phải dội nước thật sạch trước khi ra.
12/5: Không hút thuốc nơi có đông người, vì như thế là gây gương xấu, làm phiền nhiều người, khiến người ta khinh dể mình.
13/5: Đi đường thấy cái gì nguy hiểm cho người khác, ví dụ thấy cái đinh dựng lên giữa đường, ta nhặt lấy; thấy đống phân, ta dọn đi ngay. Làm thế, ta thực hành Lời Kinh Thánh dạy: “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3, 22-23).
BÀI 6: SỐNG VỚI KHU XÓM
Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng. Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu! (Rm 15, 2-3)
1/6: Không để súc vật nhà mình được tự do phóng uế khắp nơi, hay phá hoại cây cối trong khu xóm.
2/6: Không mở nhạc, tivi hay hát karaokê lớn tiếng như bắt người khác phải nghe.
3/6: Không vất rác, đổ nước dơ ra đường, hay nhà bên cạnh.
4/6: Thấy người hàng xóm có việc bất thường, bận rộn, vất vả, ta nên kiếm giờ tới giúp họ một tay; thấy họ thiếu dụng cụ làm, nếu nhà ta có, nên đem đến cho họ mượn.
BÀI 7: TẶNG QUÀ
Chúa Giê-su dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20, 35)
1/7: Ghi vào lịch để nhớ những kỷ niệm của người thân, như Sinh nhật, ngày lãnh Bí tích Thánh Tẩy, Hôn phối, Bổn mạng, ngày giỗ……đến ngày đó ta nên có lời chúc mừng, xin lễ cầu nguyện và kèm theo món quà tặng (tùy ý).
2/7: Khi nhận quà ai, dù là người trên cũng nên đưa hai tay đón lấy và nói: “Cám ơn Chúa, cám ơn cháu (ông, bà…)”.
Người nhận quà mà không tỏ lòng biết ơn thì thua con chó đối với người chủ.
3/7: Khi biếu người trên, quà phải gói cho đẹp, ăn mặc lịch sự, đưa hai tay với lời chúc mừng.
4/7: Người được nhận quà dù là người trên, nhất là người dưới không được khước từ. Dù vật đó mình không thích, hay đã có dư. Khi nhận phải nói: “Cám ơn Chúa, cám ơn bác (anh, chị…)”.
Ông Phê-rô khước từ việc Chúa rửa chân cho. Chúa nói ngay: “Như thế là tình nghĩa thầy trò cắt đứt!” (Ga 13, 8).
5/7: Người cho không đòi buộc người nhận phải dùng. Nếu người nhận đem chia sẻ cho người khác, thì ta vẫn vui vẻ, vì ta không được bắt người nhận sống ích kỷ. Thánh Phao-lô nói: “Gieo sẻn thì gặt sẻn; gieo hậu thì gặt hậu..” (2 Cr 9, 6-8).
6/7: Hăm hở trả ơn cũng là cách bội bạc! Vì làm như thế là phủ nhận lòng quý mến của người cho, và đánh giá người tặng quà là muốn trao đổi vật chất.
BÀI 8: MƯỢN ĐỒ
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn! (Lc 16, 10)
1/8: Khi mượn cái gì của ai, nên trả đúng thời hạn đã nói trước. Có thể nên viết vào tờ giấy tên người mượn, số điện thoại, ngày trả và gởi lại cho chủ.
2/8: Tuyệt đối không mượn khăn mặt, bàn chải đánh răng dùng chung.
3/8: Rất giới hạn mượn xe người khác. Cực chẳng đã vì cần việc đi gấp phải mượn. Khi đi về, nhớ đổ xăng và lau chùi sạch sẽ.
4/8: Không bao giờ đoán ý người chủ của sẵn sàng cho mình mượn đồ, rồi tự ý lấy mà không hỏi chủ của trước!
5/8: Mượn đồ của ai, nếu khi trả không còn nguyên vẹn như lúc mượn, thì phải nói với chủ của và xin bồi thường.
BÀI 9: GIAO TẾ LỊCH SỰ
Lời nói của anh em hằng phải thanh nhã, mặn mà, ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với mỗi một người. (Cl 4, 6)
1/9: Hai người đang nói chuyện với nhau, mà ta muốn gặp một trong hai người đó, ta phải xin phép người kia.
2/9: Người trên phải ân cần lắng nghe khi người dưới muốn nói chuyện với mình, đừng tỏ ra hống hách, bất cần.
3/9: Nên gọi chính tên của mỗi người, chớ tự đặt biệt danh để gọi họ. Ví dụ: H. khùng, T.què…
4/9: Khi muốn thưa chuyện với người trên thì ta nên gọi chức vụ của họ. Ví dụ: Thưa ông chủ tịch, thưa bác sĩ…
5/9: Nói với người trên bao giờ cũng tỏ ra tôn kính, như: Dạ, vâng, thưa không, thưa biết; chứ đừng nói trống: Hả, ừ, biết, không, muốn…hoặc chỉ lắc, gật đầu!
6/9: Khi ngồi trên xe buýt, … ta thấy có người già, trẻ em, phụ nữ mang thai, người tàn tật, ta nên nhường chỗ ngay.
7/9: Khi thấy có người già, trẻ em cần qua đường, ta sẵn sàng giúp họ.
8/9: Ta phải ngả mũ (nón) khi chào hỏi ai, hoặc gặp quan tài ngang qua!
9/9: Không nên đùa giỡn, chọc ghẹo người khác mang tính chất hạ phẩm giá của họ. Ví dụ: “Chị quá khổ người thế này, sống chi cho chật đất, chật Thiên đàng.”
10/9: Không ưa ai, ta cũng không được gọi họ là thằng, nó, con mẹ đó… trái lại, luôn lịch sự dựa trên địa vị, tuổi tác người đó mà nói. Cụ thể: ông cụ X, chị Z, bà A, …
Cũng không đối thoại với ai bằng cách xưng hô mày tao, mà nên thân mật gọi nhau bằng anh, chị, em hoặc gọi tên nhau.
11/9: Muốn bắt tay ai, người dưới phải đợi người trên đưa tay ra trước.
12/9: Khi nói chuyện với ai, ta phải nhìn vào mặt ngườiđang nói.
13/9: Phải tôn trọng nhau trước tập thể, dù ta quá quen thân với họ, nếu người ấy có chức vụ, ta phải tỏ ra tôn kính, chứ đừng tỏ cử chỉ suồng sã, kiểu cá mè một lứa.
BÀI 10: TANG CHẾ
Vui với người vui, khóc với người khóc! (Rm 12, 15)
1/10: Khi đến thăm người quá cố, ta không được đùa giỡn, nên nói nhỏ nhẹ vừa nghe.
2/10: Không lấy lý do canh xác người quá cố để chơi cờ bạc hay ăn nhậu dức lác.
3/10: Khi quan tài còn ở nhà, không kèn trống, hát xướng mãi tới khuya làm hàng xóm mất ngủ.
4/10: Không nên gào khóc lớn tiếng, kể lể dài dòng, có khi người nghe hiểu lầm ta mượn tiếng khóc để chửi xéo họ.
5/10: Không nên đề bảng “miễn phúng điếu”, vì đức ái là phải biết nhận và biết cho (x Ga 13, 6t).
6/10: Tạo điều kiện cho người quá cố có quà tặng. Cụ thể thay vì phúng vòng hoa, ta tặng món quà để nhà hiếu có điều kiện chia sẻ. Thí dụ: gởi cha Sở thưởng cho em nào học giáo lý giỏi, hoặc chia cho người túng thiếu. Nếu ta bắt chước thói đời chỉ phúng vòng hoa, thì không tạo điều kiện cho người quá cố trả lời khi tới cửa Trời bị Chúa hỏi: “Sống trên đời, ngươi có chia sẻ không?” (x Mt 25, 31-46)
Phúng vòng hoa sinh nhiều bất lợi:
- Mua vất vả tốn kém, làm phiền nhà hiếu không có người bê bông, không có nơi đặt.
- Người nghèo nhìn thấy xót xa phận mình.
- Thua lương dân, khi đưa quan tài ra nghĩa trang, họ còn rải quà dọc đường cho ma đói ăn, còn ta không biết chia cho người đói ăn!
7/10: Khi đến nhà hiếu thăm viếng người quá cố và cầu nguyện cho họ, ta phải bỏ hẳn kiểu nói của nhiều người không có đức tin. Thí dụ: Không được nói: “Nhà héo”, mà phải nói “Nhà hiếu”; không nói “Đây là một mất mát vô cùng to lớn, không gì bù đắp lại được!” Nếu nói như thế là nghịch đức tin Ki-tô giáo, vì giáo lý Công giáo dạy: Chết là “sinh thì”, nghĩa là thời gian sống, nhất là được Chúa đưa về Thiên đàng sống hạnh phúc với Chúa và các thánh. Biết đâu lúc đó Chúa đang cho các Thiên thần đón rước linh hồn người quá cố về Trời, thì Ngài lại nghe người ta đang rên: “Mất mát to lớn”. Chắc chắn Chúa sẽ bảo các Thiên thần ngưng đưa linh hồn ấy về Trời, bởi vì Chúa đã nói: “Ai tin làm sao, thì họ sẽ được như vậy” (Mt 9, 29).
Vậy ta hãy cầu nguyện như Hội Thánh đã dạy trong nghi thức thăm viếng người quá cố: “Lạy Chúa, chính kẻ ra đi hôm nay lại là người quy tụ chúng con lại, chúng con sống mỗi người mỗi ngả, vì công ăn việc làm bận bịu riêng tư, nay chúng con bỏ lại tất cả, mọi người đến đây cùng hợp với Cha, xin chia sớt nỗi nhớ nhung người đi trước kẻ đi sau tiến về Nhà Cha trên trời” (x Lời Cầu Kết Thúc Khi Thăm Viếng số d).
BÀI 11: ĐIỆN THOẠI
Ăn nói dịu dàng thì tăng thêm bạn hữu, phát biểu dễ thương thì tăng thêm lời thân ái! (Hc 6, 5)
1/11: Khi điện thoại reo, ta nhấc máy lên và nói: “A-lô, tôi là A xin nghe.”
2/11: Nếu ta gọi đi, ta hỏi: “Xin lỗi, đây có phải là nhà ông (bà) A không ạ? Xin cho tôi được gặp ông (bà) A… tôi là B ở Đồng Nai…”
3/11: Trong trường hợp nghe đầu dây bên kia bảo ta lầm số, thì ta xin lỗi và đọc lại số điện thoại ta đã gọi đi, để người nghe biết là ta gọi đúng hay lầm! Đợi trả lời, rồi nói: “Xin cám ơn.”
4/11: Khi nhấc điện thoại lên nghe, ta biết rõ người muốn nói chuyện với mình, thì chào người đó ngay.
5/11: Nếu người gọi đến không gặp đối tượng họ cần, thì ta xin họ để lại lời nhắn, hay số điện thoại.
6/11: Cuối câu chuyện nên kết thúc bằng: “Xin chào.”
7/11: Nếu ta nghe điện thoại mà bị mất điện đột xuất, thì ta nên gọi lại cho họ ngay sau khi có điện, xin lỗi họ, và nói rõ lý do.
8/11: Khi gọi điện thoại nói với người trên. Ta nên khiêm tốn nói, ví dụ: Thưa Đức cha (cha Sở…), con biết Đức Cha quá bận, con xin làm phiền thưa với Đức Cha một phút được không ạ? Bạn nên nhớ rằng cách tiếp xúc của bạn phải tỏa ra “hương thơm của Đức Ki-tô giữa những người được cứu độ và giữa kẻ bị hư đi” (2Cr 2,15).
BÀI 12: KHI NGƯỜI KHÁC GIÚP TA
Tô-by-a dạy con: Này con, con hãy lo trả công cân xứng cho người giúp con, và thêm một chút gì vào tiền công của họ.(Tb 12,1)
1/12: Khi ta nhờ ai làm việc gì, ta nên tạo điều kiện cho họ làm việc tốt. Cụ thể:
+ Bênh vực họ khi bị kẻ khác tấn công.
+ Đưa tiền trước cho họ, để họ có phương tiện làm việc.
+ Cần bồi dưỡng với lòng biết ơn người đã giúp mình.
+ Thỉnh thoảng nên ân cần thăm hỏi xem họ có gặp khó khăn gì khi làm công tác ta giao.
2/12: Khi ta là người được giao đi mua sắm, nên viết giấy liệt kê các món đồ đã mua, cùng giá tiền mua mỗi món cho chủ. Nếu chủ đưa dư tiền thì phải trả lại ngay.
3/12: Đã tín nhiệm nhờ ai mua đồ giúp ta, khi họ đã mua về, đừng than mua đắt hoặc chê đồ dổm! Nếu ta biết thực sự là mua đắt, vật mua không vừa ý ta, thì ta ráng im lặng, lần sau ta không nhờ người đó nữa!
BÀI 13: TRÁNH THÓI XẤU PHỔ THÔNG
Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa! (Mt 18, 7; 1Cr 10, 32)
1/13: Ðường đi đến hỏa ngục, mọc đầy hoa thơm xinh đẹp. Hãy nhớ rằng ma quỷ rất khôn khéo, xem ra nó không dụ ta làm điều xấu nhưng nó đánh lừa ta làm điều có lợi. Ví dụ: Quỷ không bảo bà Evà ăn trái cấm là chết, nhưng ăn là tốt lành giống Chúa (St 3). Cũng như nó không cám dỗ Ðức Giêsu làm gì hại đến danh Chúa, Trái lại nó bầy mưu chước để Ðức Giêsu tỏ ra Ngài được Chúa thương. (Mt 4). Do đó nhiều người bắt chước nhau nghĩ rằng: “Làm như thế mới “galăng” (galant), trong khi thực chất điều đó không làm đẹp lòng Chúa.
2/13: Nếu có thể, nên ăn uống ở nhà, vẫn vệ sinh và đỡ tốn kém hơn. Khi cần thiết phải ra quán ăn, ta hết sức nhanh gọn. Tuyệt đối tránh ngồi quán quá lâu, vì:
§ Phiền cho chủ quán.
§ Mất thời giờ, gây gương xấu cho người khác.
§ Nói nhiều, người nghe đánh giá thấp phẩm giá của ta.
3/13: Không hút thuốc, vì:
§ Tốn tiền vô ích.
§ Hại sức khỏe.
§ Phiền người chung quanh.
§ Làm gương xấu cho nhiều người.
§ Phải hãnh diện vì mình không biết hút thuốc, chớ đừng mặc cảm vì không biết giao tế.
Thánh Phao-lô dạy: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích; tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều xây dựng. Đừng để sự gì vô ích lạm phép trên thân thể tôi!” (1Cr 6, 12)
4/13: Không uống rượu quá chén đến say xỉn, vì:
§ Hại sức khỏe, sinh bệnh tật.
§ Làm mất nhân phẩm, mất uy tín
§ Tốn tiền vô lý.
§ Gây phiền đau cho nhiều người, nhất là những người trong gia đình.
Tác giả sách Cách ngôn dạy: “Dành cho ai những “thôi rồi”? Dành cho những “hỡi ôi”? Dành cho ai những gây gổ? Dành cho ai những lời than vãn? Dành cho ai những vết thương chẳng lý do? Dành cho ai những con mắt đỏ ngầu?
Đó là những kẻ nán lại bên bầu rượu, những kẻ đã nếm đủ thứ rượu ngon! Đừng để mắt ngó rượu, nó đỏ làm sao, nó óng ánh thế nào trong chén, rồi nó ực xuống cổ! Nhưng cuối cùng nó cắn như rắn lục, nọc độc hổ mang! Mắt con sẽ thấy những điều lạ lùng, và miệng con sẽ nói ba hoa bậy bạ” (Cn 23, 29-33- Bản dịch NTT).
Chính vì vậy mà thánh Phao-lô dạy: “Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân, nhưng hãy làm sao cho được no đầy Thần Khí.” (Ep 5, 18).
5/13: Không cờ bạc dưới bất cứ hình thức nào, dù không ăn tiền, kể cả cá độ, số đề, vì:
§ Mất thời giờ, không tôn vinh Chúa.
§ Gây gương xấu.
§ Làm cho nhiều người khổ.
§ Hạ phẩm giá, có khi mất hết tài sản, mất cả uy tín.
Tệ nhất là cờ bạc đi nghịch lại đức ái Ki-tô giáo. Đức ái là làm lợi cho người khác đến nỗi trở thành bản năng của ta, không chia, không cho thì không chịu nổi. Trái lại, cờ bạc tập quen tính vơ vét của người! Vơ vét quen trở thành bản tính tham lam của cải là cội rễ mọi tội ác! (x 1Tm 6,10) Và như thế sống nghịch với Lời Chúa Giê-su dạy: “Cho thì có phúc hơn là lấy!” (Cv 20, 35).
6/13: Đừng lười biếng! Vì nhàn cư vi bất thiện (nhàn rỗi sinh tội). Kinh Thánh kết án: “Tên lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền!” (Hc 22, 2)
BÀI 14: KHIÊM TỐN VÀ UY TÍN
Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói:“Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10).
1/14: Hãy ý thức đời người có ba thời:
§ Thời học hỏi: từ lúc mới sinh đến 30 tuổi.
§ Thời làm việc: từ 30 đến 60 tuổi. Khôn ngoan như Chúa Giê-su cũng chỉ bắt đầu sứ mệnh Chúa Cha trao vào tuổi 30 (x Lc 3, 23).
§ Thời đấm ngực để làm thầy: từ 60 đến chết. Vì thế Giáo luật đề nghị giáo sĩ nên xin hưu vào tuổi 75 (Giáo Luật số 538, triệt 3).
2/14: Biết chia giờ cho những việc phải làm trong ngày. Đừng chỉ làm một việc mình thích nhất, cũng đừng lãng phí thời giờ cho việc phụ thuộc.
Thánh Phao-lô trách: “Nhiều kẻ giữ đạo hình thức, vì nó loại bỏ điều chính” (2Tm 3, 5). Thánh Augustin nói: “Bạn chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi!”
3/14: Đừng hứa hẹn rồi bỏ quên! Nếu lỡ quên hay không giữ đúng lời hứa thì phải xin lỗi và nói lý do, dù mình là người trên.
4/14: Khi giúp ai điều gì, mà họ lại oán mình hoặc làm khổ mình, thì ta không hối hận, bởi vì ta đã làm vì mến Chúa, như Lời Chúa đã dạy: “Đã yêu thì yêu đến cùng!” (Ga 13, 1) Vả lại Chúa sẽ thưởng công cho ta nhiều hay ít tùy vào việc ta làm gặp khổ ít hay nhiều.
5/14: Điều tốt trong nhân bản, phải hội đủ ba điều kiện:
- Bản chất việc đó là tốt.
- Thuộc bổn phận của ta.
- Hoàn cảnh phải làm việc đó trước.
Điều tốt trong Đức tin Ki-tô giáo:
- Làm điều tốt thôi chưa đủ.
- Lựa làm điều tốt hơn, cũng chưa đạt.
- Phải tìm cách làm điều tốt nhất (x Rm 12, 2). Điều tốt nhất ta làm cần phải kết hợp với Chúa Giê-su mới có giá trị vĩnh cửu (x Cv 5, 39), để có lợi cho cả hồn lẫn xác được đời này mà không mất đời sau.
Đức Giê-su dạy bà Matta khi bà đang tất bật dọn bữa thiết đãi Ngài: “Matta, Matta, con lo lắng xôn xao nhiều chuyện quá, cần thì ít thôi, một điều đã đủ. Hãy bắt chước Maria em con ngồi nghe Lời Chúa là tốt nhất” (x Lc 10, 38-42).
6/14: Hạnh phúc thật có 5 điểm:
- Bản chất tốt.
- Rất hoàn hảo.
- Bền muôn đời
- Ai cũng thích
- Có thể đạt
BÀI 15: Ở TRƯỜNG LỚP
Anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch! (1Tm 4, 12)
1/15: Không chạy nhảy trên bàn ghế, hoặc vẽ bậy lên bảng, tường, bàn học.
2/15: Trong lớp học, nên ngồi đứng ngay ngắn, tập trung nghe giảng. Khi cần hỏi gì, giơ tay đợi thầy cô cho phép.
3/15: Không xả rác trong lớp, nếu thấy có rác nên tự ý nhặt bỏ vào nơi quy định.
BÀI 16: TRONG GIA ĐÌNH
Con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ Đức Tin, và còn tệ hơn người không có Đức Tin! (1Tm 5,4.8)
1/16: Chăm sóc người thân không phải chỉ lo cho đủ có cơm ăn áo mặc, nhưng còn phải biết giúp nhau hiểu và sống Lời Chúa. Chúa phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh,nhưng bởi mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy lo đôn đốc lòng mến trong các việc lành” (Dt 10, 24).
2/16: Phải biết tôn kính ông bà, cha mẹ, anh chị. Sách Cách ngôn chương 30, câu 17 dạy: “Qụa sẽ mổ, diều hâu sẽ móc mắt kẻ nào lườm nguýt và khinh dể cha mẹ mình!”
3/16: Không bao giờ chỉ chăm chú tặng quà người ngoài, còn ông bà, cha mẹ thì lãng quên, hoặc nghĩ ông bà già rồi không cần gì nữa! Bởi vì khi ông bà nhìn thấy con cháu chỉ biếu quà người khác, thì các ngài rất tủi!
4/16: Đi đâu, làm gì ở ngoài về, phải thưa với người trên.
5/16: Là anh chị phải làm gương sáng cho các em, khi chia quyền lợi nên nhường phần hơn cho em. Trừ khi mình quá túng thiếu thì cũng chỉ lấy phần bằng em mà thôi.
6/16: Khi có người nói lỗi về ai trong gia đình của mình, ta phải biết cám ơn họ, và hứa sẽ sửa dạy. Hết sức tránh bênh vực người bị cáo, và cũng không kết án ngay, khi chưa điều tra cẩn thận.
7/16: Ta là người cấp dưới, muốn dùng gì không được tự ý đoán người trên đã bằng lòng cho. Trái lại, phải xin phép Bề trên trước đã rồi mới được dùng.
8/16: Không cho tiền trẻ con tự ý mua sắm khi chúng chưa làm ra tiền. Chúng cần gì thì phải thưa với người lớn. Tốt nhất người lớn hãy mua đồ cần dùng cho các em. Như môn đệ Giuđa chỉ vì giữ túi tiền của nhóm Mười Hai mà khiến ông trở thành tên phản thầy vì muốn thu thêm 30 đồng (x Lc 2,48). Ấy là Giuđa có nhiệm vụ quản lý mà tiền còn làm cho ông mất lương tri. Huống chi trẻ em không có nhiệm vụ gì để giữ tiền, vậy mà trao tiền cho chúng tự do chi dùng, thì sẽ tồi tệ hơn Giuđa.
9/16: Đừng tập cho trẻ đổ lỗi cho người khác. Rất tiếc, nhiều người mẹ thấy con ngã từ trên ghế cao, nó khóc bù lu bù loa, mẹ chạy lại ôm lấy con và dỗ: “Mẹ đánh cái ghế này cho con rồi, này ghế ai bảo mày làm ngã con tao!” Té ra mẹ đã tập cho con cách đổ lỗi cho người khác, đáng lẽ ra mẹ phải nói: “Con nín đi, lỗi tại con không nghe lời mẹ, mẹ đã bảo đừng leo lên ghế mà con không nghe!”
10/16: Đừng nói dối trẻ. Vợ Tăng Tử đi chợ, con đòi đi theo, thì bà dỗ con: “Con ở nhà mẹ đi về, mẹ sẽ giết heo cho con ăn”.
Khi bà từ chợ về, ông Tăng Tử lôi ngay con heo trong chuồng giết làm thịt cho con ăn. Bà vợ trách chồng: “Em nói đùa với con mà”. Nhưng Tăng Tử nói: “Đùa thế nào được, em không thể nói dối con để tập cho nó tính nói dối ngay từ thuở bé!” Bởi thế, Đức Giêsu nói: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là do ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).
11/16: Đừng bao giờ kể chuyện xấu cho trẻ, nhất là không bao giờ vợ chồng lộ ra sự bất hòa trước mặt con cái. Muốn con nên tốt, hãy năng nói những lời tốt đẹp, nhất là dạy con Lời Chúa và kể truyện các thánh cho con nghe.
Thánh Phaolô khen đức tin Giám mục Timôthê rất trưởng thành là nhờ Đức Tin của cụ Lô-i, bà của Timôthê và bà Êunikê,thân mẫu của ông (x 1Tm 1, 5).
Cha mẹ luôn luôn sống làm gương cho con. Tác giả sách Huấn ca nói: “Người cha (mẹ) dù có tắt thở, họ chưa chết, bởi vì họ để lại những đứa con giống hệt họ” (Hc 30, 4).
12/16: Đừng tạo cho trẻ nếp sống quá đầy đủ về vật chất. Chỉ tạo cho trẻ điều kiện để chúng làm việc tốt, chứ đừng để chúng cảm thấy dư thừa của cải, bởi vì như thế trẻ không biết cảm thông với người thiếu thốn, cũng không biết quý trọng của cải các em không vất vả mà có. Khi các em cảm thấy không đủ theo ý thích của nó, các em dễ dàng sinh tật trộm cắp.
Vậy hãy cho con cần câu chứ đừng cho nó con cá.
13/16: Không hướng tâm hồn trẻ về bạo lực. Cụ thể:
- Không để trẻ dùng đồ chơi chiến tranh, như gươm, súng...
- Không cho trẻ xem phim, đọc truyện bạo lực.
- Không cho trẻ chơi đá gà.
Đức Giêsu nói: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26, 52).
14/16: Không cho trẻ xem phim hay đọc truyện kích dục, truyện tình cảm ướt át. Bởi vì những truyện tình cảm ướt át, người viết ra nhắm thương mại, nên cường điệu yêu thương say đắm, nhưng khi nhìn lại thực tế đời họ thì không được như vậy, thế là họ sinh ra mộng mị, suy nghĩ lãng mạn, bất mãn với điều đang có vì thấy phũ phàng! Hậu quả có khi là họ tìm mọi mưu kế, mọi thủ đoạn hạ đối phương rất nghiệt ngã!
15/16: Người lớn trong gia đình, nhất là ông bà, cha mẹ, anh chị không bao giờ gây cảnh bất hòa trước mặt người dưới, cũng không bao giờ kể tật xấu của người trên cho người dưới nghe.
16/16: Nếu cho trẻ dùng vi tính phải cài đặt hệ thống kiểm soát.
17/16: Vâng lời Bề trên
Sống trong gia đình hay trong một cộng đoàn, khi Bề trên đã ra chỉ thị cho người dưới phải làm, hoặc không được làm điều gì, nếu lệnh đó, người dưới chưa hài lòng, thì phải khiêm tốn thưa lại với Bề trên. Ðợi Bề trên suy nghĩ và quyết định lại, lúc đó người dưới phải lấy tinh thần bác ái mà thựchành.
Thánh Augustin nói: “Hiệp nhất trong những điều cần thiết, tự do trong những điều hồ nghi, và bác ái trong mọi trường hợp”.
18/16 : Không nên cho trẻ đi dự tiệc chung với người lớn, vì có khi làm cho chủ tiệc không vừa ý, thiếu chỗ chủ tiệc đã dự trù; nhất là trẻ con không biết giữ tư cách ăn uống như người lớn đồng bàn, làm cho người lớn khó chịu,và tệ nhất là chúng dễ nhờn mặt, nó tưởng phải được tôn trọng như người lớn, nhiều khi làm cho người có trách nhiệm giáo dục khó dạy bảo.
19/16 : Cha mẹ không nên cho con trẻ nhìn thấy tài sản giàu có của gia đình làm chúng ỷ lại, sinh lười biếng, và dùng tiền của rất phung phí.
20/16 : Cha mẹ phải quan tâm đến việc học của con cái, đừng để chúng lơ là, học thua kém những đứa trẻ cùng trang lứa, bởi vì khi nó đã bị hụt kiến thức văn hóa, không theo kịp bạn, ở lớp thì bị thầy cô la rầy, với bạn bè thì lại mặc cảm, nó không muốn đến lớp nữa, về nhà lại bị cha mẹ khiển trách, nhất là mỗi khi nghe nhà trường báo cáo về việc học của nó, đứa trẻ ở trong tình trạng như vậy sẽ sinh bất mãn, dễ nhập bọn băng đảng…
BÀI 17: TRƯỞNG THÀNH
Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. (1Cr 13, 11).
1/17: Hãy sống tốt đẹp trong giây phút hiện tại. Vì quá khứ chỉ còn là kinh nghiệm, tương lai ngoài vòng tay ta, chỉ có hiện tại mang theo mình một trách nhiệm.
Khi ta chọn điều tốt để làm, phải nhớ rằng có ba cấp độ tốt: Tốt thôi, tốt hơn, tốt nhất (x Rm 12, 2). Do đó trong cùng một điều kiện, một hoàn cảnh, một khả năng, phải tìm cách làm việc đạt hiệu quả tốt nhất để nên giống Cha trên trời (x Mt 5, 48).
Vậy từng giây hiện tại đẹp, làm nên phút hiện tại đẹp; từng phút hiện tại đẹp, làm nên giờ hiện tại đẹp; từng giờ hiện tại đẹp, làm nên một ngày hiện tại đẹp; từng ngày hiện tại đẹp, đan kết thành một cuộc đời đẹp.
2/17: Hãy đón nhận chân lý bất cứ từ phía nào tới. Dù đối phương là kẻ thù hay con nít, hãy học nơi họ điều tốt. Vì mọi chân lý phát xuất từ Thiên Chúa. Do đó, đón nhận chân lý là đón nhận Thiên Chúa; khước từ chân lý là loại trừ Thiên Chúa! (x Mt 23, 8-10; Lc 10,16). Thậm chí ta phải noi gương quỷ hai điều : Nó rất mau lẹ và rất thuộc Lời Chúa. Thực vậy, khi nó cám dỗ Adam-Eva, cũng như cám dỗ Đức Giê-su, nó dùng Lời Chúa để tấn công (x St 3,1-7 ; Mt 4,1-11).
3/17: Đừng đồng hóa điều vẫn có với điều hoàn hảo. Sự hoàn hảo chỉ có được vào ngày cánh chung. (x Mt 9, 16;1Ga 3, 2).
Thí dụ: một vật cổ không hợp với nhu cầu sinh hoạt của tập thể trong hiện tại, thì phải dẹp bỏ điều vẫn có, đừng bám lấy tín điều “phi cổ bất thành kim”, mà để điều cổ ấy có phương hại, ngăn trở cho sinh hoạt tập thể. Do đó, ta nên coi chừng khi quá tôn kính những tập tục “truyền thống”. Chúa Giê-su phản đối kẻ giữ đạo trên môi mép, vì chúng cố thủ “truyền thống”, đó là cớ người ta giết Ngài! (x Mc 7, 6t)
4/17: Không nên nói: “Nhiệt tình cộng với ngu dốt là phá hoại!” mà phải nói: “Nhiệt tình mà thiếu Thánh Thần mới là kẻ phá hoại.”
Bởi vì thế nào là ngu dốt? Thế nào là sáng suốt? Ông Phao-lô khi chưa có Thánh Thần, ông cho những người theo đạo Công giáo là ngu dốt, còn ông mới là người khôn ngoan sáng suốt và rất nhiệt tình thờ Chúa theo luật Mô-sê dạy. Do đó ông hăng hái ra tay triệt hạ những người theo đạo Công giáo ở Đa-ma! Nhưng sau khi ông được Chúa cho khỏi “mù”, vì được Chúa Thánh Thần chiếm đoạt, ông đã trở nên Tông Đồ nhiệt thành nhất của Chúa hơn các Tông Đồ thượng đẳng (x Cv 9; 2Cr 11, 5).
5/17: Hãy nhiệt tình trong mọi việc làm, nhưng không bắt buộc người khác phải nhiệt tình như mình, vì như thế sẽ trở nên kiêu hãnh và là kẻ khó tính với người khác.
6/17: Không phải mọi hiệp nhất đều đưa đến sự sống. Nhưng biết nhờ Thánh Thần chia rẽ người khác mới đem lại sự sống. Cụ thể thánh Phao-lô được Thánh Thần soi sáng, ông nói về sự sống lại để chia rẽ Biệt phái và Sa-đốc, nhờ đó ông thoát chết! (x Cv 23, 6-10).
Vậy chỉ nhờ Chúa Thánh Thần hiệp nhất mọi người trong Chúa Giê-su Phục Sinh mới đem lại sự sống thật (x Ga 17,3.21). Bởi vậy, trước khi ta rước Lễ, ta nghe vị chủ tế cầu nguyện cho cộng đoàn : “Xin cho chúng con được hiệp nhất theo thánh ý Chúa”. Vì càng nhiều điều đúng mà thiếu hiệp nhất, sự ác càng gia tăng. Thí dụ: Vợ muốn bán nhà ở thành phố về quê sinh sống vì như thế thì tốt hơn trong việc giáo dục con cái; nhưng chồng thì lại chủ trương ở lại thành phố tốt hơn, vì con cái đi học tiện lợi. Nếu hai vợ chồng, ai cũng quyết định làm theo điều tốt mỗi người đã xác định, thì gia đình tan rã!
7/17: Nên bình tĩnh và sáng suốt nghe góp ý
§ Ai khen ta mà khen đúng, ấy là bạn ta.
§ Kẻ nịnh hót tâng bốc ta, nó là thù ta.
§ Người chê ta mà chê đúng, đấy là thầy ta. (x Mt 23)
Bởi vì yêu hoa không có nghĩa là yêu cả con sâu nằm trong bông hoa, mà phải giết con sâu đó, dù có phải làm rụng phấn hoa.
8/17: Khi ta bị đàm tiếu, ta không nên cải chính trước công luận. Vì như thế vô tình ta đã làm lan rộng chuyện người khác đã nói xấu ta mà thôi! Có khi người nghe lại nói: “Không có lửa, sao có khói!”
9/17: Nói sự thật một nửa là cách nói láo độc hại nhất! Ví dụ: “Vâng lời trọng hơn của lễ!” Không lẽ ta phải vâng lời cả điều sai trái sao?
Vì thế thánh Phêro nói: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời" (Cv 4,19) do đó phải nói trọn sự thật rằng: “Vâng Lời Chúa (Chân Lý) thì trọng hơn của lễ.” (x 1Sm 15)
Hay không được nói: “Chúa yêu thương kẻ có tội”. Nếu thế thì ta cứ phạm tội? Do đó phải nói đầy đủ Lời Chúa: “Chúa yêu thương kẻ có tội biết sám hối xin Chúa thương xót” (x Lc 5, 32).
10/17: Bạn đừng lo người khác không biết đến tài đức của bạn. Một hãy lo cho mình có tài có đức thật. Chúa phán: “Không ai thắp đèn rồi lấy thùng úp lại nhưng đặt trên giá cao để soi sáng mọi người trong nhà” (x Mt 5, 15).
Người đi không cầu có bóng mà bóng vẫn theo, người hô không cần tiếng vọng, mà tiếng vẫn dội. Kinh Thánh nói: Cả đến tạo vật nó còn biết tôn vinh Thiên Chúa qua vẻ đẹp và kỳ công Chúa cho nó:“Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv19/18, 4-5).
Vậy: “Hãy để kẻ khác khen ngợi con, chớ không phải miệng con, một người xa lạ chớ không phải môi con” (Cn 27, 2).
11/17: Ở đâu có tình yêu, ở đấy có quà tặng! (x Ga 3, 16). Nên đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng bằng việc làm thực sự! (x 1 Ga 3, 18)
12/17: Muốn làm lớn phải kết hợp với Chúa Giê-su phục vụ đồng loại. Do đó Chúa dạy các môn đệ: “Chúng con muốn làm lớn, trước nhất phải uống chén của Thầy” (x Mt 20, 23). Uống chén của Thầy Giê-su chính là hiệp thông Thánh Thể (x 1Cr 11, 25-26).
13/17: Chỉ dùng tiền của vào bốn mục đích:
1- Làm phát triển Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh (x GLHT số 2041-2043). Đây là điều răn thứ 5, điều răn mới trong 5 điều răn của Hội Thánh.
2- Nuôi sống bản thân (x St 2, 16).
3- Tạo ra phương tiện để phục vụ (x Lc 19, 11t).
4- Chia sẻ cho người không có khả năng tự kiếm sống: trẻ con, người già, người tàn tật… (x Mt 25, 31-46).
14/17: Muốn có đối thoại, phải dựa trên nguyên tắc:
1. Hai bên đều có cùng một trình độ tri thức.
2. Hai bên đều dựa trên công bằng và bác ái.
3. Hai bên cùng chịu trách nhiệm khi đưa đến một quyết định nào.
4. Hai bên đều đưa ra một đường lối khả thi và thực tiễn.
15/17: Chỉ nói đúng thôi, thì chưa đạt, mà phải nói khéo nữa. Thánh Phao-lô dạy: “Lời nói hằng phải thanh nhã, mặn mà, ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với mỗi một người.” (Cl 4, 6) Vì đúng mà thiếu khéo là đổ vỡ, muốn khéo ta hãy cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
16/17: Không thể nói: “Đạo nào cũng dạy điều tốt”. Vì thế nào là tốt? Thế nào là xấu? Khi A-dam, E-và lấy ý mình hơn ý Chúa, họ cho là tốt! Thế là sự dữ bắt đầu xuất hiện trên thế gian! (x St 3).
Vậy chỉ khi nào ta thực hành ý Chúa, thì đó mới là tốt. Bất cứ điều gì nghịch ý Chúa, dù cha mẹ cho đó là tốt, Chúa vẫn không cho phép ta tuân theo (x Mt 10, 37; 23, 1-12).
17/17: “Tự do tôn giáo” có giá trị gì không? Điều này chỉ có giá trị cứu độ khi người ta được tự do tin theo Chúa trong Hội Thánh Ngài lập mà thôi.
Vì “dưới gầm trời này, ngoài danh Chúa Ki-tô, không có danh nào khác được ban tặng cho loài người hòng được ơn cứu độ!” (Cv 4, 10-12).
18/17: Tránh kiểu nói: “Không làm thì cũng đừng ăn!”. Nếu thế thì đối với người già yếu, con nít không làm thì cũng không được ăn sao?!
Vậy hãy nói như thánh Phao-lô dạy:“Ai không muốn làm thì cũng đừng ăn!” (1Tx 3, 10). Giá trị của con người lao động hệ tại ở chỗ “muốn làm”. Có muốn làm, công việc mới hoàn hảo, mới là yêu thương. Người muốn làm mà không làm được là người đáng thương, và ta phải kính trọng họ.
19/17: Không được nói: “Lao động là vinh quang!”. Nếu thế thì kiếp trâu, ngựa nó vinh quang hơn loài người!
Vậy phải nói: “Lao động đưa con người đến vinh quang”, vì lao động là phương thế cho con người đạt đến hạnh phúc! Nếu ta lấy phương tiện làm mục đích thì vô cùng độc ác. Ví dụ: Tiền là phương tiện rất cần cho nhu cầu sự sống của ta, nhưng nếu lấy tiền làm mục đích trên đời, thì người ta giết nhau như ngóe!
20/17: Đường thành công hơn lòng mong ước, hãy nhớ sống 7 điều sau đây:
1- Chọn ít điều và hợp thời cơ: Hãy chọn ít điều nhất theo khả năng, và đầu tư hết khả năng vào điều đó! Đồng thời, chộp ngay lấy thời cơ. Ông Héraclitus nói: “Không ai có thể tắm hai lần trong một khúc nước sông đang chảy!” Thánh Phao-lô dạy: “Ai lừng khừng sẽ làm mất ơn Chúa, trở nên kẻ cay đắng, gây xáo trộn và làm hư hỏng nhiều người” (Dt 12, 15).
2- Định hướng cho cuộc đời: “Hãy quên phía sau mà lao mình tới trước, nhắm đích chạy đến giải Thiên Chúa đã ban bố trong Đức Giê-su Ki-tô” (Pl 3, 14). Nếu không như thế thì “anh chạy khỏe lắm, nhưng lại trật đường mất rồi!” (thánh Augustin).
Nhiều người bỏ cuộc không phải vì thiếu tài năng, nhưng làm việc thiếu mục đích và thiếu ý chí. Hãy nhớ: “Thành công do quả quyết, thất bại bởi do dự”.
3- Nhớ bốn chữ “H”:
Muốn làm gì phải HỌC trước.
Học muốn thấu đáo phải HỎI.
Hỏi đến HIỂU cho rõ.
Hiểu rồi đem thực HÀNH.
Nói tắt: HỌC – HỎI – HIỂU – HÀNH.
* Muốn thành công trên thương trường, cần 4 chữ “P”:
- Product: Sản phẩm.
- Price: Giá cả.
- Promotion: Quảng cáo.
- Place: Thị trường.
Nghĩa là muốn có nhiều tiền phải biết làm ra sản phẩm (product), giá cả(price) phải hợp túi tiền nhiều người, biết quảng cáo (promotion) để nhiều người ham thích, tìm được thị trường (place) tiêu thụ tốt.
* Muốn thành công nên thánh, cần 4 chữ “L”:
- LÝ: Làm vì Chân Lý.
- LẸ: Mau Lẹ chộp ngay thời cơ.
- LIỀU: Liều cả mạng sống.
- LỲ: Gan Lỳ, can đảm, kiên nhẫn.
Sở dĩ ta cần có 4 chữ “L”, vì ta dựa vào hành động đức tin của bốn người khiêng người bất toại: Họ cần gặp Ðức Giê-su là gặp được Chân Lý; họ muốn khiêng người bất toại vào nhà cho Ðức Giê-su, nhưng không thể được, vì trong nhà chật ních người, thế là họ mau Lẹ leo ngay lên mái nhà, dù không phải là nhà của họ, mà họ dám Liều đục mái thượng để thả người bất toại xuống cho Đức Giê-su; khi đục một lỗ to trên sân thượng, chắc chắn bị nhiều người phản đối, thế nên họ phải gan Lỳ, kiên nhẫn, can đảm, mới thả người bất toại xuống cho Đức Giê-su để được chữa lành (x Mc 2, 1-12).
4- Kiên nhẫn để khắc phục gian khổ, ông Nguyễn Bá Học nói: “Đường đi khó, không phải vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông!”
5- Làm việc phải say mê. Triết gia Kierkegaard nói: “Mọi vấn đề ăn thua với cuộc sống hệ tại ở chỗ đam mê, suy nghĩ về vấn đề gì mà không đam mê, thì không suy nghĩ gì cả”. Làm việc gì mà không đam mê, thì chỉ làm như con dã tràng se cát.
6- Làm việc vì yêu Chúa. Ta phải kết hợp với Đức Ki-tô, để việc ta làm trở thành việc của Thiên Chúa có giá trị vĩnh cửu, cứu độ ta (x Cv 5, 39); trái lại, làm điều tốt mà không nhờ Giê-su, với Giê-su, trong Giê-su (x Rm 11, 36), thì đó là nhân bản, là việc của loài người, trước sau sẽ tan biến (x Cv 5, 38).
7- Làm việc phải bền chí. Chúa Giê-su dạy: “Ai bền đỗ đến cùng, người đó mới được cứu độ” (Mt 24,13). Ca dao tục ngữ Việt Nam dạy:
§ Có chí thì nên.
§ Có công mài sắt có ngày nên kim.
§ Nước chảy đá mòn.
21/17: Đừng để thời giờ qua đi mà không sinh ích. Hãy sống hữu ích ngay trong thời gian mình có, tùy hoàn cảnh đang sống, ta hãy biết chọn việc: không chỉ tốt thôi, mà phải tốt hơn, đặc biệt là tốt nhất! (x Rm 12, 2)
22/17: Ý THỨC VỀ GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG.
Thánh Công Đồng Va-ti-ca-nô II trong Hiến Chế Hội Thánh Trong Thế Giới Hôm Nay số 35 dạy: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người, nên quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi sự vật và xã hội, mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc, con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình (*). Nếu được hiểu cho đúng thì, sự tăng triển này còn đáng gía hơn mọi của cải thu tích được. Giá trị của con người hệ tại ở “CÁI MÌNH LÀ” hơn là ở “CÁI MÌNH CÓ”.
Vậy làm việc không nhất thiết phải đạt thành công, nhưng đã trở nên nghĩa người hơn. Chính Đức Giê-su suốt đời làm việc không ngơi nghỉ giống Cha trên trời (x Ga 5, 17), thế mà cuối đời xem ra thất bại, bị mọi người khai trừ! Nhưng chính lúc ấy, Tổng trấn ngồi xử án, lại chỉ riêng vào Đức Giê-su đang đứng trước một rừng người, và ông lớn tiếng tuyên bố: “Này là Người” (x Ga 19, 5).
Kinh thánh kết án kẻ lười: “Kẻ lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền” ( Hc 22,2).
Ai không chu toàn bổn phận mình, nó là anh em với quân phá hoại (x Cn 18,9)
(*) Khi làm việc con người được THOÁT RA: tức là thoát ra khỏi kiếp loài vật, vì con vật ăn sẵn những gì Thiên Chúa hoặc con người tạo nên cho nó: như con sâu ăn lá cây, con gà ăn giun, con heo ăn cám… Trái lại, con người dùng thực phẩm do tay mình làm ra.
Khi làm việc con người VƯỢT KHỎI CHÍNH MÌNH, tức là nhờ làm việc, con người có thêm của cải để chia sẻ. Chính nhờ biết chia đi, mà con người được biểu lộ giống Chúa, vì Thiên Chúa làm mọi sự chỉ để ban tặng cho loài người.
23/17: CÓ 9 CÁCH THU PHỤC NGƯỜI KHÁC
1- Phải kết hợp với Chúa Giêsu. Ông Berson nói: “Các thánh nhân thu phục được nhiều người không phải vì họ nói hay, nhưng vì chính sự hiện diện của họ toát ra sự thánh thiện”.
Thánh Phao-lô nói: “Anh em là hương thơm của Đức Ki-tô dâng kính Thiên Chúa, tỏa ra giữa những người được cứu độ, cũng như những kẻ bị hư mất!” (2Cr 2, 15)
2- Làm vì yêu. Thánh Gioan Maria Vianey nói: “Thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!”
3- Sống quảng đại. Phải tỏ ra biết ơn người giúp mình, như lời ông Tôbya dạy con: “Con hãy trả lương cân xứng cho người đã giúp con, và thêm chút gì vào tiền công của họ” (Tb 12, 1).
4- Phục vụ người ta trước. Chúa Giê-su dạy:“Muốn người ta làm điều gì cho mình, thì chính mình hãy làm điều đó cho người ta trước!” (Mt 7, 12)
Vậy đừng bất mãn khi người ta không giúp mình, mà hãy buồn vì mình chưa giúp ai được việc gì.
5- Đưa lưng đỡ đạn. Thà chỉ mình chịu khổ cho mọi người hạnh phúc, còn hơn là để mọi người phải khổ! (x Ga 11, 50) Vua thánh Đa-vít nói: “Lời kẻ thóa mạ Ngài, này chính con hứng chịu!” (Tv 69/68, 10b)
6- Đoán ý muốn của người khác để phục vụ theo gương Mẹ Ma-ri-a (x Lc 1, 39t; Ga 2, 3).
7- Hãy khó với mình, nhưng quảng đại với Chúa và tha nhân (x 2Cr 6, 12-13).
8- Coi người khác hơn mình. Người phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại (x Ga 3, 30).
Thánh Phao-lô dạy: “Mỗi người đừng chỉ dán mắt vào quyền lợi riêng mình, nhưng còn vì quyền lợi của người khác nữa” (Pl 2, 4)
9- Phải sống như mọi người chung quanh ta, ngoại trừ tội lỗi!
24/17: SỐNG PHẢI CÓ LẬP TRƯỜNG, CÓ LÝ TƯỞNG ĐỂ LÃNH ĐẠO.
a- Có khi phải chấp nhận mất lòng người khác. Thánh Phao-lô nói: “Nếu tôi luôn làm hài lòng người đời, thì tôi không còn là nô lệ của Đức Ki-tô”(Gal 1,10).Người đời là người không muốn nghe Lời Chúa (x Cv 17, 32).
b- Không được nghe tin đồn nhảm! (x Xh 23, 1).
c- Không được hùa theo số đông mà làm điều sai trái! (x Xh 23, 2)
d- Không được nhận quà hối lộ, vì quà làm mù những người sáng mắt, và đảo điên lời lẽ những người công chính! (x Xh 23, 8)
25/17: MỪNG SINH NHẬT nào?
Thường thường người đời có thói quen tổ chức mừng sinh nhật (ngày được cha mẹ sinh ra) thật lớn. Nhưng theo đức tin Công Giáo, thì ngày đó có gì đáng mừng? Vì sao?
- Đó chỉ là ngày sinh ra bởi nòi giống A-đam, E-và tội lỗi.
- Trước khi ra đời, trong lòng mẹ, tôi đã là kẻ bất lương, như lời Thánh vịnh (51/50, 7) nói: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai”. (x St 25, 19-27; 38, 27-30)
Vậy hãy tổ chức mừng sinh nhật vào ngày được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Vì ngày đó ta được:
· Sinh ra theo dòng giống A-đam cuối cùng là Chúa Giê-su.
· Được Chúa tha hết tội và được sống bằng sự sống của Chúa.
26/17: Phải luôn luôn sống thành thật như Đức Giê-su dạy: “Có thi nói có, không nói không, thêm điều đặt chuyện là do ma quỷ mà ra!” (x Mt 5, 37)
27/17: Làm chủ miệng lưỡi là sống bác ái. Bởi vì:
a- Thiên Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói mà nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Ngài đánh thức tôi, Ngài thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Ngài giáo huấn (Is 50, 4).
b- Mọi kiểu cay chua, gắt gỏng, la lối, chửi rủa, nhất nhất phải đánh bạt nơi anh em với mọi ý thâm độc. Trái lại, với nhau anh em hãy ở nhân hậu, chạnh thương, biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô! (Ep 4, 31-32)
c- Cái lưỡi trong thân mình giống như bánh lái trong chiếc tầu, tuy bánh lái nhỏ bé, nhưng nó dẫn chiếc tầu đi đâu tùy ý người hoa tiêu. Muôn thú vật lành dữ người ta chế ngự được, trừ miệng lưỡi người ta không chế ngự được. Vậy miệng lưỡi ta không thể vừa để chúc tụng Chúa, vừa để nguyền rủa con người Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Ngài! (x Gc 3, 4-11)
d- Lười sinh láo! Chúa phán: “Ta xử với ngươi theo miệng ngươi nói” (x Lc 19, 20-22).
28/17: Đừng tự phụ, tự mãn.
a- Vì “ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã!”(1Cr 10, 12)
b- “Hãy run sợ mà gia công lo việc cứu rỗi chính mình!” (Pl 2, 12)
29/17: Sống khiêm nhường.
a- Khiêm nhường là người hạ mình sát đất, nên không còn khoảng cách nào mà phải sợ ngã.
b- Khiêm nhường là tự thú nhận sự yếu hèn của mình như thánh Phao-lô: “Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn, tôi lại không làm, còn sự dữ tôi ghét, tôi lại cứ làm!” (Rm 7, 18-19)
c- Khiêm nhường là nói lên sự lành được Chúa ban cho để phục vụ:+
+Mẹ Ma-ri-a nói: “Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả!” (Lc 1,48-49)
Bởi đó nếu ta không nói sự thật về mình đúng như điều Thiên Chúa ban cho, thìta là kẻ nói dối, kẻ vô ơn Chúa! nếu ta nói quá sự thật mình có, ta là kẻ xạo, kiêu ngạo! Thánh Phaolô dạy:“Ai muốn vênh vang thì hãy vênh vang trong Chúa” (2 Cr 10,17).
+ Cụ thể : “Thiết tưởng tôi chẳng thua gì những “Tông Đồ thượng đẳng” kia, tuyrằng tôi chỉ là không” (2Cr 11,5; 12,11).
30/17: Khi tiếp nối sứ mệnh của người khác, để thành công, ta phải:
1- Tỏ ra biết ơn người tiền nhiệm, chớ khi nào làm mất uy tín người đi trước.
2- Khiêm tốn lắng nghe mọi người, biết lựa chọn điều tốt người ta đề nghị, biết loại trừ điều xấu trong quá khứ còn tồn tại, nhưng phải cách khôn khéo và tế nhị.
3- Muốn thay đổi để thăng tiến, phải họp những người có trách nhiệm và đưa ra những điểm mới tích cực, có tính cách thuyết phục mọi người.
4- Khi ta đã quyết định làm điều gì, phải tự tin nếu không có người cộng tác, chỉ mình ta độc diễn, vẫn thành công.
5- Khi ta làm việc gì, phải nhắm làm cho hoàn tất, đừng để việc ấy trở nên gánh nặng cho người sau.
31/17: Muốn sửa tật xấu người khác, trước đó ta nên khen những điểm tích cực của họ.
32/17: Đừng sợ cách chết dữ, hãy sợ cách sống dữ. Bởi vì nếu sống dữ, ắt chết dữ, dù cách chết lành; nếu sống lành, ắt chết lành, dù cách chết dữ! (Thánh Augustin).
33/17: Đến ở nhà ai, phải cảm thấy người ta cần mình, mà mình cũng phải cần người ta, đừng để người ta miễn cưỡng đón tiếp mình, là con người thiếu tự trọng.
34/17: Muốn tiến thân, đừng để mình thua kém người xung quanh, khi ta có cùng một điều kiện như họ. Thánh Phanxico nói: “Ông kia bà nọ nên thánh được, sao tôi lại không?”
35/17: Luôn sống trong hy vọng, là nghị lực giúp ta tiến thân. Thánh Phao-lô nói: “Ơn cứu độ đến với ta như một hy vọng, hy vọng mà thấy được, ai còn hy vọng nữa, nhưng nếu ta hy vọng điều ta không thấy, thì ta cứ kiên nhẫn đợi trông” (Rm 8, 24-25).
36/17: Phải có lòng tự trọng. Cụ thể:
- Không sống lệ thuộc vào người khác. Do đó, hãy bằng lòng với những gì đang có, không đòi hỏi người xung quanh. Tốt hơn nữa, là tìm cách giúp người chung quanh (x Lc 3, 10-14).
- Mau mắn xin lỗi nếu lỡ làm phiền ai (x Mt 26, 75).
- Biết nhường bước cho người khác. Thánh Phao-lô dạy: “Ai làm điều tốt cũng được, miễn là điều tốt có người làm là tôi lấy làm vui mừng” (x Pl 1, 15-18)
- Sống môi trường nào cũng phải là men, là muối, là ánh sáng cho nơi đó (x Mt 5, 13-16).
- Sống thể hiện đúng cương vị của mình: Bố ra bố, mẹ ra mẹ, thầy khác trò, Linh mục khác giáo dân (x Mt 16, 13).
37/17: Đừng dùng của cải một cách vô ý thức. Cụ thể: Những vật dụng của ta đừng qúa sang trọng làm cho người nghèo xung quanh cảm thấy tủi thân. Bởi vì phần lớn nỗi đau khổ của người nghèo gia tăng là họ thấy người giàu dùng tiền của phung phí, vô ý thức (x Lc 16, 19-21).
Nói tắt:
Tất cả những gì ta có chỉ là phương tiện cho ta phục vụ đạt hiệu quả cao, chớ khi nào tỏ ra vẻ sang giàu để khoe khoang với người xung quanh .
38/17: Bỏ thói thống trị kẻ dưới, loại trừ hành động vũ phu, đừng sống kiểu “cả vú lấp miệng em”.
Thống trị là áp đặt người khác làm nô lệ cho mình. Kiếp nô lệ là kẻ thù của Tin Mừng, Hội Thánh trong nhiều thế kỷ đầu dùng chân lý Tin Mừng để xóa kiếp nô lệ. Bởi vì nô lệ là con đẻ của “ba cô vợ ngoại hôn” trong nhân loại:
- Nô lệ là đem thân phục vụ chủ để trả món nợ không thể trả nổi.
- Nô lệ là kẻ thất trận bị bắt làm tù binh.
- Nô lệ là con cái của hai loại người trên.
Chúa Giê-su nói: “Anh em là con Thiên Chúa, con cái của sự tự do, không phải là con kẻ nô lệ” (x Ga 8, 34-36).
Có 2 thầy trò cùng sánh bước trên một con đường dài, song song với đường đó là một con sông: chốc chốc thầy lôi trò xuống sông dìm đến sặc nước, rồi lại tiếp tục lên đường. Sau một hồi, thầy hỏi trò: con đã nhận ra được bài học thầy dạy con chưa? Trò giơ chân đạp thầy qụy xuống và nói: đây là bài học con đã thuộc! Đúng là “tức nước vỡ bờ!”
Thánh Phaolô khuyên người có chức quyền biết cách cư xử với mọi người:“Ðừng nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha. Hãy coi các thanh niên như anh em. Các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch”(1Tm 5,1-2)
39/17: Loài người không ai được quyền độc tài, chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền đó mà thôi, bởi chỉ có Ngài là Tình Yêu (x 1Ga 4, 8). Chúa độc tài vì muốn ta phải tùng phục Ngài, để có chân lý, để có tình yêu, vì ngoài Chúa Giê-su không có ai được cứu độ (x Cv 4, 12).
Bởi đó, Chúa không cho phép ta thờ phượng bất cứ một thần tượng nào ngoài Ngài (x Điều răn I). Ngài có quyền ép người ta vào dự tiệc của Ngài (x Lc 14, 23).
Vậy Thiên Chúa độc tài để dẫn ta đến sự sống dồi dào (x Ga 10, 10).
40/17: Bỏ tính lẩm cẩm. Vì lẩm cẩm là người không biết phân biệt điều chính điều phụ, và làm gì cũng cho là quan trọng nhất. Kết quả không công việc nào đạt yêu cầu, bởi vì không ai đủ giờ để làm trọn mọi công việc. Do đó, người lẩm cẩm làm gì cũng chậm chạp, vì để giờ chi phối vào quá nhiều việc không cần thiết.
41/17: Đừng a dua. Là người sống đức tin và đức ái, không thể chấp nhận những thành ngữ dân gian thường nói:
- “Không có lửa sao có khói?”
- “Thế gian không ít thì nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai.”
Bởi vì trong thực tế:
- Nhiều khi có khói mà không có lửa. Cụ thể lúc ta xem ca sĩ đứng trên sân khấu hát, ta nhìn một làn khói bốc lên, hoặc khi ta nhìn cô dâu chú rể khai tiệc cưới, họ đổ rượu trên một chồng ly cũng thấy khói bốc lên, những làn khói ta thấy như thế thì không phải do lửa mà có.
- Nhiều khi một rừng người nhất trí, mà nhất trí điều họ không tưởng. Cụ thể vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, không ai tìm ra tội trạng nào của Đức Giê-su, nhưng ai cũng nói: Tên Giê-su là Beelzebul, tướng quỷ. Rõ ràng chiều Thứ Sáu Tuần Thánh cả loài người sai lầm, một mình Đức Giê-su nắm trọn chân lý. Bởi đó ngày Thứ Sáu Tuần Thánh chỉ một mình Đức Giê-su hô lớn tiếng: “Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Cũng chính vì vậy mà Đức Giê-su cảnh báo mọi người: “Coi chừng điều các ngươi nghe” (Lc 8,18).
42/17: Đòi biết mọi sự là ngu xuẩn nhất. Chúa cho A-đam, E-và biết hết mọi trái cây trong vườn Ngài đã dựng nên, nhưng họ lại ảo tưởng đòi phải biết cả cây Chúa cấm mới khôn bằng Thiên Chúa! Kết quả họ là kẻ ngu xuẩn nhất (x St 3).
Bởi vậy thánh Phao-lô nhắc nhở ta: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích, tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều xây dựng, đừng để sự gì vô ích lạm phép trên thân thể tôi!” (1Cr 6, 12)
Có ba loại người ngu đần:
- Ngu vì không biết gì cả.
- Ngu vì không biết đến nơi đến chốn.
- Ngu nhất là: biết quá điều phải biết. Như Adam, Eva đòi biết cả trái cây Chúa cấm (x St 3).
43/17: Để thắng tính ghét người. Ta phải nhớ rằng: “Người yếu mới lo diệt kẻ thù, còn đấng trượng phu thì thanh thản tâm hồn, chẳng có gì phải sợ” (x Kn 12, 14-18).
Khoa phân tâm học cho biết: Ghét tức là do sợ mà ra, vì thế ghét ai là sợ người đó: sợ người ta đoạt của cải mình, sợ người ta đoạt danh vọng mình, sợ người ta đoạt quyền lợi mình, sợ người ta đoạt người tình của mình. Chính vì vậy mà có bà đi đánh ghen, bởi vì bà sợ có kẻ giật chồng bà, hoặc bọn mafia thủ tiêu người như ngóe, vì sợ đối phương đưa nó ra ánh sáng.
Vậy muốn tránh ghét người thì đừng sợ ai cả, mà muốn không sợ ai thì cứ đường đường chính chính sống giữa thanh thiên bạch nhật, biết trên có ai, dưới có ai, bốn phương tám hướng có ai, và cố thực hiện trong đời sống của mình câu: “Thiên địa nhân hòa”. Tức là sống hòa hợp với ý Trời, hợp với lòng người để xác tín được như thánh Tông Đồ: “Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp cho ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8, 28).
Bởi vì ta gieo gì thì gặt nấy: ai ghét ta mà xô ta xuống thung lũng, ta vẫn nói: “tôi yêu”, chắc chắn ta nghe vọng lại: yêu..yêu..yêu....! Trái lại, ta tức giận ai mà hét lên: “tôi ghét”, chắc chắn tiếng ghét.. ghét..ghét....vọng lại!
Thánh Tôma Tiến sĩ nói: “Thà nghĩ tốt cho một người xấu, vẫn hơn nghĩ xấu cho một người tốt, vì cách thứ nhất không hại ai”. Vậy:
- Lấy ác báo lành: ta là quỷ.
- Lấy ác báo ác: ta là sói.
- Lấy lành báo lành: ta là người.
- Lấy lành báo ác: ta là Chúa.
Sống được như thế thì hết sợ ai, khi không sợ ai, không phải lo đề phòng gì cả, thì ghét ai làm gì cho mệt tâm mệt trí, vì người có công lý luôn luôn là người mạnh. Kinh Thánh nói : “Chúa làm chủ sức mạnh, nhưng có thể sử dụng quyền năng bất cứ khi nào Ngài muốn. Làm như thế Chúa dạy dân rằng : Người công chính phải có lòng nhân ái” (Kn 12,18-19)
44/17: Hãy nói điều tích cực hơn là điều tiêu cực. Tâm lý con người ai cũng chỉ để ý đến điều tiêu cực, mà ít ai quan tâm đến điều tích cực. Cụ thể ta vảy một đốm mực đen bằng đầu đũa trên một tấm vải trắng lớn, rồi ta giơ tấm vải trắng trước mặt mọi người và hỏi: “Cái gì đây?” Chắc chắn mọi người đáp mau lẹ: “Vết mực đen”, trong khi ai cũng nhìn thấy cả tấm vải trắng lớn, thì lại không nói!
Người Trung Hoa có câu: “Trong một khu rừng rộng lớn, một cây cổ thụ đổ xuống, thì làm chấn động cả vùng trời; trong khi đó cả tỷ mầm sống đang vươn lên thì vẫn im lìm!” Thánh Phao-lô động viên chúng ta: “Anh em hãy nghĩ đến nhau mà lo đôn đốc lòng mến và làm những việc tốt lành” (Dt 10, 24).
45/17: Đừng trang điểm quá đáng. Sách Giảng viên dạy: “Tiếng thơm hơn là dầu thơm, thì ngày chết hơn là ngày sinh” (Gv 7, 1).
Người đời thường nói: Dáng người hơn nhau bởi y phục, bởi son phấn, nhưng bóc trần ra thì ai cũng như ai! Người Công giáo phải xác tín rằng: Ta là con Đức Chúa Trời không ai cao cả bằng (x Mt 11, 11b). Nên ta hãy sống lời vị chủ chăn tiên khởi dạy: “Đồ trang sức của chị em đừng là vỏ bề ngoài, như kết tóc, đeo vòng quý, ăn mặc xa hoa, có khi diêm dúa lố lăng gợi dục! Nhưng một con người trầm ẩn nơi tấm lòng,đồ trang sức bất hoại là tinh thần hiền từ và an tĩnh” (1 Pr 3, 3-4).
46/17: Đừng ăn nói cợt nhả, một lời hai ý.
- Có khi lộ ý móc mỉa người khác.
- Có khi làm cho người ta hiểu nghĩa tục.
Thánh Phao-lô dạy: “Lời lẽ của anh em hằng phải thanh nhã, mặn mà, ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với mỗi một người” (Cl 4, 6). Bởi thế: “Con không ngồi chung với phường giễu cợt” (Ger 15,17a)
47/17: Đừng tự tôn quá cao vọng về mình. Đến như thánh Tông Đồ còn phải nói: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Chỉ khi nào ta sống được như Chúa Kitô (1Cr 11, 1). Ta mới có quyền tự hào trong Chúa (1Cr.1, 31). Ta phải sống Lời Chúa mới có quyền nói được như thánh Phao-lô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi đối với Đức Ki-tô”(1 Cr 11, 1).
Và thánh Phao-lô lại dạy: “Ai có tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1, 31).
48/17: Phải kiên nhẫn và chịu đựng sống trong một cộng đoàn tương đối êm đẹp.
Sống trên đời không ai có thể tìm được một cộng đoàn lý tưởng để dung thân. Đến như Giáo Hội tuy được gọi là thánh mà Đức Giê-su còn ví như một thuở ruộng có lúa và cỏ mọc chung, đầy tớ tình nguyện đi nhổ cỏ, nhưng chủ bảo cứ để như thế đến mùa gặt hãy tính (x Mt 13, 24-30). Mà nếu mảnh đất nào cỏ không mọc được, thì chẳng ai có thể trồng trọt gì. Nói cách khác, đất mà có cỏ mọc um tùm thì đó lại là đất tốt!
Gia đình Nazareth tuy là một gia đình thánh mà có lúc phải chịu đựng nhau. Cụ thể, Đức Giê-su đến tuổi 12 đã khôn lớn, mà Ngài trốn cha mẹ ở lại Đền thờ dạy giáo lý, làm cha mẹ rất đỗi ưu phiền suốt ba ngày đi tìm con (x Lc 2, 41t).
Đức Giê-su phải thức suốt đêm cầu nguyện với Chúa Cha, xin Cha giúp Ngài chọn 12 môn đệ, thế mà Ngài chọn phải tên Giuđa phản bội (Lc 6,12-13).
Nhóm 12 hay bất hòa vì tranh nhau địa vị nhất nhì (x Mc 9,33-37). Nếu họ không chịu đựng tha thứ cho nhau, cộng đoàn đó đã tan rã và Đức Giê-su không có người cộng tác.
Bởi vậy thánh Phao-lô nói:
- “Những sự chia rẽ giữa anh em thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn” (1Cr 11, 19).
- “Yêu thương nhau thì hãy vác lấy gánh nặng của nhau” (Gl 6, 2).
49/17: Khi thấy một cộng đoàn có bất hoà, thái độ ta phải thế nào?
1. Ðừng vội kết án phía nào, Kinh thánh nói: “Luật không cho phép ta kết án người nào trước khi nghe người ấy, và biết người ấy làm gì” (Ga 7,51)
2. Ðừng nói: Tôi chẳng thuộc phe nào! Mà phải tìm hiểu nguyên nhân nào đưa tới sự bất hoà. Khi biết ai đấu tranh vì chân lý, ta phải đứng về phía họ để bênh vực, đừng sợ mang tiếng chống đối. Bởi vì Chúa Giê-su đã xác quyết : “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8,32). Kìa sứ mệnh “Đức Giêsu làm cho nhiều người chỗi dậy, nhiều kẻ bổ nhào” (Lc 2, 34). Chỉ vì Ngài đấu tranh cho sự thật lên ngôi.
3. Bởi đó, ai theo Chúa Giêsu phải biết gây chia rẽ vì bảo vệ chân lý. Thánh Tông đồ dạy: “Nếu tôi luôn làm hài lòng người đời, tôi không còn là nô lệ của Đức Kitô” (Gl 1,10) vì sự khôn khéo của đời là điều điên dại đối với Chúa (1Cr 3,18-20)
50/17: Đừng có nhờn mặt. Khi người dưới thấy người trên dễ dãi, bình dân, có lối sống thân tình với mọi người kể cả người dưới, thì người dưới đừng vì thế mà nhờn mặt, đến nỗi không coi trọng lời dạy bảo của người trên!
Thánh Phê-rô dạy: “Những kẻ hậu sinh (người dưới), hãy biết suy phục hàng niên trưởng (người lãnh đạo). Còn đối xử với nhau hết thảy (người trên cũng như kẻ dưới) hãy mặc lấy đức khiêm nhường” (1Pr 5, 5).
“Ðừng gần chùa gọi bụt bằng anh!”(Tục ngữ)
51/17: Muốn thắng khó khăn trong môi trường sống, hãy tập chiến thắng bản thân mỗi ngày vì Chúa, từ những việc nhỏ bé. Cụ thể:
- Ăn một miếng cơm lạt.
- Không ăn thêm vì thấy ngon miệng, nếu đã ăn no.
- Bỏ làm một việc không cần thiết.
- Nhịn nói một thời gian, nhất là đang lúc giận dữ.
- Luật Giáo Hội nhắc ngày thứ sáu ăn chay. Dù Luật địa phương không buộc, nhưng ta tự tìm việc hãm mình nho nhỏ để hướng lòng mình chiêm ngưỡng Đức Giê-su đã từ bỏ mạng sống. Vì thế Đức Giê-su đã dạy: “Ai trung thành trong điều nhỏ, thì cũng trung thành trong điều lớn; ai bất lương trong điều nhỏ, cũng bất lương trong điều lớn” (Lc 16, 10).
52/17: Đừng bao giờ nói móc nói mỉa, nói cạnh nói khóe! Khi ta không vừa ý ai điều gì, hãy cầu nguyện cho họ, nếu điều xấu nơi họ không phương hại đến người khác bao nhiêu, ta nên nhịn và quảng đại bỏ qua, chấp nhận điều tương đối trong cộng đoàn. Nếu điều đó phương hại nhiều đến người khác, ta phải chân thành và nhẹ nhàng góp ý trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Đó mới là người cao thượng, kẻ tiểu nhân “đâm sau lưng chiến sĩ” bằng những lời nói móc mỉa là kẻ hèn!
53/17: Diệt tính lề mề. Người lề mề là người làm việc tới đâu hay tới đó, thích thì làm, chán là bỏ, bởi vì không đặt ra chỉ tiêu khi nào phải xong việc.
Vậy đã làm việc gì phải có quyết tâm làm cho xong và định thời hạn tối đa là bao lâu để hoàn tất công việc đó. Hãy nhớ Lời Thánh Kinh dạy:
- Bất cứ làm việc gì hãy tận tâm như thể làm cho Chúa chứ không phải cho người đời (Cl 3, 23).
- Ai lừng khừng sẽ làm mất ơn Chúa, trở nên kẻ cay đắng, gây xáo trộn và làm hư hỏng nhiều người (Dt 12, 15).
- Chúa phán: “Nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguội hẳn. Ngươi chẳng nóng chẳng lạnh, ngươi hâm hẩm như thế, Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3, 15-16).
54/17: Có được phép nói điều sai trái của Bề trên đã lộ liễu trước mặt người khác không?
Chúa nói: “Ta đã đặt ngươi làm lính canh dân Ta, nếu nó làm điều sai lỗi, ngươi phải sửa dạy nó. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được nó, nếu nó không nghe, thì ngươi trắng án. Trái lại, nếu ngươi để nó sống trong tội lỗi, nó sẽ chết vì tội nó phạm, còn ngươi, Ta sẽ đòi nợ máu nó nơi ngươi” (Ed 33, 7-9).
Thánh Phao-lô trổi vượt hơn thủ lãnh Phê-rô về văn hóa cũng như về Luật Mô-sê, vậy mà ông rất khiêm tốn tỏ ý vâng phục ông Phê-rô được Chúa đặt làm người lãnh đạo. Cụ thể, sau khi ông trở lại, ông đã được chính Chúa Giê-su dạy ba năm ở Ả-rập, vậy mà sau đó ông nói: “Tôi phải lên Giê-ru-sa-lem gặp ông Phê-rô để xin ý kiến, nếu không công việc phục vụ của tôi trở thành vô ích”.
Nhưng có lần ông Phao-lô thấy thủ lãnh Phê-rô có lối sống giả hình, liền lên tiếng trách: “Nếu ông, một người Do-thái, ông còn sống như người ngoại, chứ không như Do-thái, làm sao ông lại thúc bách người ngoại sống như Do-Thái”.
Điều này ông không chỉ nói với thủ lãnh Phê-rô mà còn đem chuyện này nói với giáo đoàn Galat qua thư ông gởi với hậu ý: đừng bắt chước lối sống giả hình của thủ lãnh Phê-rô. Bởi vì chính ông Phê-rô đã quyết định trong Công Đồng Giê-ru-sa-lem bỏ việc cắt bì cho dân ngoại, chỉ cần họ tin vào Chúa Giê-su là ban Thánh Tẩy cho họ, và không được phân biệt họ là dân ngoại với Do-thái.Thế mà lúc ông Phêrô đang dùng bữa với dân ngoại mới trở lại, thấy ông Phaolô đến, ông Phêrô vội lỉnh ra ngoài, như chứng minh ông không thông đồng với người ngoại chưa cắt bì (x Gl 2, 11-14). Thánh Tông Đồ dạy : “Những ai phạm tội, anh hãy khiển trách trước mặt mọi người, để những kẻ khác phải sợ!” (1Tm 5,20).
Trong một xã hội tri thức phát triển, cụ thể như nước Mỹ, vị Tổng thống họ được tự bầu chọn lên, mà nếu người dân thấy vị Tổng thống đó có lối sống không đúng đắn, hoặc quyết định điều gì có phương hại đến dân tộc, thì họ không tha, họ dùng tất cả các phương tiện truyền thông phản đối điều sai trái thủ lãnh của họ. Đó là cách người dưới đòi buộc người trên phải làm đúng bổn phận, phải sống gương mẫu.
Chứ sống như một số người vâng lời tối mặt, nghĩ rằng hễ Bề trên nói gì, làm gì, không cần biết đúng sai, cứ phải vâng lời làm hoặc phải câm miệng, thì thật là có hại lớn!
Lời Chúa dạy: “Ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền cao chức cả, nhưng phải biết xét xử công minh” (Lv 19,15).Hãy nhớ rằng tôi yêu hoa, không có nghĩa là tôi phải yêu cả con sâu nằm trong hoa, tôi phải giết con sâu đó, dù việc ấy có làm rụng phấn hoa.
Muốn thực hành Lời Chúa dạy như trên, thì:
* Trong xã hội: Ta phải chấp nhận ký vào bản án đã dọn sẵn: “phản động, âm mưu lật đổ chính quyền!”
* Trong Giáo Hội: Ta phải chấp nhận những lời nguyền rủa: “kiêu ngạo, không có đức vâng lời”.
Tuy nhiên, ta phải “có tâm tư như đã có nơi Đức Giê-su” (Pl 2, 5) , mà sửa lỗi anh em theo từng bước Đức Giê-su đã dạy:
- Cầu nguyện cho anh em.
- Gặp nói riêng.
- Không được, thì cùng với hai, ba người biết chuyện đến nói.
- Nếu cũng không được, thì kể họ như người ngoại. (x Mt 18, 15-18)
55/17: Phải chọn chân lý trên hết:Ông Philatô hỏi “Chân Lý làcái gì?” Chúa Giêsu trả lời: “Lời tôi là Chân Lý, ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37-38).
Do đó bất cứ điều gì không có trong Kinh Thánh, không có trong Giáo Huấn của Hội Thánh, thì chưa chắc đó là chân lý, không chắc là sự thật. Bởi thế ta chớ nói “Tự Do cao qúynhất”.Vì Chúa dạy: “Sự sống con người mới cao quý nhất , giá trị mọi vật trong vũ trụ cộng lại còn thua xa sự sống con người (Mt16.26).
Vậy “Hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che gian ác”(1Pr.2, 16).
56/17: Kẻ nào mà ta biết chắc họ không muốn đón nhận chân lý, ta phải cư xử thế nào?
Ta phải thực hành lời Chúa dạy: “của Thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo: kẻo chúng lấy chân đạp mất, và quay lại chúng cắn xé các ngươi” (Mt 7,6) và “Ai không nghe chân lý thì đừng để bụi nơi họ bám vào chân các ngươi” (Mt 10,14)
Thánh Gioan nói: “Ai đến với anh em mà không đem theo mình giáo huấn của Chúa, anh em đừng tiếp nó vào nhà, cũng đừng có chào hỏi nó ; vì ai chào hỏi nó là thông công vào những việc xấu xa của nó” (2 Ga 1,10-11).
57/17: Ý thức ta vừa là “chủ” vừa làm “nô lệ”.
* Ta là chủ: ý thức trách nhiệm của mình đối với người khác, cũng như ý thức việc bổn phận của ta phải làm cho chu đáo và hoàn hảo. Vì ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về việc bổn phận Chúa đã trao cho (x Ez 33, 7-9).
* Ta làm nô lệ:Ý thức phục vụ theo tinh thần của Đức Giê-su dạy (x Ga 13,1-20).
Bởi vì nếu quên mình làm nô lệ, chỉ tự đắc mình là chủ thì rất khắc nghiệt đối với người khác; còn nếu quên mình làm chủ, chỉ muốn làm nô lệ, thì dễ bị người ta sai khiến làm bậy.
58/17: Đừng lạm dụng quyền tự do của mình mà gây cớ vấp phạm cho người khác.
@ Thánh Tông Đồ dạy:
- “Anh em đừng lạm dụng quyền tự do của anh em, để nên dịp vấp ngã cho kẻ yếu đuối, vì như thế là anh em phạm đến Đức Ki-tô” (1 Cr 8,9.12).
- “Đừng làm cớ vấp phạm về một điều gì, để công việc phục vụ khỏi bị đàm tiếu” (2 Cr 6,3).
@ Chúa Giê-su kết án:
- “Kẻ nên cớ vấp phạm cho một người nào trong các kẻ bé nhỏ đã tin vào Ta, thì thà nó bị khoanh cối đá lừa kéo vào cổ nó, và nhận chìm đáy biển còn hơn” (Mt 18,6)
59/17 : Khi nghe dư luận nhận định về một người, ta phải nhớ bốn điều :
a- Người đó tốt xấu đều có. Do đó, nếu chỉ nghe điều tốt, hoặc chỉ nói điều xấu về người đó, là bất công !
b- Người phàm chỉ thấy điều lộ trước mắt, còn Thiên Chúa nhìn ẩn đáy lòng (x 1Sm 16,7). Do đó người phàm dù tưởng đã biết rõ, thì trong đó vẫn có điều lầm.
c- Có nhiều người tìm cách hại Đức Giê-su, vì họ luôn nghĩ xấu về Ngài. Nhưng ông Ni-cô-đê-mô sau khi đã được đối thoại với Ngài qua một đêm (x Ga 3), ông đã lên tiếng nhắc nhở cho các đối thủ của Đức Giê-su : “Lề Luật của chúng ta có phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7,51).
Vài chứng từ sau đây cho ta suy nghĩ :
- Cha Don Bosco bị Đức Tổng Giám mục Ricacardi cấm làm Lễ và giải tội.
- Thánh nữ Maria Mackillop bị rút phép thông công năm 1871.
d- Chỉ có thể nhận định về một người tương đối chính xác khi họ kết thúc cuộc đời. Kìa cả đến Đức Giê-su khi còn trên dương thế, Ngài cũng cấm các môn đệ nói cho người khác biết về Ngài, trừ khi Ngài từ cõi chết sống lại (x Mt 16,20 ; 17,9). Cũng vì thế tác giả thư Do Thái dạy : “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng Lời Chúa cho anh em, và hãy xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ” (Dt 13,7).
60/17 : Can đảm là đức tính quan trọng nhất của người lãnh đạo.
Đành rằng Đức Giê-su dạy các môn đệ : “Khi người ta bắt bớ anh em thành này, thì trốn sang thành khác” (x Mt 10,33). Nghĩa là không đối đầu với nghịch cảnh. Tuy nhiên ta nhìn Đức Giê-su khi đối diện với kẻ ác, có lúc Ngài tránh né (x Lc 4,30 ; Ga 8,59) ; nhưng có lúc Ngài quả cảm lên Giê-ru-sa-lem, dù biết trước kẻ ác đang chờ Ngài ở đó (x Lc 9,51).
Đó là đức tính can đảm của người lãnh đạo. Khi ông Mô-sê trao cho ông Giô-suê nối tiếp sứ mệnh để lãnh đạo dân Do Thái, ông Mô-sê dặn : “Hãy ở mạnh mẽ và can đảm, đừng khiếp vía, đừng nhát gan, vì Thiên Chúa ở với ngươi, bất cứ ngươi đi đâu!” (Gs 1,9).
Đức Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả nói : “Đối với mục tử làm thinh, không dám nói sự thật vì sợ hãi, lại chẳng phải là quay lưng chạy trốn hay sao? Bởi vì khi sợ hãi không dám sửa lỗi là họ phỉnh phờ những kẻ phạm tội, bằng cách hứa hão cho chúng được an toàn”.
Lời Kinh Thánh nói : “Không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Chúa ban chiến thắng, bởi lẽ chiến đấu là việc của Thiên Chúa” (1Sm 17,47). Do đó “kẻ sợ chết suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,15). Mà nô lệ thì không thể lãnh đạo ai được !
Đức Giê-su cho các môn đệ biết trước : “Anh em sẽ gặp gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33b). Vì “Thiên Chúa là cờ trận của ta” (Xh 17,15).
Làm người có nhân bản, thì phải ý thức về sự chết :
- Kẻ nhút nhát, thì sợ thần chết.
- Đứa tuyệt vọng, thì tìm cái chết.
- Tên hưởng thụ, thì chẳng nghĩ chết.
- Người anh hùng, thì liều mạng chết.
- Đấng khôn ngoan, thì chuẩn bị chết.
Vậy chết vì chân lý hơn là sống không chân lý.
61/17: Khi người trên nhờ ta làm việc gì, ta phải thưa lại khi nào sẽ làm để cho người trên yên tâm, ta phải giữ đúng lời đã hứa, và hoàn tất càng sớm khi có thể.
62/17: Hãy tập đức tính mau mắn, nhanh nhẹn,hầu thắng thói lề mề. Cụ thể phải diệt trừ thói xấu ngủ nướng khi đã có thời gian đủ cho sức khỏe :
- Người lớn tuổi ngủ tối đa 7 tiếng.
- Thanh niên ngủ tối đa 8 tiếng.
- Trẻ em ngủ tối đa 9 tiếng.
Do đó khi được nghe báo thức, thì hãy bật dậy ngay, để biểu lộ tinh thần mau lẹ thực hành ý Chúa, như ông Giuse trong đêm ba lần mau mắn chỗi dậy làm theo lệnh Chúa truyền (x Mt 1,24 ; 2,13.20).
63/17 : Để trở thành người Công Giáo trí thức, đáng được mọi người kính nể, ta nhắm huấn luyện mình hai điều này :
- Về Đức Tin và lòng Mến : Luôn cầu nguyện xin Chúa cho ta có trái tim biết nghe (x 1V 3, 9-13), đặc biệt nghe và tìm hiểu Lời Chúa, và sung sướng được nói về Chúa đến nỗi không ai bịt miệng được (x Mc 10,46-52 ; 2Cr 11,10 ; 1Cr 9,16).
- Về Nhân Bản : Ta phải học biết làm một việc gì, nhất là làm phát triển năng khiếu. Ví dụ : giỏi đàn, giỏi vẽ, giỏi kiến trúc…làm cho người khác luôn cần đến mình, chứ không sống vô dụng trong môi trường mình ở. Phải suy nghĩ kiểu thánh Phanxico Xavie : Ông kia bà nọ làm được điều tốt, hữu dụng cho người khác, tại sao tôi không làm được?
64/17 : Muốn có nhiều bạn tri kỷ. Ta biết tâm lý quần chúng, ai cũng sợ người có quyền, nên họ tìm cách xa lánh. Thực vậy, những người cùng trang lứa họ dễ đến với nhau, chẳng chút ngại ngùng ; nhưng rất ngại đến với người có chức quyền, trừ phi có việc cần thiết. Do đó người có địa vị dễ mất bạn tri kỷ! Tuy nhiên, người có địa vị cao muốn có nhiều bạn thân sẵn sàng “móc mắt hiến cho” (x Gl 4,15), thì phải hạ mình xuống đến với người thấp cổ bé miệng trước. Bởi vì chẳng ai cao trọng bằng Chúa Giê-su, mà Ngài nói với các môn đệ : “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16). Rõ ràng “không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Như thế, yêu là bước xuống đến với người anh em trước. Vì vậy Lời Kinh Thánh dạy : “Càng làm lớn con càng phải tự hạ” (Hc 3,18a)
65/17: Muốn huấn luyện lớp người mới để “chọn mặt gởi vàng” thì phải bắt chước Đức Giêsu: “Ngài làm rồi mới dạy” (Cv.1,1). Cụ thể, để cứu loài người, Đức Giêsu đã tự hạ mình phục vụ như một người tôi tớ (x. Ga.13,Phil. 2,6-11).Bởi thế người có trách nhiệm giáo dục cũng phải hạ mình xuống :
- Ăn chung 1 bàn
- Làm chung 1 việc
- Chơi chung 1 trận.
Trong cùng một mục đích để tìm hiểu tính tình, khả năng trước khi trao quyền, trao nhiệm vụ. Vì chỉ lúc cùng ăn, cùng làm, cùng chơi, người ta mới lộ ra cá tính cũng như nết xấu. Do đó khi chưa biết rõ đối tượng giáo dục, mà đã trao quyền, trao nhiệm vụ, thì khi họ đã có chức có quyền, có người lộ ra thiếu nhân bản, thiếu đạo đức, thiếu khả năng. Nói tắt đó là một lãnh đạo tồi tệ, gây phương hại cho xã hội và Hội Thánh!
Giáo huấn Công Đồng Vat.II, trong Sắc Lệnh Đời Sống LM số 3 nói: “Hội Thánh chỉ phong chức Linh mục cho người có lòng từ tâm, thành thật, dũng cảm, kiên nhẫn, say mê công chính, lịch thiệp, trong sạch, công bằng, thánh thiện khả ái, danh thơm tiếng tốt, hạnh kiểm đáng khen” ; và trong Hiến Chế Hội Thánh số 37 dạy: “Các chủ chăn phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá trách nhiệm của giáo dân, sẵn sàng chấp nhận ý kiến khôn ngoan của họ. Phải nhìn nhận và tôn trọng tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế”.
Bởi vậy, dân Chúa chỉ mong đừng bao giờ các Bề trên huấn luyện Chủng sinh lại đề cử với Giám mục phong chức cho người thiếu nhân bản trầm trọng, thiếu khả năng phán đoán quân bình, thiếu sự kiềm chế xúc động bản thân, thiếu khôn ngoan, thiếu thận trọng khi hành xử và phát biểu, nhất là thiếu thiện chí tìm đường phục vụ hữu hiệu, lại gây bất hòa chia rẽ đoàn chiên. Vì như thế là xấu hổ cho Hội Thánh và làm nhục Chúa Ki-tô là Mục Tử nhân lành.
Lm. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH