Lễ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Lời Chúa: Ed 47,1-2.8-9.12; 1Cr 3,9c-11.16-17; Ga 2,13-22
MỤC LỤC
2. Latêranô và những ngôi Đền Thờ. 4
3. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô. 8
4. Đền thờ tâm hồn – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 10
5. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô. 17
6. Đền Thờ Tâm Hồn – Enzodi 20
7. Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ. 24
8. Cung hiến Thánh Đường Latêranô – Lm Hồ Thông. 28
11. Thanh tẩy – Lm Trần Ngà. 45
12. Đền thờ mẹ của tất cả các nhà thờ. 48
1. Đền thờ mới
Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.
Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.
Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.
Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
2. Latêranô và những ngôi Đền Thờ
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.
Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!
Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…
Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.
Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:
- Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.
- Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.
- Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.
- Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.
Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.
Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9. 11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.
Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.
Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.
Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.
3. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Ga 2,13-22
Thánh đường là nơi qui tụ dân Chúa, là nơi các tín hữu tới cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Thánh đường là nơi Chúa ngự, là nơi Mình Máu Thánh Chúa luôn hiện diện, là nơi dân Chúa lãnh nhận muôn vàn ơn huệ, muôn vàn hồng ân của Chúa.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ
Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng. Đức Thánh Cha với tư cách là Giám Mục Roma, cũng đặt ngai tòa của mình tại nhà thờ chánh tòa. Đền thờ này được xây dựng vào năm 320 khi Giáo Hội Chúa Kitô, tượng trưng cho Tòa Thánh Roma vừa thoát qua khỏi một thời kỳ cấm cách, bắt bớ khủng khiếp . Đền thờ này do công của Hoàng đế Constantinô xây dựng để tôn vinh danh Chúa và để dân Chúa có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích . Đền thờ này đã được cung hiến vào khoảng thời gian nói trên.Lịch sử thuật lại rằng khi hoàn tất ngôi thánh đường này, nhiều đoàn người khắp trong thành phố Roma đã tuôn đến để dự lễ khánh thành và hiệp ý trong nghi lễ cung hiến ngôi thánh đường dùng đặt ngai tòa của Đức giáo hoàng, với tư cách là Giám Mục Roma. Ngôi đền thờ Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu thăng trầm của đạo giáo, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn của các thời Hoàng đế Roma trị vì. Biết bao nhiêu người đã tới thánh đường Latêranô để xin rửa tội, gia nhập dân thánh Chúa trong những đêm phục sinh và mừng lễ vượt qua tại đây.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ NGÀY NAY
Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm tuần thánh Đức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Roma, với các Hồng y, Giám mục và Ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là rửa chân cho các tông đồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kính yêu Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và cho Giáo Hội luôn trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
4. Đền thờ tâm hồn – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản cóGiếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).
2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.
Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
"Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).
3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
] Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
] Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
] Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
5. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô.
Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.
Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.
Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.
Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.
“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”
Ù Ghi nhớ
Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.
Ù Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
6. Đền Thờ Tâm Hồn – Enzodi
Khoảng năm 312, hoàng đế Rôma Constantinô vừa mới trở lại Kitô giáo, đã dâng tặng Đức giáo hoàng Miltiade (311-314) cung điện Latêrani trên núi Coelius. Một ít thời gian sau, Đức giáo hoàng cho xây ở đây một thánh đường, đó là vương cung thánh đường Latêranô, là ngôi thánh đường cổ nhất và có địa vị cao nhất trong số các thánh đường của phương Tây. Một truyền thống nói rằng thánh đường này được Đức Giáo Hoàng Sylvestre (314-335) cung hiến ngày 9 tháng 1 năm 324. Bảng chữ trên cửa lớn của thánh đường ghi : "Mẹ và Đầu của mọi thánh đường". Thật vậy, vương cung thánh đường này là nhà thờ chính của Đức giáo hoàng trên cương vị Giám mục Rôma, nhưng vì ngài cũng là mục tử tối cao của Hội Thánh Công Giáo, nên các nhà thờ thuộc nghi lễ Rôma trên toàn thế giới, khi long trọng mừng kỷ niệm thánh đường Latêranô, thì đồng thời cũng mừng sự hiệp nhất hoàn vũ của Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô, và thánh đường là biểu tượng của sự hiệp nhất đó.
Ban đầu thánh đường được cung hiến dưới tước hiệu Vương cung thánh đường Chúa Cứu Thế, sau đó được dâng kính hai thánh Gioan Tẩy Giả và Gioan Tông Đồ ; thực vậy, thánh đường này có giếng rửa tội cổ xưa nhất của Rôma : hàng ngàn tân tòng đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong đêm Phục Sinh. Vì vậy thánh đường này đã giữ lại tước hiệu Thánh Gioan Latêranô (Saint-Jean-de-Latran). Sau khi bị hư hại nặng vì chiến tranh, hoả hoạn và bỏ hoang, thánh đường đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIII cho xây dựng lại và được cung hiến lại năm 1726.
Cung điện Latêranô là một phức hợp gồm các căn hộ, phòng họp lớn của các công đồng, thư viện và tu viện, và đã là toà của các vị Giáo hoàng trong hơn một ngàn năm, cho đến khi Đức Giáo Hoàng Nicolas V (1477-1455) rời Coelius và đến ở Vaticanô. Cung điện này cũng từng là nơi nhóm họp của 250 công đồng, trong đó có 4 Công Đồng Chung. Bị hỏa hoạn năm 1308 và bị bỏ hoang trong thời các Giáo hoàng đến ở Avignon, cung điện đã bị tàn phá và được xây dựng lại thời Đức giáo hoàng Sixtô Quint (1585-1590). Trong một toà nhà ngày nay được ngăn đôi, có gian Thánh và gian Cực Thánh (nhà thờ cũ của Giáo hoàng).
Thông điệp và tính thời sự
a. Đoạn sách thứ nhất trong hai đoạn được đề nghị cho bài đọc 1 trích từ sách Êdêkien (47, 1. . .12) có đoạn này : Có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông… Người ấy đưa tôi ra ngoài và nói với tôi : "Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng thung lũng Giorđan, và đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hóa lành. Nước chảy đến đâu thì mọi sinh vật sẽ được sống và sinh sôi nảy nở. . ."
Trong đoạn sách này, ta thấy rõ ràng biểu tượng về phép rửa, và về Hội Thánh như là Dân Thiên Chúa và như là Đền Thờ. Điều này cũng nhắc nhớ chúng ta rằng lịch sử cứu độ có tính đặc trưng bí tích và được hoàn thành nơi Đức Kitô, Đấng thể hiện nơi bản thân Người chân lý viên mãn của mỗi biểu tượng, kể cả biểu tượng về Đền Thờ, như thánh Gioan nhấn mạnh trong Tin Mừng của thánh lễ (2, 13-22): "Nhưng Đền Thờ mà Người (Chúa Giêsu) nói đến, đó là thân mình Người."
Tiếp theo chủ đề bí tích, phép rửa và Kitô học, đoạn sách thứ hai được đề nghị cho bài đọc 1 (1 Cr 3, 9. . .17) triển khai chủ đề giáo hội học, vì các tín hữu giống như những viên đá sống động, những vật liệu làm thành toà nhà thiêng liêng được đặt trên viên đá góc là Đức Kitô: Anh em là nhà được Thiên Chúa xây lên. . .Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.
b. Trong nhiều thế kỷ, thánh đường Latêranô từng là nơi mà nền phụng vụ của Giáo hoàng được triển khai những bước đầu tiên, trước khi nó truyền lại kiểu cách cử hành của nó cho tất cả các Giáo Hội phương Tây. Ở đây thánh đường Latêranô không chỉ là một "trung tâm mới của thế giới", thay thế cho Giêrusalem, mà còn là một kiểu mẫu cho mọi thánh đường, cũng được gọi là mẹ, vì sinh ra những con cái Thiên Chúa qua phép rửa, và cũng vì sinh ra những Giáo Hội và cộng đoàn khác qua lực đẩy truyền giáo của những thánh đường này. Do đó, cử hành lễ kỷ niệm này cũng có nghĩa là trở về nguồn khai sinh và phát triển của người Kitô hữu, phần tử của một Giáo Hội địa phương được sinh ra bởi phép Rửa, được trở nên phong phú bởi phép Thêm Sức và được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể. Tuy nhiên, mọi Giáo Hội địa phương đều gắn kết với Giáo Hội Mẹ, được biểu trưng bằng Giáo Hội Rôma, với nhà thờ lớn là vương cung thánh đường Latêranô, "Mẹ và Đầu của mọi Giáo Hội".
c. Chúng ta thấy rõ tính thời sự của lễ này : là những phần tử sống động của Giáo Hội địa phương, tất cả chúng ta có trách nhiệm làm cho Giáo Hội này noi gương Giáo Hội mẹ, sinh ra những Giáo Hội và cộng đồng khác, đi ra khỏi những bức tường kín hay những ranh giới địa lý của mình, để mở ra cho toàn thế giới.
Cũng vậy, mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô nhắc chúng ta nhớ lại phép rửa tái sinh của chúng ta: "… Trước khi chịu phép rửa, chúng ta là những đền thờ của ma quỉ ; sau khi chịu phép rửa, chúng ta được trở nên những đền thờ của Thiên Chúa. . .Vì thế, thánh Phaolô đã nói : Đền thờ của Thiên Chúa là thánh, và đền thờ đó chính là anh em." Nhưng ân huệ này đòi hỏi chúng ta rất nhiều : "Anh em muốn có một thánh đường sáng láng ư ? Đừng để tội lỗi làm nhơ bẩn tâm hồn anh em. Nếu anh em muốn thánh đường được chiếu sáng, và Thiên Chúa muốn điều đó, hãy để ánh sáng của các việc lành chiếu sáng nơi anh em. . ." (Trích một bài giảng của thánh Césaire d'Arles, trong Giờ Kinh Sách).
7. Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa của sức mạnh và lòng thương xót,
Xin hãy che chở chúng con khỏi mọi nguy biến.
Xin ban cho chúng con sự tự do tinh thần,
sức khỏe trong tâm trí và cơ thể để làm công việc của Chúa trên thế gian.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa,
Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
2. Suy Niệm
- Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia (1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga 1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng cách này, dự đoán “giờ” của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng với đức tin, với lòng gắn bó riêng.
- Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng, Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua) tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15). Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên Chúa bằng tiền bạc.
- Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác. Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi. Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?" (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ biết đó là cái chết của Người: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.
3. Một vài câu hỏi cá nhân
· Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?
· Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát dứt khoát của bạn không?
4. Lời Nguyện Kết
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu, ta cũng chẳng sợ gì. (Tv 46,1-2)
8. Cung hiến Thánh Đường Latêranô – Lm Hồ Thông
Đại thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”, bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo Hoàng.
Lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726 cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.
Nhưng Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài? “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).
Ed 47, 1-2, 8-9, 12
Bài Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ lýý tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.
1Cr 3, 9-11, 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.
Ga 2, 13-22
Tin Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục sinh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)
Trước tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố hiện nay.
Sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.
Sứ điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa lýý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải một ýnghĩa mới.
1. Thực tại địa lý.
Dòng nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy diễn tả thực tại địa lýý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687 tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.
2. Biểu tượng vườn địa đàng.
Nhưng thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước khi phạm tội.
Đền Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện, nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.
Đức Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 37-38).
Nước biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền. Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).
3. Bên phải Đền Thờ:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời. Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự sống đời đời.
4. Đền Thờ.
Vào Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta suy niệm về Đền Thờ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy. Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống 18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp nối công việc của thánh nhân.
Dân Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp. Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.
1. Nhà Thiên Chúa.
Cộng đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).
2. Đền Thờ Thiên Chúa.
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng từ “hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực thánh” của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.
Khái niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa (Bài Đọc I).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.
Sau cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở Ca-phác-na-um.
Phần mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.
Phản ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu trọn vẹn ýý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.
1. Khung cảnh bên ngoài.
Đền Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên. Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ. Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.
Chính ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ. Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế cao cấp – đứng đầu là thượng tế – đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền “ô uế” do có đúc hình vị hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày đại lễ.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua.
Khung cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan.
Khi đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh kýý để lộ những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng có.
Trước hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể phá hủy…” (Mc 14: 58).
Ngoài ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Hơn nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa “nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện” hay “cung thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Tình tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.
9. Tẩy uế Đền Thờ
(Trích: tgpsaigon)
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2,16)
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.
Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hêrôđê.
Sự bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga 15,5).
“Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc 11,16).
“Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
Thế nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Họ còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4,23-24).
Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16 ; 14,26). Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ… ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra oai nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ mà không ngại bị họ thù ghét, làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số người thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ trở thành một bãi rác công cộng, mất vẻ mỹ quan nơi Nhà Chúa. Rồi những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích…gây cảnh ồn ào náo loạn, làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng. Xin cho chúng con can đảm đóng góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người. Amen
10. Tôi sẽ xây dựng lại
Suy Niệm
Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Đây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, giám mục Rôma, là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà để dành riêng cho việc phụng tự. Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa, thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu. Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân, cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ. Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.
"Hãy phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Đức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem. Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại, thân thể bị giết chết và được phục sinh.
Đức Giêsu phục sinh trở nên Đền Thờ của Giao Ước mới.
Ai ai cũng được mời gọi bước vào Đền Thờ này. Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.
Hội Thánh cũng được ví như một Đền Thờ thiêng liêng, mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8), và Đức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11). Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định "Đền thờ của Thiên Chúa chính là anh em" (1Cr 3,17). Hơn thế nữa, ngài còn nói: "Thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần" (1Cr 6,19)
Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Đền Thờ. Đền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy. Đền thờ là những con người sống động.
Đền thờ quan trọng nhất là con người Đức Giêsu phục sinh, một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần. Mọi Đền thờ đều phải qui về Đền thờ đó. Không gắn bó với Đấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài, chẳng Đền thờ nào là Đền thờ thực sự.
Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán, Đức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha. Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy, vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều. Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.
Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ. Nhà thờ đầu tiên là con người tôi. Xin Đức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần, cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế. Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa để Hội Thánh thật sự là Đền thờ, nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Đền thờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
· Thân xác là Đền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?
· Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
11. Thanh tẩy – Lm Trần Ngà
Từ thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem…
Chúa Giêsu là Đấng rất hiền lành, và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường…” ( Mt 11, 29 )
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người Samaria ngăn chặn không cho đi qua làng của họ mà tiến về Giêrusalem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, muốn khiến lửa trời xuống đốt, Chúa Giêsu quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy của các ông. (Lc 9, 54)
Khi có người cho Chúa là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), thậm chí là người bị quỷ ám (Ga 7, 20), là người dại dột… Chúa Giêsu cũng chẳng lấy làm điều.
Nhất là trong cuộc thương khó, người ta lăng nhục hành hạ Chúa đủ điều, Chúa vẫn nín thinh không nói một lời. Khi chịu treo trên thập giá đau đớn lại còn bị chế nhạo, Chúa Giêsu chẳng những không giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ lăng nhục Ngài. Nói chung, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Ngài không hề biết giận là gì.
Vậy mà… khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Ngài không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”
Thế là để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem khỏi bị tục hoá, Chúa Giêsu phải dùng đến roi vọt, dùng đến biện pháp cứng rắn không ai ngờ như “đổ tung tiền của những người đổi bạc”, “lật nhào bàn ghế”, dùng roi để ‘xua đuổi tất cả bọn’ ra khỏi Đền Thờ!
Thật không thể ngờ được! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà “cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” ( Mt 12, 20 )… giờ đây phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giêrusalem. Điều đó chứng tỏ cho thấy rằng việc làm ô uế Đền Thờ là một hành vi rất tai hại khiến Chúa Giêsu đau khổ và bất bình xiết bao!
Đến thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thân thể chúng ta cũng là những Đền Thờ, xét ra còn cao trọng hơn Đền Thờ Giêrusalem xưa. Trong chương 3 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 13) và qua chương 6, Thánh Phaolô tái khẳng định chân lý này: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1 Cr 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng có Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị nơi những ai yêu mến và tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Bản thân chúng ta là những Đền Thờ cao quý hơn mọi thánh đường trên khắp thế gian, vì đây là những Đền Thờ sống động, có linh hồn, có trí khôn… chứ không phải bằng gỗ đá vàng bạc vô tri vô giác, được chính Ba Ngôi Thiên Chúa xây dựng nên theo hình ảnh Ngài, được Chúa Giêsu đổ Máu Thánh ra mà cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, được Chúa Giêsu tô điểm và bồi bổ bằng lời hằng sống cũng như bằng chính Thịt Máu Ngài và nhất là mai sau được đưa lên cõi trời vinh hiển. Không một ngôi Thánh Đường vật chất nào trên thế gian có được những vinh dự lớn lao như thế.
Vậy nếu Chúa Giêsu yêu quý Đền Thờ Giêrusalem một thì Ngài còn yêu quý các Đền Thờ sống động này gấp trăm. Thế nên, Ngài đã không tiếc khi lấy chính Máu Thánh mình mà thanh tẩy chúng; không tiếc hiến mạng mình để chuộc lại chúng. Như thế thì bản thân mỗi người Ki-tô hữu là Đền Thờ vô giá!
Những người làm ô uế Đền Thờ Giêrusalem thì bị Chúa Giêsu đuổi đi bằng roi vọt; còn ai làm hư hại Đền Thờ thiêng liêng nơi người tín hữu thì bị Chúa đe phạt nặng nề hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42) Có lẽ không còn răn đe nào nghiêm khắc hơn!
Xin hãy hồi tâm…
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy cảnh tỉnh nhìn lại mình, nhìn thật sâu vào nội tâm sâu thẳm của bản thân chúng ta là Đền Thờ Thiên Chúa để nhận ra những ý tưởng đen tối, những tham vọng xấu xa, những đam mê tội lỗi đang ẩn mình trong đó… để sớm quét sạch chúng đi. Chính mỗi người chúng ta là thủ phạm trực tiếp làm ô uế Đền Thờ thân thể mình chứ không ai khác. Vậy hãy liệu mà thanh tẩy kịp thời trước giờ Chúa Giêsu lại đến.
12. Đền thờ mẹ của tất cả các nhà thờ
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.
Đền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Đền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Đây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Đó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Đây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.
13. Nhà thờ của giáo xứ
Hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.
Khi một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường, mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…
Vị thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em. Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.
Cũng thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.
Chúng ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an toàn.
Tới đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm thật êm đềm và tươi đẹp.
Phải, giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được dành cho mọi người.
Thực vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để cử hành bí tích Hôn phối.
Và sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.
Và nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và gíup đỡ cho những người chung quanh.
Tuy nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo xứ hay chưa?
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Kn. 6, 12-16; 1Tx. 4, 13-18; Mt. 25, 1-13
MỤC LỤC
1. “Ta không biết các ngươi” 2
2. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời! 4
7. Vừa mang đèn, vừa mang dầu. 17
9. Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa. 21
11. Trinh nữ khôn ngoan – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 28
1. “Ta không biết các ngươi”
Bữa tiệc cưới kỳ lạ khởi đầu tốt đẹp: có đến mười cô phù dâu! Chúng ta nghĩ đến những chiếc áo dài đẹp và những nụ cười, chú rể hơi vụng về, cô dâu xinh xắn.
Có điều này phá tan sự thơ mộng: năm trong số mười cô này bị coi là “khờ dại”. Người ta chú ý đến họ và vạch ra sự thiếu lương tri của họ. Đặt ra những câu hỏi về năm cô “khôn ngoan” từ chối chia sẻ dầu trong đèn của họ là điều vô ích vì đây không phải là vấn đề. Một dự ngôn vạch ra đường lối của mình mà không quan tâm tới những yếu tố không phù hợp.
Cho nên chúng ta hãy thử đi thẳng vào bài học về dầu bị thiếu. Sự thiếu sót nào có nguy cơ làm cho chúng ta trở thành nhữngkẻ khờ dại? Người khờ dại trong dụ ngôn chính là người Kitô hữu đã lên đường nhưng không chuẩn bị. Người đó tức khắc rơi vào trong một cuộc sống tầm thường, ít có tính cách Tin Mừng. Năm cô khờ dại biểu thị cho những kẻ ít can đảm, những kẻ bị tước vũ khí do sự chờ đợi và thời gian. Họ có nguy cơ bị giật mình khi nghe la lên: “Đây là chàng rể, đây là sự gặp gỡ Chúa!”
Tuy nhiên chúng ta nghĩ đến sự gặp gỡ cuối cùng. Chúng ta biết rằng để thành công thì phải gặp được Chúa Giêsu ở dưới thế gian này, trong Kinh nguyện, Thánh thể, Tin Mừng, bí tích người anh em (Mt 25,40). Nhưng tất cả những điều này phải trả giá và chúng ta làm chậm kỳ hạn: “Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu”. Chúng ta làm như thể mình là chủ thời gian vậy!
Thậm chí khi đang tĩnh tâm, dưới cú sốc của một biến cố hoặc một chứng cứ gây xáo trộn, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta cũng không nghe được lời van xin lo lắng của Ngài, bởi vì Ngài biết rõ chúng ta: “Các con hãy luôn luôn tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào giờ nào”.
Do đó phải nghĩ đến giờ phút này mà thôi hay sao? Không, sẵn sàng để nghe tiếng gọi này, chính là sống hết mình điều mà chúng ta đang sống. “Linh đạo hiện tại”, có nghĩa là sử dụng tốt cuộc sống hằng ngày, trở nên những ứng viên tốt nhất để gặp gỡ Chúa. Ý nghĩa có tính cách Tin Mừng của thời gian là: hôm nay phải chuẩn bị dầu cho ngày mai, đồng thời phải luôn luôn can đảm để sống Tin Mừng vào bất cứ lúc nào trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu không, sẽ phải đi đến cùng những bữa tiệc cưới buồn này, sẽ phải đứng ngoài cửa phòng tiệc và nghe những lời nặng nề hơn nữa, xoá tan mọi niềm hy vọng: “Ta không biết các ngươi”. Vào ngày tận thế Chúa Giêsu sẽ chỉ công nhận “những người của Ngài”, tức những kẻ đã cố gắng làm ánh sáng Tin Mừng không biết mệt mỏi bằng cách không ngừng dự trữ dầu.
Nếu câu nói dễ sợ “Ta không biết các ngươi” đập vào chúng ta như Chúa Giêsu muốn, chúng ta hãy suy niệm về hai cách xử sự: những cô khôn ngoan, những cô khờ dại. Còn chúng ta, cái đèn chúng ta ở đâu?
2. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
- Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp:
- Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói:
- Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói:
- Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
Vâng, thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên cũng có thể là thái độ của chính chúng ta! Chúng ta đã thiếu chuẩn bị cho một cuộc ra đi ắt phải có của kiếp người là rời bỏ chốn dương gian lắm tội tình. Ai trong chúng ta cũng tin rằng bên kia sự chết đó là cõi thiên thai, là thiên đàng cực lạc, là Nước Trời vĩnh cửu. Ðó là nơi mà ai cũng ước mong sẽ được cư ngụ vĩnh viễn sau cuộc đời đầy khổ ải trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại thiếu chuẩn bị một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Họ không bao giờ chuẩn bị một hành trang cần thiết nào cho cuộc sống đời sau. Họ sống như không bao giờ chết. Họ tiêu pha đời mình trong những đam mê trần tục. Họ ngụp lặn đời mình trong biển đời hư danh và truỵ lạc. Họ quên rằng trời cao mới là quê hương đích thực. Trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thái độ thiếu chuẩn bị cho cõi đời sau qua dụ ngôn 10 trinh nữ phụ dâu. Trong đó có 5 cô khờ dại. Họ được mời làm phụ dâu, đáng lẽ họ phải chuẩn bị thật kỹ càng để giúp cho tiệc cưới được chu đáo và long trọng. Thế nhưng, họ lại lười biếng và thiếu trách nhiệm. Họ lười biếng nên lăn quay ra ngủ. Họ thiếu trách nhiệm nên chẳng chuẩn bị chi cả. Dầu tượng trưng cho sức sống tươi trẻ, đầy năng động, tràn đầy nhựa sống nhưng đã cạn kiệt, không còn đủ sức tỏa sáng chung quanh. Nên khi cơ sự tới. Họ muốn thắp lên một ngọn đèn cũng không đủ khả năng. Họ cầu cứu người khác, nhưng thời gian đã không còn. Cơ hội để cùng tân lang vào dự tiệc đã vuột khỏi tầm tay của họ. Cánh cửa cuộc đời đã khép. Số phận của họ đã được định đoạt. Họ bị loại trừ trong thất vọng và khổ đau.
Có biết bao lần vì lười biếng mà ta đã đánh mất những cơ hội tốt đẹp trong cuộc đời. Có biết bao lần vì thiếu trách nhiệm mà ta đã hành xử một cách cẩu thả, cho qua lần chiếu lượt với những công việc được giao. Cơ hội vào Nước Trời sẽ không có trong tầm tay của những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Vì con đường vào Nước trời là con đường hẹp đầy chông gai, sỏi đá. Con đường của hy sinh, của phấn đấu không ngừng vươn lên mỗi ngày, mới mong đạt tới vinh quang Nước Trời. Vì phương thế vào Nước trời là lối sống thực thi triệt để giới răn mến Chúa – yêu người, nên kẻ muốn vào Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân với đầy đủ ý thức và trách nhiệm. Lười biếng và thiếu trách nhiệm thường đi đôi với nhau. Kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm không những bị cha mẹ, anh em bè bạn loại trừ mà cả cánh cửa sự sống đời sau cũng khép lại và từ chối đón nhận họ.
- Có những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với vợ con nên tối ngày rượu chè, cờ bạc… gây khổ đau cho vợ con
- Có những người vợ biếng nhác việc nhà "đi vác tù và hàng tổng", họ tham gia rất nhiều hội đoàn nhưng lại thiếu trách nhiệm với tổ ấm của mình.
- Có những người con lười biếng chỉ biết ăn chơi, đua đòi nhưng lại thiếu trách nhiệm với chính bản thân của mình nên sa đà tội lỗi.
Họ là đại diện cho các cô phụ dâu thiếu chuẩn bị dầu nến bước vào đời sau. Vì ngày tân lang tới hay có thể nói là ngày chết của mỗi người chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta không ai biết trước được ngày ra đi. Không ai biết được cách thức ra đi. Do đó, sự khôn ngoan luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức trong mọi sự. Phải chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo. Phải có trách nhiệm với cuộc sống để khi ra đi chúng ta luôn mang tâm trạng bình an. Chúng ta sẽ không hối tiếc vì để lịm tắt ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đừng vì lười biếng mà ru ngủ đời mình trong những đam mê yếu đuối, và lầm lạc. Ước gì bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta luôn đầy tràn chan chứa hầu có thể thắp sáng tình yêu Chúa trên muôn vạn nẻo đường chúng ta đi, và làm nóng lại tình yêu của Chúa giữa nhân gian tội tình hôm nay. Xin cho chúng ta luôn đủ khôn ngoan để chuẩn bị dầu đèn luôn cháy sáng là những hành vi bác ái đầy yêu thương thấm đượm tình Chúa, tình người. Amen.
3. Chúa sẽ đến
Đối với mười cô trinh nữ, thì việc chàng rể sẽ đến là một xác tín mãnh liệt và hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và đợi chờ chàng rể tại một nơi đã được ấn định. Họ tin chắc chắn rằng chàng sẽ tới. Tin chắc đến độ không còn lo âu và băn khoăn trước sự chậm trễ của chàng. Họ đã thiếp đi và ngủ cả. Đó là dấu chỉ cho thấy tâm hồn họ thật bình thản. Còn đối với chúng ta thì sao?
Chúng ta cũng tin chắc chắn rằng Chúa sẽ đến. Tuy nhiên, đôi lần việc chờ đợi đã làm cho niềm tin ấy bị lu mời và phai nhạt. Ngài sẽ đến, nhưng xem ra mọi sự lại diễn ra một cách quá bình thường. Ngài sẽ đến, nhưng lại chẳng có dấu chỉ gì báo trước. Ngài sẽ đến, nhưng sao lại vẫn thinh lặng., một sự thinh lặng dễ sợ. Sự hao mòn của thời gian dễ dàng tàn phá lòng kiên nhẫn của chúng ta.
Những câu hỏi bắt đầu được đặt ra, rồi những nghi vấn được chen vào làm cho niềm xác tín bị lung lay. Thêm vào đó, những kiến thức hời hợt và nông cạn sẽ làm phut tắt ngọn đèn nội tâm của chúng ta và đặt trong chúng ta một tình trạng dửng dưng nào đó, bởi vì các biến cố đã được tiên báo xem ra thật đáng nghi ngờ. Bấy giờ, nếu thình lình xảy ra những tai ương hoạn nạn, thì sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi là hoàn toàn vô ích.
Chúa sẽ đến, đó là một điều chắc chắn và là một xác tín phải được củng cố trong suốt cuộc đời chúng ta. Đó không phải là một giả thuyết, nhưng là một thực tại hiển nhiên của tương lai. Và vì liên hệ tới tương lại, nên đó cũng chính là một viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chết phần xác của chúng ta. Ước gì niềm xác tín này làm cho cõi lòng chúng ta được tràn ngập an bình và tâm hồn chúng ta được hoàn toàn thanh thản.
Chúa sẽ đến và Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười cô trinh nữ. Vào nửa đêm, có tiếng hô to:
- Kìa chàng rể đến.
Như thế, việc chuyển sang một ngày mới cũng là việc chuyển đổi từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà chúng ta đang nghe lúc này đây của thánh lễ. Đấy là như một dấu báo hiệu: Trước đó, nó đã cho thấy thật là phi lý nếu chúng ta tưởng rằng mình sẽ có đủ thời giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn bất chợt vang lên, hay như một con đường đi Đamas khiến cho Phaolô bị quật ngã, xem ra rất bình thường nhưng lại có tính cách quyết định cho số phận đời đời.
Cuộc viếng thăm trọng đại này sẽ áp đặt và mang đi tất cả, nhưng đồng thời cũng ban sự sống cho những gì phù hợp với nó và cho những ai đợi chờ nó.
Tuy nhiên, hăng hái trông mong và hăm hở đi đón mừng Chúa đến với một đức tin kiên vững mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, bằng cách tích lũy cho mình thật nhiều những việc lành phúc đức, thật nhiều những hành động bác ái yêu thương, thật nhiều những thái độ xả thân phục vụ những người hèn mọn chung quanh chúng ta. Chỉ một đời sống hoàn toàn dấn thân cho Chúa và cho anh em mới có thể rạng gnời như đèn sáng trong đêm tối trần gian và cho phép chúng ta được yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở cho chúng ta cánh của phòng tiệc của Ngài.
4. Sẵn sàng
Theo tục lệ tại các nước Trung Đông, thì trong dịp đám cưới, nhà gái thường tổ chức những cuộc vui chơi suốt ngày. Thỉnh thoảng người ta lại loan báo cho biết:
- Chàng rể sắp đến.
Trong thực tế, nửa đêm vào lúc bất ngờ nhất, chàng rể mới xuất hiện. Chàng đến với đèn đuốc sáng trưng để đón cô dâu. Đáp lại, cô dâu cùng các cô phù dâu, cũng phải mang đèn đuốc sáng trưng để bắt đầu cuộc rước về nhà chồng.
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho hay là chàng rể đến chậm. Sự chậm trễ này cũng là điều bình thường và phần lớn xảy ra là do nhà trai chưa đạt được thỏa thuận về các sính lễ phải đem sang nhà gái trước khi rước dâu.
Tục lệ này tương đương với việc “thách cưới” ở Việt Nam mà dân gian đã có những lời diễu cợt như sau:
Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Ở Trung Đông, tục lệ này còn nặng nề hơn nữa, đến nỗi cuộc rước dâu có thể bị đình hoãn tới đêm hôm sau do cuộc thương lượng và thỏa thuận kéo dài lê thê…Vì thế không lạ gì khi thấy các cô phù dâu thiếp đi rồi ngủ cả. Các cô tuy không buộc phải tỉnh thức, nhưng buộc phải sẵn sàng để đón chàng rể với đèn cháy sáng cầm trên tay. Câu chuyện trên được áp dụng vào hai lãnh vực. Lãnh vực nhân loại và lãnh vực cá nhân.
Trước hết là lãnh vực nhân loại. Như chúng ta đã biết chàng rể trong câu chuyện là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người.
Tuy nhiên quan trọng hơn đó là lãnh vực cá nhân. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
Điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta không phải chỉ là tỉnh thức để biết được ngày giờ nào Ngài sẽ viếng thăm, nhưng cần thiết hơn, đó là thái độ sẵn sàng, để khi Ngài đến, chúng ta không bị bẽ bàng, hut hẫng và đắng cay vì sẽ bị loại trừ.
Vào năm 79 sau công nguyên, thành phố Pompei với trên 20.000 dân bất ưng bị một ngọn núi lửa vùi lấp dưới lớp tro bụi dày hơn 5 thước.
Các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người mà thịt rữa được thay thế bằng những lớp tro chai cứng. Hay họ dùng thạch cao để đắp lại thành hình người theo dựa theo những bộ xương trong tư thế y hệt lúc xảy ra tai nạn núi lửa. Những khuôn đức ấy cho thấy hành vi cuối cùng của một số người trong thành.
Trước hết là một người mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay của mình. Tiếp đến là một người lính gác trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, vẫn đứng thẳng tại vị trí của mình, còn người khác thì tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, bên cạnh là năm xác chết, có lẽ đó là những người đến để cướp bóc hay hôi của.
Nếu như hôm nay Chúa đến viếng thăm, liệu chúng ta có ở trong tư thế sẵn sàng với đôi tay chất đầy công nghiệp và một tâm hồn trong trắng, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn sáng đi đón chàng rể hay không?
5. Tỉnh thức
Chúa Giêsu hay nói về đám cưới, vì đám cưới của người Do Thái sống ở Palestine thời Chúa Giêsu là một cơ hội lễ lạc linh đình. Theo William Barclay, toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rể và cô dâu về nhà mới, họ đứng hai bên đường ca hát và chúc mừng những lời tốt đẹp nhất. Đôi tân hôn không đi xa để hưởng tuần trăng mật, nhưng ở tại nhà, suốt cả tuần lễ tiệc tùng, và được đối đãi quý trọng như hoàng tử và công chúa. Đây là tuần lễ quan trọng đáng ghi nhớ nhất trong đời của một người. Do đó, theo luật lệ của các thầy Rabbi, ngày lễ cưới là ngày hoan lạc vui tươi, tất cả khách đến tham dự được miễn trừ không phải giữ luật ăn chay.
Thánh lễ cưới theo nghi thức tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều đứng lên tập trung vào cô dâu đẹp đẽ trong y phục áo cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Còn chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên bàn thờ đón tiếp cô dâu.
Trái lại, trong nghi thức đám cưới Do Thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Trước hết, nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn… vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Tuy nhiên, theo bài Phúc âm diễn tả, năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến thì họ lại hết dầu. Điểm rất quan trọng cần lưu ý ở đây là thời xưa không ai được phép ra đường vào ban đêm mà không có đèn, nhất là trinh nữ. Vì bóng đêm với đầy dẫy sự nguy hiểm của gian tà tội lỗi!
Thánh Augustinô đã chú giải như sau: “Năm cô trinh nữ khờ dại trong bài Phúc âm hôm nay thực sự là ngu xuẩn. Họ khờ dại vì đã chểnh mảng giữ giới răn dễ dàng hơn, đó là mến Chúa và yêu người, để liều lĩnh giữ giới răn về sự thanh khiết”. Họ phải yêu thương tha nhân bằng việc thắp đèn dầu của mình soi sáng đường đi cho mọi người đến đón chú rể. Họ ngu xuẩn vì họ đã bỏ qua giới răn quan trọng và dễ thi hành này, “mến Chúa và yêu người”, để giữ một giới răn khó khăn là sự trong sạch. Theo William Barclay, tiệc cưới là những ngày hội vui tươi và linh đình, kéo dài cả tuần lễ. Ăn uống, vui chơi, đàn ca và khiêu vũ không chỉ dành riêng cho đôi tân hôn, nhưng cả bạn bè và những người thân đều được mời tham dự. Do đó, những cô trinh nữ khờ dại đã bị loại ra, uổng mất cơ hội hoan lạc đáng kể này!
Những nhân viên sĩ quan và thủy thủ đoàn cấp cứu của con tàu Titanic rất giống với những cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Họ đã không chuẩn bị đầy đủ cho điều có thể xảy ra vì họ tin rằng con tàu của mình không thể chìm nổi, nhưng trong một số trường hợp họ cũng không biết điều khiển máy móc làm cho những chiếc thuyền cấp cứu hạ thấp xuống nước nữa. Do đó, khi tai nạn xảy đến, tất cả chỉ là một đám đông hỗn độn: thủy thủ đoàn không được huấn luyện không biết phải làm gì. Và khi họ phát ra những chiếc phao cấp cứu, họ mới khám phá thấy rằng tất cả những dụng cụ cấp cứu và phao nổi đã quá ít so với số hành khách và thủy thủ đoàn.
Đừng bắt chước năm cô trinh nữ khờ dại. Họ nghĩ rằng có thể mượn được dầu từ người khác. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta. William Barclay ví von rằng, chúng ta không thể nào vay mượn được tính tình và nhân đức giống như vay tiền từ thẻ tín dụng! Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những biểu tượng của những cách sống của con người. Xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để biết sống sẵn sàng vâng theo đường lối của Thiên Chúa.
6. Sẵn sàng
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang. Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm khô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
7. Vừa mang đèn, vừa mang dầu
Suy Niệm
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết. Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình. Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ, nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật. Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ, như chú rể đến lúc nửa đêm. Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan, hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá!
"Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!"
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm, khiến đèn của mình hết dầu. Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan, vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya. Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ. Có đèn. Không đủ! Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ. Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại, có những người đèn đã hết dầu từ lâu… Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung, của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày… Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. Tỉnh thức không phải là không ngủ… Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ. Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày. Chẳng ai biết lúc nào tận thế. Chẳng ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ. Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức, khi nhận ra mình đã mê muội.
Gợi Ý Chia Sẻ
· Nạn ma tuý đã đi vào trường học và tác hại trên người trẻ. Theo ý bạn, phải làm gì để ngăn chặn?
· Nếu định nghĩa ma tuý là tất cả những chất gây nghiện, khiến con người có nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, không thể cưỡng lại được, thì theo ý bạn, đâu là những thứ ma tuý hiện nay đang mê hoặc giới trẻ? (rượu, cờ bạc, bạo lực, tình dục…)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
8. Mười người trinh nữ
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Tháng mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ, nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin tưởng và hy vọng.
Cái chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất, đó là cái chết.
Thật là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng, nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Trên bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên đó: "Người này đã nghỉ yêu trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa". Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chuía có đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và vui mừng kêu lên: "Lạy Chúa, này con xin đến". Thế nhưng chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa? Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:
- Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời:
- Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh chị em hay chưa? Liệu chúng ta đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí Tích Giải Tội hay chưa? Nếu chúng ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gội rửa tẩy sạch qua tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày lãnh nhận Phép Rửa Tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời, thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút kinh hoàng và khiếp hãi nữa.
Cuộc đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện. Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, cuộc sống muôn đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời. Amen.
9. Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa
(Suy niệm của Lm Vũ Thái Hòa)
Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.
Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.
Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Ki-tô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!
Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Ki-tô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.
Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Ki-tô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.
- Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.
- Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Ki-tô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?
Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Ki-tô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang…), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Ki-tô là ánh sáng thế gian.
10. Sống ngày cuối đời
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?”. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.
* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
Thưa anh chị em, những con số trên đây có lẽ không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xuyên qua kết quả của cuộc thăm dò này, chúng ta cũng có thể đọc được một tâm trạng chung của con người khi đứng trước cái chết; đó là nỗi sợ cô đơn. Cái chết là một cuộc ra đi đơn độc, một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân yêu của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt cho chúng ta trong giờ phút này, chúng ta sẽ làm gì?
Có lẽ chúng ta còn nhớ câu chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết: Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: “Nếu ngay bây giờ chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?”. Một số em bé trả lời: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện”. Một số em khác cho biết: “Con sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành…”. Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con có chết, thì giờ này con vẫn tiếp tục cuộc chơi”. Đó là câu trả lời của thánh trẻ Luy Gonzaga. Và câu trả lời đó đã làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bổn phận trong lúc này, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày: giờ nào việc nấy.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây… thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Vì thế, thưa anh chị em, qua câu chuyện dụ ngôn 10 cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến. Vì ngày giờ Chúa đến sẽ bất ngờ, không được báo trước. Dụ ngôn cho thấy có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Có nhiều người bị trách là “khôn nhà dại chợ”. “Khôn” những chuyện vặt vãnh mà lại “khờ” những chuyện trọng đại. “Khôn” những chuyện nhất thời hôm nay để rồi “dại” những chuyện ngàn đời mai sau. Có lẽ 5 cô khờ dại này đến giờ chót mới khôn ra (khôn đột xuất) và chạy đi mua “khôn”thì không kịp nữa rồi! Vì thế, chúng ta phải biết khôn ngay đi! Tin Mừng hôm nay đã cảnh giác chúng ta tỏ tường rồi đấy!
Bài học về sự khôn ngoan đã được Chúa Giêsu nói đến trong ví dụ về người khôn xây nhà trên nền đá (Mt 7, 24). Đó là người “nghe và thi hành Lời Chúa”. Khôn là chuẩn bị sống ngày hôm nay không gì khác hơn là “nghe và thi hành Lời Chúa”. Trung thành sống điều này là ta đã xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc để có thể đứng vững trong đêm tối âm u hay trong mưa sa bão táp. Ngược lại, không thi hành Lời Chúa, ta sẽ bị coi là kẻ khờ dại, vì đã xây nhà đời mình trên nền cát…
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn ở trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Đừng chậm trễ nữa, thưa anh em chị em, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: “Ta không biết các ngươi!” câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phát xét cuối cùng.
Anh chị em thân mến, hôm nay vẫn còn thời giờ để chúng ta “khôn”, vẫn còn thời giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thời giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rể cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn Tin-Yêu thắp sáng trong tay, họ sẽ được sung sướng gặp mặt Chúa: Thánh nữ Têrêxa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài Đồng âu yếm thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, nét mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại, ra đi nhẹ nhàng. Đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút, tối ngày 30 tháng 9 năm 1897.
Hai người trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn thắp sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Người Tình Lang” muôn thuở của mình.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa đến,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng…
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nóng cháy
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
11. Trinh nữ khôn ngoan – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 25,1-13.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ.
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU.
1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.
(89)
Phản hồi gần đây