Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Am 8, 4-7; 1Tm 2, 1-8; Lc 16, 1-13
MỤC LỤC
- Tiền bạc. 3
- Tên quản lý khôn khéo. 5
- Sử dụng tiền bạc. 7
- Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 9
- Sử dụng tiền bạc sao cho đúng – An Phong. 12
- Người quản lý trung tín. 15
- Trung tín – Lm Giuse Trần Việt Hùng. 19
- Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 23
- “Gieo gì gặt nấy” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 26
- Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 29
- Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống. 33
- Không thể làm tôi hai chủ. 38
- Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng. 42
- Khôn khéo. 48
- Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc. 51
- Không thể làm tôi hai chủ – Veritas. 53
- Tiền bạc – Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu. 56
- Không thể thờ hai chủ – Achille Degeest 59
- Hãy bắt đầu hơn là thế gian. 61
- Có tiền, hãy đem sử dụng! 64
- Những đồng bạc lẻ. 69
- Bản năng – McCarthy. 73
- Tiền bạc – McCarthy. 75
- Tên quản lý khôn khéo. 78
- Tiền bạc của chúng ta làm Chúa quan tâm.. 80
- Sử dụng của cải 82
- Tích trữ của cải thiêng liêng. 86
- Người nghèo. 88
- Hai chủ. 90
- Tiền của. 93
- Chữ T. 96
- Tính cách. 100
- Khôn ngoan đích thực. 102
- Khôn ngoan của con cái sự sáng. 105
- Phản bội – Lm Bùi Quang Tuấn. 109
- Bất trung hay trung tín- Lm Vũ Khắc Nghiêm.. 113
- Hãy biết lo cho tương lai! – Jos. Vinc. Ngọc Biển. 116
- Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX Vũ Phan Long. 121
- Chú giải của Noel Quesson. 131
- Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều. 137
- Hãy biết lo cho tương lai 144
1. Tiền bạc
Chủ đề của phần phụng vụ hôm nay là việc sử dụng tiền của hay nói đúng hơn đó là vấn đề tiền của trong mối liên hệ giữa người với người.
Thực vậy, qua bài đọc I, tiên tri Amốt loan báo những hình phạt Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên dân Do Thái, bởi vì họ đã đàn áp những kẻ nghèo khổ bần cùng, nghĩa là họ đã coi trọng tiền của hơn con người. Đặc biệt bài đọc thứ III với câu chuyện về người quản lý bất lương đã biết dùng đồng tiền để mua chuộc nhân nghĩa và qua đó, Chúa Giêsu đã nói về việc sử dụng tiền của.
Tại Galilêa, các chủ đồn điền thường không sống nơi trang trại của mình, trái lại họ trao phó công việc khai thác cho một người quản lý và các tá điền. Người quản lý sẽ hành động theo ý mình nhưng thỉnh thoảng phải tính sổ với chủ. Câu chuyện đã trình bày một trường hợp kém may mắn, đó là ông chủ đã gặp phải một tên quản lý bất lương. Hắn ta lợi dùng cơ hội để biển thủ tiền bạc và hoa lợi của chủ, đến độ người ngoài cũng hay biết và tố cáo với chủ. Ông chủ cho đòi người quản lý đến tính sổ và sau đó sẽ bắt phải nghỉ việc. Người quản lý thấy mình bị đặt trước một tương lai đen tối và để đối phó với tình thế, cũng như để bảo đảm cho tương lai, hắn đã lợi dụng những ngày còn lại để sửa đổi văn tự của các con nợ. Những con nợ này có thể là các tá điền, nhưng cũng có thể là các người mua bán nông sản. Số nợ này tính ra không phải là nhỏ. Một trăm thùng dầu, vị chi khoảng 4.500 lít. Rồi lại 1000 giạ lúa nữa. Đồng thời phần được bớt đi cũng rất lớn, người thì 50% kẻ thì 20% nghĩa là số nợ được bớt đi đủ lớn để con nợ phải mang ơn tên quản lý và rồi sẽ phải trả ơn bằng cách rước hắn ta về nhà một khi hắn ta bị thôi việc.
Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại khen tên quản lý gian dối và bất lương ấy? Thiết tưởng để trả lời câu hỏi này chúng ta cần phải hiểu cho đúng ý tưởng của Chúa. Dĩ nhiên ở đây Chúa không khen ngợi sự bất lương, sự gian giảo của hắn, nhưng điều Người muốn chúng ta bắt chước đó là phải có thái độ tỉnh táo, khôn ngoan và nhanh nhẹn, nhận ra tính cách cấp bách của thời thế, để rồi có được những hành động thích hợp theo đúng những đòi hỏi của Chúa, chứ không phải là chạy theo những toan tính của người đời. Một lần nữa, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một sự chọn lựa. Thời buổi đã đến và chúng ta phải dứt khoát chọn lựa giữa việc làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của. Vậy chúng ta đã thực sự chọn lựa hay chưa?
Dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, tiền của có sức làm cho con người trở thành nô lệ, nó là như một thứ thần tượng của con người, hay như chúng ta thường bảo: tiền của là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, bởi vì nó sẽ bóp nghẹt những tình cảm tốt đẹp của chúng ta đối với Chúa cũng như đối với anh em. Bao lâu tiền của chỉ là phương tiện thì nó còn đem lại lợi ích cho chúng ta. Thế nhưng, một khi nó đã trở thành mục đích của đời sống, nó sẽ khiến chúng ta quên lãng Thiên Chúa và sẵn sàng bóc lột và làm cho người khác phải khổ đau và túng thiếu.
2. Tên quản lý khôn khéo
Thánh Luca thường hay dùng câu chuyện để dẫn vào một bài học. Câu chuyện là tuỳ, bài học là chính. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một tên quản lý bất lương. Vì là điều tuỳ, nên thánh Luca đã không quan tâm đến những chi tiết, chúng ta chỉ biết anh ta bị mang tiếng là đã phung phá sản nghiệp của chủ và bị cho nghỉ việc.
Trước cái tin bất ngờ như sét đánh này, anh đã tính toán, giảm bớt số nợ của những người đã vay mượn ông chủ, biến họ trở thành người bạn, những kẻ đồng loã, sau này sẽ giúp đỡ anh. Cư xử như vậy là bát lương đối với chủ, nhưng đó lại là sự khôn ngoan của thế gian. Chúa Giêsu khen ngợi sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái thế gian đã khôn khéo hơn con cái sự sáng. Ngài không khen ngợi việc làm của hắn, vì hắn là kẻ bất lương, nhưng Ngài phải nhận rằng hắn là một kẻ khôn khéo và mau lẹ. Ngài đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời, người ta đã không mau lẹ và khôn khéo như vậy. Ngài đã đem ơn cứu độ đến trong lời giảng và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta lại hững hờ và chậm chạp quá vậy. Đó là điều đau lòng và đáng trách. Nhưng nếu muốn mau lẹ và khôn khéo đối với Nước Trời, thì chúng ta phải làm gì?
Và đây là bài học, là phần chủ yếu Chúa muốn gởi đến cho chúng ta. Thánh Luca đã không đưa ra một câu trả lời đầy đủ, vì các công việc phải làm để đón nhận Nước Trời thì nhiều và mỗi lần giảng, Chúa Giêsu lại nêu lên một góc cạnh nào đó. Điều Chúa muốn giáo huấn chúng ta hôm nay đó là vấn đề tiền bạc.
Trước hết Ngài muốn khuyên chúng ta hãy bắt chước óc sáng tạo và sự tích cực của tên quản lý mà lo lắng đến việc Nước Trời. Đồng thời cũng hãy bắt chước hắn trong việc tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Hắn đã tìm cách bảo đảm tương lai đời này thì chúng ta là con cái sự sáng, cũng phải tìm cách bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì và tiền của đời này có giúp ích được gì chăng?
Dĩ nhiên là có. Hãy dùng nó mà tậu của cho mình một kho tàng ở trên trời, nơi đó không có mối mọt và trộm cướp. Ngược lại nếu chỉ dùng tiền bạc mà làm ăn ở đời này thì khốn cho kẻ ngu ngốc vì khi chết liệu có mang theo được hay không? Nhưng thế nào là dùng tiền bạc để tậu cho mình một kho tàng ở trên trời?
Của cải vật chất được ký thác cho chúng ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi đó như thần thượng để tôn thờ, nhưng để chúng ta chia sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Vậy chúng ta phải chọn lựa: Hoặc coi tiền bạc là đối tượng mình phải tìm kiếm chất chứa cho thật nhiều, hoặc coi nó như của ký thác để giúp đỡ lẫn nhau. Quan điểm trên xem tiền bạc thành thần tượng. Còn quan điểm dưới, coi nó chỉ là phương tiện xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Như thế qua dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đi từ bình diện trần gian sang bình diện Nước Trời. Ngài nói đến sự khôn khéo của con cái thế gian mà thúc giục con cái sự sáng hãy lanh lẹ hơn đối với công việc thiêng liêng. Chúa không chấp nhận thái độ tham lam tiền bạc, biến tiền bạc nên thần tượng, ngược lại Ngài muốn chúng ta dùng tiền bạc để chia sẻ và giúp đỡ kẻ khác. Thái độ trước coi tiền bạc là một thứ tôn giáo, quan điểm sau nhờ tôn giáo mà chúng ta thấy cần phải chia sẻ mọi sự với mọi người.
3. Sử dụng tiền bạc
Đoạn Tin Mừng sáng này có vẻ khó hiểu, vì thế tôi xin bắt đầu bằng một câu chuyện:
Có một anh lính ba gai, không bao giờ làm hài lòng về cấp chỉ huy của mình là một ông đại tá. Mỗi lần trình diện thì hoặc là giày còn bẩn, súng chưa lau, hay tới chậm mất mấy phút. Hôm đó anh được xả trại và được tự do đi chơi cho tới 8 giờ tối. Vào lúc 7g45 anh vẫn còn lang thang ngoài phố. Bất ngờ anh trông thấy chiếc xe của ông đại tá. Định rẽ vào một con hẻm nhưng không kịp. Ông đại tá dừng xe trước mặt anh và nói: Đúng 8g anh phải trình diện tôi tại bộ chỉ huy, bằng không sẽ bị 3 ngày cấm cố.
Anh lính suy nghĩ thật mau. Chỉ còn 15 phút nữa. Đi bộ thì không kịp, đón xe thì không có. Lập tức anh chạy theo chiếc xe của ông đại tá. May thay chiếc cốp phía sau vẫn còn mở. Thế là anh vội nhảy lên và chui tọt vào trong. Ông đại tá cho xe chạy vòng vòng qua mấy ngã đường rồi trở về doanh trại. Nhưng khi xe vừa dừng lại thì anh lính cũng nhảy xuống và trình diện ông đại tá. Ông đại tá bèn khen: Anh đã hành động khôn ngoan, tôi tha phạt cho anh, từ nay trong mọi hoàn cảnh, anh cũng hãy hành động khôn ngoan như thế.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đã kể lại một câu chuyện tương tự như thế. Tên quản lý thực là là một kẻ trộm cắp. Chúa Giêsu không ca tụng sự gian tham của hắn, nhưng khen ngợi hắn đã hành động một cách khôn ngoan, và rồi Chúa đi đến kết luận: Không phải chỉ con cái thế gian, mà cả con cái sự sáng cũng phải tỏ ra thận trọng và khôn ngoan như vậy. Rồi Chúa cũng chỉ cho chúng ta cách thức để hành động khôn ngoan, đó là hãy dùng tiền bạc vật chất, hãy dùng tất cả những gì chúng ta có để tạo lấy những bạn hữu sẽ giúp chúng ta vào Nước Trời.
Để hiểu được điều đó, tôi xin kể tiếp một mẩu chuyện nữa: Ông chủ vườn chôm chôm giàu có, sáng nọ thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng nhìn vào một cách thèm thuồng. Ông là người yêu trẻ nên cho gọi hai em đến và bảo: Hai em cứ việc vô vườn ăn, nhưng không được đem trái nào ra.
Trước khi các em đi về, ông đã khám túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào cả. Nhưng ông lấy làm lạ vì thấy hai em đi theo bờ dậu, cúi xuống như lượm một cái gì đó. Đoán được mưu của hai em, ông cho gọi lại và hỏi. Hai em bèn phải thú thực rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sẽ lượm về cho em. Ông khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em đem những quả chôm chôm ấy về.
Hai em nhỏ là chúng ta. Ông chủ vườn là Thiên Chúa. Thửa vườn là thế gian. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được như tiền bạc, cơm gạo, áo quần… Những sự ấy chúng ta không thể đem theo khi từ giã cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một cách để hành động, chúng ta có thể ném ra ngoài hàng rào những cái chúng ta đang có, nghĩa là chúng ta chia sẻ phần tiền bạc vật chất cho những kẻ nghèo khó. Điều đó Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa. Nếu chúng ta hành động khôn ngoan, chúng ta sẽ trở thành bạn hữu của Chúa và chúng ta sẽ tìm thấy ở trên trời tất cả những gì mà trong cuộc sống trần gian chúng ta đã ném qua hàng rào, bằng cách cho đi để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh.
Để kết luận, chúng ta có thể nhớ lại lời Kinh Hoà bình của thánh Phanxico Assie: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
- Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
- Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
- Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian. Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
- Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
- Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
- Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?
5. Sử dụng tiền bạc sao cho đúng – An Phong
Tin mừng Chúa Nhật 25 Thường Niên C là dụ ngôn về người quản lý bất lương, bị ông chủ đòi tính sổ và không còn được làm quản lý nữa. Nhưng người quản lý này đã khôn ngoan và táo bạo để toan tính cho tương lai sắp tới của mình: gọi các con nợ đến và giảm nợ. Ông chủ đã khen ngợi hành vi đó. Tiếp đến, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên thực tế về việc sử dụng tiền bạc thế nào cho đúng: để mưu cầu hạnh phúc đời đời.
Đức Giêsu luôn gây những điều bất ngờ và nghịch lý. Những dụ ngôn “nghịch lý” như: Vị quan tòa bất chính (Lc 18,1-8), Người phú hộ ngốc nghếch (Lc 12,16-21), Người tá điền sát nhân (Mt 21,33-43)… đã minh chứng điều này. Dường như Đức Giêsu nhận ra những yếu đuối, thiếu sót và cả những “hào nhoáng” trong những nhân vật được xem là đáng kính trọng? Dường như có một chút hài hước và cay đắng đối với những người được xem là “đạo đức”? Điều này xem ra làm cho những người nghe Người bị sửng sốt. Thực vậy, khi đến trần gian, Đức Giêsu thường “bầu bạn” với những người tội lỗi. Người đến để cứu vớt những người tội lỗi. Như Thiên Chúa đã sáng tạo con người bằng bụi đất, và khi làm như thế Người chẳng sợ “dơ tay”, thì Đức Giêsu sẽ tái tạo nên một nhân loại sáng ngời, mới mẻ từ giữa những người tội lỗi. Điều này thể hiện lòng nhân từ của vị Thiên Chúa đến với con người.
Nhưng nhất là trong hoàn cảnh quyết liệt và bi đát, lòng nhân từ này vẫn rộng mở và gây nhiều ngạc nhiên. Dụ ngôn người quản lý bất lương là một tiêu biểu.
Người quản lý trong dụ ngôn này gây ngạc nhiên cho chúng ta, bởi lẽ anh ta bất lương, không trung thực trong việc quản lý của mình. Anh ta đã phải nhận lấy thảm họa cho chính mình. Anh đã biết sử dụng những “mánh khóe” và những quyết định tức thời để toan tính cho tương lai của mình trong một hoàn cảnh bi đát như thế. Điều ngạc nhiên hơn nữa là ông chủ đã khen ngợi cách hành xử của người quản lý này. Ông chủ đã thể hiện lòng nhân từ vượt quá lẽ thường tình. Theo lẽ thường, ông chủ sẽ tức giận, và không đồng ý lối giải quyết của người quản lý bất lương như trong câu chuyện.
Như thế, khi chúng ta phải đương đầu với những hoàn cảnh bi đát, bị loại trừ, chúng ta hãy dám hành xử một cách “táo bạo” và “sáng suốt” để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu cho mình, như người quản lý đã làm.
Lối hành xử táo bạo và sáng suốt này nghĩa là sao? Là dám tin tưởng vào lòng nhân từ vượt quá lẽ bình thường của Thiên Chúa. Là nghĩ đến tương lai và mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chính mình. Là luôn hy vọng và cậy trông dù trong hoàn cảnh bi đát nhất.
Những lời giáo huấn của Đức Giêsu về cách sử dụng tiền bạc: “Tiền bạc là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đày tớ tốt”. Tiền bạc được nói ở đây được xem như là đại diện những thực tại trần thế vốn chẳng tốt cũng như chẳng xấu; nó tốt hay xấu là tùy người sử dụng.
Người kitô hữu không “từ chối” tiền bạc nhưng biết cách “từ chối” phục vụ chúng, coi chúng như là một ông chủ. Chỉ có một đời sống nhưng với hai phương diện khác nhau: một là trong tương quan với Thiên Chúa hoặc đời sống tâm linh (cầu nguyện cá nhân, tham dự thánh lễ…), và một là trong tương quan với đời sống thường ngày (công ăn việc làm, nghỉ ngơi, giải trí…). Nhưng hai đời sống này (tâm linh và thường ngày) chỉ là một, chúng tác động lẫn nhau. Điều quan trọng là cách thế hành xử đặt Thiên Chúa lên trên hết, là định đúng bậc thang giá trị của mọi thực tại trần thế.
Như thế người kitô hữu tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thời cũng “táo bạo” và “sáng suốt” để đạt cho được hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa nhưng không xao lãng việc xây dựng xã hội trần thế.
Lạy Chúa Giêsu,
Người là Đấng Cứu thế khoan dung và nhân từ.
Là ánh sáng chiếu vào đêm tối chúng con.
Là bạn của con người. Chúa không chê ghét một ai.
Trái tim Người không khép kín
trước những toan tính ích kỷ của con người.
Xin cho chúng con tình yêu,
lòng thương xót và dịu hiền của Chúa.
6. Người quản lý trung tín
(Trích dẫn từ Logos)
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có ông Phùng Huyên giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh Thường Quân dặn: “Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua về”.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và tuyên bố: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá bỏ tất cả sổ nợ!”. Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình công việc với Mạnh Thường Quân: “Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa của cải, không thiếu vật gì cả, chỉ thiếu “điều nghĩa”, nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa đem về. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Họ Phùng đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế, dân chúng vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho tướng quân vậy”.
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường Quân nữa, ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và hoan hô ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay sang Phùng Huyên nói: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy”.
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua “điều nghĩa” làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Chúa kể dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” để giải thích lời dạy đó của Ngài. Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người quản lý đã bị ông chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc sống an nhàn sung sướng sau khi mất việc: anh ta đã lén chủ giảm số nợ của những người mắc nợ để dùng tiền bạc của chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” Chúa Giêsu có ý dạy hai điều:
- a) Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay, người ta rất chú trọng đến việc “đầu tư” nghĩa là bỏ vốn để sinh lời. Đồng tiền được “xoay vòng” là đồng tiền sinh lợi nhuận. Đó là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng vậy, với “định luật Nước Trời”, người ta có thể dùng của cải trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là, người ta có thể dùng tiền bạc phi nghĩa ở đời này để mua lấy kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những “đồng bạc biết cho đi”. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
- b) Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ ra là người khôn ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ để mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta “khôn” nhưng không “ngoan”, vì anh ta đã làm một việc gian dối để thu lợi một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta đã “không trung tín trong việc nhỏ nên cũng không trung tín trong việc lớn”, vì vậy anh ta đã bị chủ đuổi việc. Sau này, nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để trở thành người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho chúng ta biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần rỗi đời mình, cũng như làm lợi cho anh em. Nếu chúng ta biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và xứng đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất trung, chúng ta sẽ đánh mất chính mình và anh em. Nhưng “cái mất” lớn nhất là “đánh mất Thiên Chúa” là cội nguồn của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng đã lớn tuổi đến một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng trọ qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm thương hai vợ chồng không có chỗ nghỉ đêm trong một đêm mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói:
– Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông bà.
– Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu?
– Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người chồng nói với viên quản lý:
– Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một khách sạn lớn nhất nước Mỹ!
Hai năm sau, người quản lý nhận được một bức thư kèm theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của ông khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông khách trọ dẫn đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga đồ sộ mới xây và nói:
– Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú William Wadorf Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt làm quản lý trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời mình trong ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho tha nhân, chúng ta sẽ làm giàu cho chính mình trong cuộc sống mai sau.
7. Trung tín – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Ngày xưa có tên lái buôn gian xảo dùng mạt cưa pha vào cám đem bán. Nhưng có tên bán mướp, còn gian hơn. Hắn lấy mướp đắng, giả làm dưa leo bán giá đắt hơn. Ngày kia, hai gã gặp nhau. Cả hai người tưởng hàng của nhau là thật, liền thỏa thuận đổi cám lấy dưa về dùng. Cả hai người đều hí hửng. Nhưng tới lúc xài mới hay là của giả, rõ ràng gian lại gặp tham
Sự gian manh đã len lỏi đi vào lòng người từ rất xa xưa. Với lòng gian xảo, nhiều người tham lam đã dùng đủ mọi cách để làm lợi cho mình, bất chấp sự thiệt hại của tha nhân. Tiên tri Amos đã nêu ra những thói đời xấu xa: Các ngươi bảo: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả (Am 8, 5). Xưa cũng như nay, xã hội nào cũng có những người xấu chuyên môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo trá và dùng nhiều thủ đoạn để vun đắp phần lợi về mình. Họ dùng những đồ giả, đồ nhái hay đồ giả mạo che mắt người khác để bán kiếm lợi lộc cách bất công. Làm ít mà muốn hưởng nhiều, của giả mà đòi bán giá thiệt.
Mỗi thời đại đều có những tệ nạn xã hội khác nhau. Nơi đâu cũng có kẻ tốt và người xấu xuất hiện. Người tiểu tâm lại khéo nói và dễ gây cảm tình. Họ dùng rất nhiều mánh khóe để tìm lợi ích cho cuộc sống riêng tư. Họ khéo xử dụng miệng lưỡi để mua chuộc nhân tâm. Amos tố cáo âm mưu của họ. Họ nói: Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát” (Am 8, 6). Đối với họ, đồng tiền là trên hết. Họ có thể dùng tiền bạc đổi chác những gì mà họ ưa thích. Của cải không còn là phương tiện, mà trở thành chủ nhân và cùng đích cuộc đời. Cũng thế, khi say mê của cải phù vân ở đời, chúng ta dễ bị lệ thuộc và làm nô lệ cho của cải. Vì sự tham lam như chiếc túi không đáy. Đã có, lại muốn có thêm. Chúng ta chẳng khi nào cảm thấy đầy đủ.
Qua bài dụ ngôn Người Quản Lý, Chúa Giêsu vạch rõ cách cư xử khôn khéo của người đời. Tin rằng đời sống sẽ không bao giờ bị bế tắc, vì không ra được cửa này và sẽ luồn qua cửa kia. Người quản lý gian tham và bất tín đã tìm ra cách gian dối để cứu vãn đời mình. Đặt lợi ích đời sống của mình trước và bất chấp sự thiệt hại cho người chủ. Anh quản lý đã sửa đổi văn tự, giảm bớt giấy nợ và lấy của chủ cho đi để gây phúc cho mình. Phải nói rằng anh quản lý đã tính toán rất khôn ranh. Lương tâm của anh trở nên chai lì không còn nhậy bén về sự công bằng và ngay thật. Khi học biết sự việc đã xảy ra, ông chủ cũng thầm cảm phục sự khéo tính toán của anh ta: Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng (Lc 16, 8).
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta bài học về sự trung tín và ngay thẳng. Dù việc tư hay công, một hành động gian dối nhỏ, cũng sẽ làm thiệt hại lòng tin tưởng. Chúa nói: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn (Lc 16, 10). Đúng là một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Hình như sự gian dối cứ luẩn quẩn quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ở đời có mấy ai thoát khỏi sự dối trá, gian lận to hoặc nhỏ. Nói dối hoặc nói lối cách này hay cách khác để tránh nói sự thật. Có khi nói dối để tránh sự tò mò, vô thưởng vô phạt, không hại mình hay hại người. Người ta thường nói: Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Trẻ em thành thật hơn. Chúng ta ghi nhớ Giới răn Chúa dạy: Thứ Tám là chớ làm chứng dối.
Qua câu truyện trong dụ ngôn, Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta dùng tiền bạc cách khôn ngoan: Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời (Lc 16, 9). Tiền bạc gian dối là của cải trần đời. Tiền được lưu truyền qua tay người này tới người khác. Đồng tiền lang thang khắp chốn. Chúng ta chẳng biết tiền sạch hay dơ. Nhờ tín dụng, của cải tiền bạc có giá trị trao đổi. Tờ giấy đồng tiền có giá trị khi chúng ta biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ. Chúng ta có thể dùng tiền bạc đời này để sắm sửa gia tài đời sau. Với ý thức, tình yêu và lòng muốn, con người giúp hoán chuyển những giá trị của cải tạm thời hư không trở thành những món qùa vô giá. Những của cải mà chúng ta dâng cúng làm phúc, làm việc bác ái và giúp đỡ kẻ khó nghèo đã trở thành gia sản quí báu ở Nước Trời.
Truyện kể: Ngày kia, một cô hội viên từ thiện chuẩn bị gõ cửa để vào quyền tiền, thì nghe bà chủ nhà cằn nhằn cô tớ gái: Chị lại đốt phí một que diêm rồi đấy. Cô hội viên thầm nghĩ có lẽ mình sẽ quyên được rất ít. Tuy vậy, cô gõ cửa và cánh cửa mở ra. Bà chủ nhà tươi cười nói: Thưa cô, chắc cô vừa nghe tôi cằn nhằn, nhưng nếu tôi không tiết kiệm từng que diêm, thì ngày nay đâu có 500 quan tiền để giúp Hội Từ Thiện.
Tiền bạc của cải gắn liền với chúng ta suốt quãng đời trần thế. Của cải chỉ buông tha khi chúng ta nhắm mắt lìa đời. Biết rằng, cho dù chúng ta có gắng công làm giầu, gom góp và tích trữ của cải thật nhiều nhưng khi ra đi, chỉ có hai bàn tay trắng chẳng mang theo được gì. Khi đó của cải của chúng ta sẽ để lại cho người khác hưởng dùng. Nên biết cuộc đời của con người là một hành trình đi về cùng đích. Khởi đi từ trần thế và lữ hành về cõi sau. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời đang hướng về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không thể dừng lại bám víu vào của cải phù hoa thế trần. Chúng ta cần dứt khoát chọn lựa thái độ sống để hưởng hạnh phúc. Chúa Giêsu nhắc nhở: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13). Dĩ nhiên, chúng ta chọn làm tôi Thiên Chúa. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho. Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả. Thiên Chúa quan phòng yêu thương mọi loài thụ tạo. Kìa xem hoa qủa đồng nội, Thiên Chúa luôn chăm sóc thiên nhiên cho mưa thuận gió hòa tưới gội. Muông thú nơi rừng xanh và chim trời cá biển chẳng cần phải gieo vãi thu hoặch, Thiên Chúa vẫn nuôi chúng hằng ngày. Sự sống của con người đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Chúng ta cần nhận biết sứ mệnh làm người rất là cao cả. Thiên Chúa an bài cho con người cuộc sống an vui đời này và hạnh phúc đời sau. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêo viết: Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý (1Tm 2, 3-4). Cùng đích của cuộc đời là lãnh nhân ơn cứu rỗi và chung hưởng hạnh phúc quê trời. Chính Chúa Giêsu đã mở lối dẫn đường. Chúng ta không thể chọn lựa con đường nào khác. Một con đường duy nhất là chọn Thiên Chúa làm chủ và làm gia nghiệp đời chúng ta. Vì chỉ có một Thiên Chúa và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là con người (1Tm 2, 5).
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con đã xả thân tìm kiếm những của cải phù vân. Chúng con bán lương tâm để gom góp những của nợ hay hư nát của trần đời. Xin cho chúng con biết tỉnh ngộ, biết buông bỏ và nhận biết chân lý. Xin Chúa dủ thương dẫn dắt chúng con đến cùng Chúa và chọn Chúa làm gia nghiệp.
8. Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người quản lý trong Tin Mừng hôm nay, khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, nên anh nghĩ ra một diệu kế: Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị đuổi việc, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Hành động khôn khéo nầy cũng đã được một người khác thực hiện và đã được ghi lại trong sách xưa như sau:
Thời Chiến Quốc, tại Nước Tề có một vị tướng quốc tài hoa lỗi lạc là Mạnh Thường Quân. Ông là người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, hào phóng với hết mọi người. Trong nhà lúc nào cũng tấp nập khách thập phương thăm viếng, chuyện trò, ăn uống. Danh tiếng Mạnh Thường Quân vang khắp các lân bang thời ấy.
Một hôm, Mạnh Thường Quân sai một người bạn tên là Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi lên đường, Phùng Nguyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng : “Ngài có muốn tôi mua thứ gì bên đó về cho ngài không?” Mạnh Thường Quân trả lời : “Ngươi xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.” Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên triệu tập các con nợ của Mạnh Thường Quân lại và yêu cầu họ xuất trình giấy nợ. Sau khi nắm được số liệu giấy tờ, thay vì đòi họ thanh toán hết tiền gốc tiền lãi, Phùng Nguyên nhân danh Mạnh Thường Quân tuyên bố tha hết nợ cho dân và truyền cho các đầy tớ đem tất cả giấy nợ ra đốt sạch.
Thế là trong phút chốc, bao nhiêu nợ nần xưa nay biến tan theo làn khói; tất cả các con nợ thở phào nhẹ nhõm và ghi tâm khắc cốt ân đức của Mạnh Thường Quân.
Mấy hôm sau, thấy Phùng Nguyên trở về tay không, Mạnh Thường Quân hỏi: “Nhà ngươi đã thu được bao nhiêu tiền nợ? Đã mua được thứ gì?” Phùng Nguyên trả lời : “Theo thiển ý của tôi thì trong nhà của ngài chẳng thiếu gì cả, có chăng là thiếu ơn nghĩa dành cho người túng cực mà thôi. Chính vì thế, tôi đã trộm phép ngài để mua ơn nghĩa cho ngài. Tôi hy vọng là ngài sẽ rất hài lòng”.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị hàm oan và bị bãi quan, phải về nương náu tại đất Tiết. Dân chúng nơi đây nhớ ơn vị đại ân nhân đã tha nợ cho họ năm xưa, rủ nhau ra đón rước thật tưng bừng và thân mật. Mạnh Thường Quân vui sướng quay lại nói với Phùng Nguyên: “Nhà ngươi xem, chắc hẳn đây là cái ơn nghĩa mà trước đây nhà ngươi đã mua giùm cho ta!”
Dù hôm nay tôi cố hết sức bám trụ vào mặt đất nầy bằng cách củng cố thật vững địa vị của tôi, nắm ghì thật chặt chiếc ghế của tôi, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, tôi cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ… Tất cả những gì tôi mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì tôi đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Còn lại gì cho tôi?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy phải lấy của cải phù du để đổi lấy tài sản muôn đời và biết tận dụng những gì hiện có để mua sắm cho mình một nơi cư ngụ vĩnh cửu trên thiên quốc. Cụ thể là hãy dùng những ân huệ Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tài năng, trí tuệ, tiền bạc… để mua nghĩa, mua bè bạn, mua lấy một chỗ ở trong Nước Trời. Người tôi tớ bất lương trong Tin Mừng hôm nay quả là rất khôn ngoan khi biết lợi dụng tài sản mà anh được người chủ trao cho quản lý tạm thời để mua lấy bạn hữu và mua lấy nơi ăn chốn ở cho mình trong những ngày khốn đốn. Phùng Nguyên cũng đã rất khôn khéo khi dùng tiền bạc của Mạnh Thường Quân để mua ơn, mua nghĩa cho bạn của mình, nhờ đó mà sau nầy ông cùng Mạnh Thường Quân được hưởng phúc trong lúc sa cơ.
Phúc thay cho những người có tầm nhìn xa. Họ như thuyền trưởng phát hiện được tảng băng từ xa, nên có đủ thời giờ quay mũi tàu thoát hiểm. Họ như người săn tìm ngọc quý, bán đi những gì tầm thường mình có để mua cho bằng được một viên ngọc tuyệt vời.
Lạy Chúa, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi mê đắm những thứ phù phiếm đời nầy và biết khôn ngoan đánh đổi những thứ phù du để thu về những điều vĩnh cửu.
9. “Gieo gì gặt nấy” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một em bé hỏi cha rằng: cha ơi, có phải “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” hay “gieo gió gặp bão” là quy luật của cuộc đời phải không cha?
Người cha trả lời: Đúng đó con, quy luật cuộc đời là thế! Hễ “gieo gì thì gặt nấy”. Trồng cây cam thì sẽ ra trái cam. Trồng cây quýt thì ra trái quýt. Quy luật là nhất định, không thay đổi. Chúng ta đều biết những điều như: không học bài thì không thi đậu, không biết giữ sức khỏe thì sẽ sinh bệnh, biết siêng năng làm việc thì sẽ thành công trong sự nghiệp, làm việc tốt thì có nhiều bạn bè trợ giúp khi hoạn nạn v.v …
Vâng, ai cũng muốn nhận những cái hay cái tốt về mình. Ai cũng muốn gặt hái thành công. Nhưng những điều ấy không bao giờ tự dưng có mà là kết quả của những nỗ lực, gắng sức vun trồng. Ai cũng muốn được cuộc đời đãi ngộ vinh quang hạnh phúc, nhưng muốn được nó phải trải qua hy sinh đau khổ mới đạt được vinh quang. Ai cũng muốn được người khác quý mến, nhưng có mấy ai dám chịu thiệt thòi để trồng cây phúc để đời về sau?
Chuyện xưa kề rằng: Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
– Ngài có định mua gì về không?
– Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng: Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước?”
Mạnh Thường Quân đã biết mua cây phúc khi ông xóa nợ cho dân. Ông biết thân phận của mình “quan nhất thời dân vạn đại” nên đã biết mua cây phúc để phòng khi “sa cơ thất thế”. Có thể nói ông là một quản gia khôn ngoan, biết dùng của cải để mua lấy bạn bè, để lấy phúc cho mình về sau. Và ông đã có một kết cục tốt đẹp khi ông bỏ quan trở về thường dân lại được nhiều người thương mến đón rước.
Đó là quy luật cuộc đời. Có gieo có gặt. Cuộc đời con người muốn có bạn bè giúp đỡ, chia sẻ khi hoạn nạn thì cũng phải quảng đại dấn thân cho anh em trong hoàn cảnh và khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới có bạn bè trong lúc nguy nan.
Là người ky-tô hữu chúng ta còn tin có thưởng phạt đời sau. Công hay tội tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Thiên Chúa yêu thương nên ban cho chúng ta trông coi gia sản của Người. Ngài muốn chúng ta biết sử dụng gia sản cách khôn ngoan chính là làm phúc cho kẻ khác. Chúa không cho chúng ta chức vụ để “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ. Chúa không cho chúng ta tài năng để vun quén cho bản thân. Chúa cũng không cho chúng ta sự giầu có để tích lũy cho riêng mình. Chúa trao cho chúng ta chức vụ, tài năng, sự giầu có để ta hành động cho Thiên Chúa. Điều mà Chúa muốn nơi chúng ta là làm giầu có trước mặt Chúa bằng công đức của mình. Chúa cho mỗi người một công việc tùy theo khả năng của chúng ta, và Ngài mong muốn chúng ta biết chu toàn một cách chu đáo.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta là những quản gia của Thiên Chúa. Hãy biết sống trung tín trong bổn phận của mình. Đừng biếng nhác. Đừng mê ngủ trong tội lỗi đam mê. Hãy siêng năng làm việc để sinh lợi những nén bạc Chúa trao. Mỗi người chúng ta đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về những việc chúng ta làm và những việc đáng lý phải làm mà chúng ta đã từ chối bỏ qua.
Xin Chúa cho chúng ta luôn là những quản lý trung tin trong bổn phận của mình và hoàn thành tốt trách nhiệm đời mình theo như thánh ý Thiên Chúa. Amen.
10. Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Không biết đã từ thuở nào người ta đã coi “đồng tiền là Tiên là Phật”. Đồng tiền có thể thay đổi vận mạng của một đời người. Từ hèn ra sang. Từ lính quèn lên quan lớn. Đồng tiền còn có sức mạnh cải tử hoàn sinh. Từ bản án tử hình có thể trắng án vô tội. Đồng tiền còn làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thuỳ mỵ, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm “hư bột, hư hồ”. Xem ra không thể gọi đồng tiền là tiên là phật được, mà phải gọi là ma, là qủy. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên Phật đâu đang tâm gây nên những xáo trộn cho nhân thế. Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma qủy mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm cho con người tha hoá đạo đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao qúy của biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.
Thực vậy, đồng tiền luôn có một ma lực hấp dẫn con người. Nó làm cho con người “hoa mắt vì tiền”. Nó mê hoặc lòng người đến mất cả tính người, và trở thành tay sai cho ma qủy gieo vãi khổ đau cho nhân thế. Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. (Am 8,4-7).
Vâng, Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực. Chính Ngài sẽ đòi lại công bằng cho những kẻ bị bóc lột và ức hiếp. Từng hành vi của kẻ gian ác đều phải trả lẽ công bằng trước toà án Tối Cao. Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt lệ cho người cùng khốn. Và chính Ngài sẽ trừng phạt những kẻ gian tham vào nơi tối tăm, ở đó chỉ còn tiếng khóc lóc và nghiến răng.
Lời nguyền dành cho kẻ gian ác được đọc lên từ thời rất xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn còn đó những kẻ sợ có thêm một miệng ăn, một gánh nặng cho vợ chồng nên quyết định phá thai, giết người. Vẫn còn đó những kẻ dùng tiền để biến người khác thành hàng hoá, đồ vật để trao đổi và thoả mãn lạc thú. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì “tiền là trên hết”.
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý phải tuyệt đối trung thành với Chúa. Người quản lý không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma qủy. Làm tôi Thiên Chúa thì không thể để cho ma qủy dẫn dắt vào đường gian dối, tham lam và ich kỷ hưởng thụ. Cho dù có được những bổng lộc trần gian nhưng mất linh hồn thì được ích gì.
Ngày xưa, Alexandre Đại đế, một ông vua đầy uy quyền, đã truyền phải treo ở ngoài quan tài một bàn tay khô và trống trơn của ông, để nhắc nhở cho mọi người biết rằng: dù là Đại đế uy quyền, thì cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng và không thể đem theo bất cứ sự gì.
Đó là sự thật. Bên cạnh đó, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý gia sản của Thiên Chúa. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản lý trung tín hay bị đau khổ muôn đời vì những bất trung trong đời sống dương gian. Đau khổ hay hạnh phúc đời đời tuỳ thuộc vào cuộc sống hôm nay. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy can đảm vượt thắng những cám dỗ của tiền tài và lạc thú. Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để gieo rắc tình yêu và hạnh phúc cho nhân thế ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Giống như Mạnh Thường Quân năm xưa, khi ông còn tại chức, ông đã dùng quyền của mình để xoá nợ cho người nghèo, để giúp đỡ kẻ thấp hèn, đến khi ông thôi chức quan, và trở về quê hương, ông đã trở về giữa muôn tiếng reo hò của vạn dân mà ông đã từng giúp đỡ. Phải chăng đó cũng là cách hay nhất để chúng ta có được một ngày trở về nhà Cha giữa muôn tiếng reo hò của bạn hữu Nước trời? Amen.
11. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích dẫn từ ‘Nút vòng xoay’)
CĂN BỆNH NGUY HIỂM
Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10 năm 1990).
Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin. Ba láp! Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm truyền qua tiền bạc. Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng và băng cướp “quý tử” bị hầu tòa.
Tôi nghiệm ra ra thật có một căn bệnh như thế. Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy. Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn. Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu. Có ba dấu vết:
- Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.
Tiền bạc vốn lạnh lùng. “lạnh như tiền”. Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ. Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy bác tính toán sai một đồng.
Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ xót xa. Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế cho tình thân. Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin”.
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông và chết rồi vẫn cần tiền để ma chay tốt đời đẹp đạo. Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự nghiệp và già cần tiền để dưỡng thân. Đời cần tiền để phát triển nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở mang.
Tiền cần nên tiền quý. Người làm ra tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể vì. Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con người. Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản và con người. Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy. Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả. Và nguy hiểm là ở chỗ đó.
Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng một em đóng tiền nhiều nhất.
- Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.
Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm tiền.
Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa thì ở đó căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.
Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó là lương thiện. Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền và lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi. Thiên Chúa ư? Ngài đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!
Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền. Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn bệnh nguy hiểm. Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là đồng tiền đi liền với bạc bẽo.
Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm: “Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe”. Mà nào có được đâu! Mời suy nghĩ.
- Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền.
Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền. Không có gì đáng nói nếu chỉ có thế. Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di căn. Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính… Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”. Ngoài ra chấm hết. Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói “tiền tệ”. Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, tiền là sức bật con người, tiền là nụ cười tuổi trẻ, tiền là sức khỏe người già, tiền là cái đà danh vọng, tiền là chiếc lọng che thân, tiền là cán công công lý. Hết ý!”
Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền. Nhưng khi cẩn trọng quá hóa keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít. Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc ruột mà không ai biết.
Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài vung vít. Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai. Khi vung vít nặng là khi “vung tiền qua cửa sổ” dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài. Rồi khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng tiền và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền” khúc ruột.
Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền? Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một chữ Tín. Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu. Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng. Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền. Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.
Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.
12. Không thể làm tôi hai chủ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”. Có gì khiến Chúa phẫn nộ đây! Mấy người buôn bán chỉ tìm lợi nhuận để làm giầu, đến nỗi ngày sabbát trở nên một rào cản đối với công việc kinh doanh của họ trên lưng những người nghèo. Tuy nhiên, họ không thể viện dẫn khủng hoảng để bảo đảm cho công việc của mình. Vào thời bình an, kinh tế thịnh vượng; người ta tin vào những người tín hữu sống gương mẫu để diệt trừ tận gốc việc tôn thờ ngẫu tượng trong đất nước, chấm dứt sự tôn thờ các thần Baal.
Nguồn gốc của tội lỗi thể hiện trong tương quan giữa con người với ngày của Chúa, ngày sabbát. Ai không biết ngày sabbát là người không biết, không tin vào Thiên Chúa, người đó phục vụ một ông chủ khác là: Tiền bạc. Sự bất chính làm cho cán cân công lý bị sai lệch để sống ngày sabbát.
“Ta sẽ không bao giờ lãng quên”, Thiên Chúa tuyên bố một cách trang trọng như thế. Con người có thể làm quen với sự bất chính và biện minh cho tội lỗi của mình, nhưng thực ra lại chộp lấy một ngày khác. Một xã hội được xây dựng trên sự bất công là xúc phạm tới Thiên Chúa. Vì sự tôn thờ ngẫu tượng còn nguy hại hơn tôn thờ thần Baal: Tiền bạc làm cho lòng người tham lam vô độ và biến tha nhân thành nô lệ;
Vũ khí đầu tiên để chống lại sự tha hóa này là cầu nguyện. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch”. Ngài giải thích: “Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa.” Ý Chúa “muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý”, có nghĩa là, để ra khỏi chốn tù đầy bất công, con người cần phải biết đến Thiên Chúa tình yêu, Ngài đã yêu thương họ và sống cho tình yêu ấy. Chính vì vậy, mỗi Thánh lễ, lời cầu nguyện của chúng ta là phổ quát. Khi xin Thiên Chúa cho chúng ta ơn nhận biết tình yêu của Ngài đối với nhân loại, chúng ta xin Ngài chỉ cho chúng ta biết hành động thế nào để xây dựng một thế giới công bằng và văn minh hơn. Trong một thế giới như thế, tương quan hỗ tương là cần thiết: người ta sẽ gọi nhau là anh em. Để minh họa, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn. Khung cảnh diễn ra nơi nhà người giầu, có một viên quản lý, khi thấy anh ta lừa đảo, dối trá. Chủ liền cách chức và bắt tính sổ, không ai hay biết việc anh quản lý nghĩ gì. Chỉ thấy anh giảm nợ cho các con nợ của ông chủ. Anh ta dễ dàng hào hiệp với sự giầu có của người khác!
Thật là lạ, ông chủ khen anh…không phải vì anh lương thiện, cho bằng anh đã khôn khéo trong cách đối xử với đồng loại. Đây là điểm sáng cho tất cả người kitô hữu chúng ta. Đức Giêsu cũng bảo chúng ta: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.” Thật vậy, toàn bộ đời sống ta hướng về Chúa, và chúng ta được mời gọi nhìn mọi sự trên thế gian này như là phương tiện để lắm bắt lấy. Tiền bạc là một phương tiện, người quản lý gian dối đã dùng. Chúng ta sử dụng tiền bạc với tinh thần siêu nhiên như Thiên Chúa mời gọi. Vậy, hãy làm phúc hoặc ký gửi sinh lời để giúp đỡ, hoặc tha nợ cho những người nghèo mà, chính họ mai sau sẽ đón tiếp chúng ta vào nhà của họ, ngày mà thần chết sẽ đến để chia rẽ chúng ta với của cải tiền bạc. Nhà của người nghèo như Đức Giêsu dạy chúng ta, chính là Nước Thiên Chúa! Vậy hôm nay, hãy cho đi để mai sau được nhận lãnh nơi nhà Cha trên trời.
Tất cả chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tôi, đều được đặt làm người quản lý các ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại ích kỷ, khép kín lòng mình trước sự độ lượng của Chúa Thánh Thần? Tại sao ta lại dập tắt lòng trắc ẩn của Chúa Thánh Thần, và mua anh với sự nghèo hèn của họ? Hãy sẻ chia, hãy phân phát tất cả những gì chúng ta đã nhận lãnh, như người quản lý khôn khéo. Đây là thái độ làm hài lòng ông chủ và bảo đảm cho chúng ta có một chỗ trong nhà Cha trên Trời.
Đây là sứ điệp trung tâm của đoạn Tin Mừng: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”. Chúng ta quyết định ung dung “làm tôi Tiền của”, trong khi chúng ta là con cái Thiên Chúa và hạnh phúc vì làm con; tại sao lại tôn thờ thần tượng tiền của, cùng với thế gian này sẽ qua đi và cửa Nước Trời sẽ đóng lại? “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ.” Chỉ có một chủ chứ không có hai chủ. Ai làm đầy tớ cho tiền bạc, người ấy đương nhiên không có quyền làm ông chủ; chính họ mang trên mình cái ách nô lệ này. Sự giầu có không sinh ra với chúng ta, không theo chúng ta đến cùng đích của cuộc đời. Trái lại, Đức Kitô, ở với chúng ta vì Ngài là sự sống… Đừng là những tên nô lệ. Quả thật, đồng tiền đúng ra không có quyền, nó là tên nô lệ bất chính (gian dối).
Đức Giêsu cảnh cáo chúng ta, tiền của còn đáng sợ hơn khi nó làm cho chúng ta tin vào sức mạnh của chính mình, tự cho mình là hoàn hảo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy làm phúc và cho đi. Nếu người nghèo cần đến người giầu, thì người giầu cũng cần đến người nghèo, vì sự chia sẻ là nền tảng của đời sống huynh đệ và hạnh phúc. Người này học người kia sự đón nhận người khác là rất cần thiết cuộc sống, ai cho đi kẻ ấy phải là người khiêm nhường nhất.
Tiền của nguy hại cho tình bằng hữu, nó cũng nguy hiểm cho tương quan của chúng ta với Chúa. Đức nguyên Giáo hoàn Bênêđictô XVI nói: “Tiền bạc cho phép chúng ta hạnh phúc và làm ra của cải trên thế giới, nhưng tiền của mà thôi không đủ mang đến hạnh phúc cho chúng ta. (…) hạnh phúc là một cái gì đó mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nhưng một trong những thảm kịch của thế gian này là con người không bao giờ tìm thấy, vì nó không ở chỗ con người tìm kiếm. Chìa khóa hạnh phúc rất đơn giản: hạnh phúc thật chỉ thấy ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải can đảm đặt hy vọng tuyệt đối ở nơi Thiên Chúa, không phải nơi tiền của, nơi sự thành công thế gian, hay nơi người đời, nhưng là ở nơi Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người” (Thư gửi các bạn trẻ trường công giáo Twickenham).
Bây giờ chúng ta tự hỏi: chúng ta đặt hy vọng vào ai? Chúng đã chọn hạnh phúc nào: hư không qua đi với thế gian này hay sự khiêm nhường thật để đến cùng Thiên Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con cách sử dụng tiền bạc và của cải ở thế gian này cách tốt nhất để chuẩn bị cho đời sống mai sau. Xin gìn giữ chúng con trong Chúa Thánh Thần, giúp chúng con tôn trọng phẩm giá anh em. Như thế, chúng con sẽ làm vui thỏa lòng Cha trên Trời và góp phần cho triều đại Nước Chúa ở đây và ngay bây giờ. Amen.
13. Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
ĐỒNG TIỀN ĐẾN
Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy đồng tiền có quan hệ “máu mủ” với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý , thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng người sang có gang có thép”. Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, tiền là…hết ý!”.
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách! Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm tin thiêng liêng nữa. Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc! Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết – nhưng muốn biết cũng không khó – nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ…
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích phổ thông nhất là “hưởng thụ”. Trong Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31). Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”, càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai. Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy” tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một cách khác, ai là người “giả”, ai là người “thật”! Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài” giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng “thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có “sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với đồng loại.
“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn. Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương. “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo… Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành. Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra “nhân từ” bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình trên TV !
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46). Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng mình? Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người biết nói vậy. Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.
– Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
– Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
– Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì “không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9). Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được gì ư? Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.
14. Khôn khéo
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Cuộc đời này tươi hơn nhờ có người say mê nó. Các vận động viên chịu khổ luyện để phá một kỷ lục. Các nhà khoa học tận tụy để tìm ra một phát minh. Các văn nghệ sĩ nhọc nhằn cưu mang một tác phẩm. Các nhà kinh doanh bù đầu với chuyện nắm bắt thị trường. Phía sau một tấm huy chương, một bằng khen, một giải thưởng, có bao là mồ hôi nước mắt.
Say mê cuộc đời này chẳng có gì đáng trách. Người Kitô hữu cũng sống hết lòng với cuộc đời này, nhưng họ không say mê như thể chỉ có nó. Đúng ra họ say mê đời này vì họ say mê đời sau. Đời này chỉ là con đường dẫn đến mục đích tối hậu.
Sau khi kể xong dụ ngôn về người quản gia khôn khéo, Đức Giêsu phàn nàn vì chúng ta, những con cái ánh sáng, lại không khôn bằng những người chỉ biết có đời này. Người quản gia khôn vì ông dám đối diện với thực tế, đó là chuyện ông bị chủ cho thôi việc. Ông khôn vì ông biết giới hạn của mình: Không đủ sức cuốc đất, không đủ mặt dầy mặt dạn để đi ăn xin. Ông khôn vì ông biết xoay sở, tìm ra phương án tốt nhất, biết tận dụng quyền hành còn lại của mình để đem đến cho tương lai bấp bênh một bảo đảm.
Đức Giêsu không dạy ta bất lương như người quản gia. Ngài dạy ta biết khôn khéo như ông khi gầy dựng cho đời mình tương lai vĩnh cửu. Có vẻ đời sau thì xa xôi, không có sức thu hút, không làm chúng ta say mê và dám đánh đổi tất cả. Chúng ta thừa sôi nổi để xây dựng tương lai đời này, nhưng lại thiếu táo bạo để xây đắp tương lai đời sau.
Chúng ta biết xoay sở để việc làm ăn khỏi thua lỗ, nhưng chúng ta lại thiếu cương nghị và dứt khoát để đầu tư mọi sự mình có cho Nước Trời. Cái giằng co của đời sống Kitô hữu nằm ở chỗ vừa say mê cuộc đời này, vừa say mê vĩnh cửu.
Họ say mê cuộc đời này không thua bất kỳ ai, bởi vì giữa cái mau qua, họ gặp được vĩnh cửu. Kitô hữu làm việc, vui chơi như mọi người, nhưng vẫn có cái gì rất khác nơi họ. Không phải vì họ dành cho Chúa một thời gian ít ỏi để đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ… nhưng vì họ đã để Chúa đi vào toàn bộ đời mình.
Chúng ta cần giữ một sự thăng bằng trong cuộc sống. Sự thăng bằng này lại nằm ở chỗ chúng ta nghiêng về phía Chúa và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc, của cải không phải là điểm tựa, dù ta rất cần tiền và phải kiếm tiền để sống.
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của, không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc. Tôi tự hỏi những chủ nào đang thống lĩnh đời tôi. Ước gì tôi được tự do nhờ biết làm tôi cho Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Đồng tiền là tiên, là phật, và cũng có thể là vị chúa đầy hấp dẫn quyền uy. Bạn có kinh nghiệm gì về sức mạnh của đồng tiền? Bạn có thấy ai đánh mất mình vì nô lệ cho tiền bạc không?
- Người Kitô hữu cũng dễ mất hút giữa những bon chen của đời thường. Theo ý bạn, nếu sống chân thật lương thiện, người Kitô hữu có hy vọng thành công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ. Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra. Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước những đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Ù Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát.
Ù Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Ù Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng, để chúng con được tự do bay cao.
15. Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới lập đàn giải trừ tai nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn tay luôn chân, không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức, ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang họa, liền thuê người khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi, tôi tự mình lần về miếu cũng được.
Những người coi đồng tiền to lớn hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.
Ù Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Ù Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng của cải phù du, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Ù Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ” là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Tác giả Augier còn viết: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn ba tìm kiếm những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết khôn ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời. Amen.
16. Không thể làm tôi hai chủ – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Một nhật báo bằng tiếng Pháp đã có một bài bình luận như sau về đời sống của những người Kitô: Phúc âm của các người là một vũ khí mạnh sức hơn triết lý Các-mác của chúng tôi. Tuy nhiên, nếu cứ theo tình trạng này về lâu về dài, chúng tôi sẽ chiến thắng trên các người. Vì làm sao người ta có thể tin vào Phúc âm được, nếu các người không thực sự sống Phúc âm đó. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu các người không chịu hy sinh thời giờ, tiền bạc cho chính nghĩa Phúc âm thì làm sao có người tin vào Phúc âm; nếu các người không chịu cực, các người không chịu xắn tay lên hành động cho Phúc âm.
Những nhận xét trên không khỏi đánh động chúng ta và làm chúng ta xét lại chính nếp sống của mình. Dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người quản lý bất trung được nhắc lại trong bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay mà chúng ta vừa đọc lại cũng tích chứa cùng một sứ điệp thức tỉnh chúng ta. Chúa Giêsu không khen người quản lý bất trung, không đề cao nếp sống của người quản lý bất trung cho chúng ta noi theo, nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta phải tránh thói khôn ngoan tinh xảo của người đời.
Nội dung chính của Lời Chúa dạy qua dụ ngôn trên hệ tại ở điểm so sánh. Người quản lý bất trung đã vận dụng những khả năng của anh như trí óc, khôn khéo, chịu khó nghiên cứu kế hoạch để mưu cầu điều lợi cho bản thân anh. Cuộc đời của anh chỉ hướng duy nhất về điều này mà thôi là “sống vì tiền của”. Chịu làm nô lệ cho tiền của, vận dụng mọi khả năng của mình để tôn thờ tiền của, đó là con cái đời này khôn ranh, siêng năng, chịu khó hơn con cái sự sáng. Chúa Giêsu không khen người quản lý khôn ranh, nhưng qua lối so sánh, Chúa Giêsu muốn chúng ta, những người đồ đệ của Ngài, những con cái sự sáng biết tích cực dấn thân phụng sự Chúa với sức hăng say, với sự hy sinh. Hy sinh thời giờ, tiền của với việc kiên trì làm điều tốt để thực thi Phúc âm Chúa.
Chúng ta có Phúc âm, có sự thật được Chúa mạc khải, nhưng nếu chúng ta có thái độ ù lì, không tích cực xắn tay áo lên chịu cực, chịu hy sinh để thi hành Lời Chúa thì chúng ta đáng Chúa trách là thua xa người quản lý bất trung trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Một cách cụ thể hơn, hôm nay tôi muốn nhắc lại nơi đây một điểm trong nội dung của bức thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Bức thư trình bày đường hướng mục vụ trong bối cảnh mới là đối thoại. Yêu thương và phục vụ anh chị em. Một đường hướng rất hay, nhưng đòi hỏi nhiều can đảm dấn thân thi hành thực sự những gì cần được trình bày trong đó. Nói theo ngôn ngữ của tờ báo vừa được trích dẫn trên thì đây là thứ vũ khí mạnh hơn triết lý của Các-mác. Đây là tinh thần Phúc âm cần được mỗi người đồ đệ của Chúa tại Việt Nam trước tiên noi theo. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lưu ý rằng, để thực hiện chương trình đối thoại, yêu thương và phục vụ anh chị em thì mọi thành phần dân Chúa, mỗi người cần phải kiên trì, can đảm đổi mới. Các Giám Mục Việt Nam đã viết như sau: “Đổi mới bản thân là điều căn bản để có thể yêu thương và phục vụ”. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến đổi mới lòng đạo, nội lực của chúng ta là lòng tin, lòng mến được Thiên Chúa ban cho. Lòng đạo đức thật theo thánh Giacôbê là yêu thương phục vụ người nghèo khổ và giữ mình đừng vướng vào những thói xấu của thời đại. Thánh Phaolô cũng cho thấy ý Chúa là yêu thương, là phục vụ nhau. Lời Chúa, những bí tích và đời sống cầu nguyện là những phương thế hữu hiệu giúp đổi mới bản thân. Chuyên tâm đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa, chuyên cần lãnh nhận các bí tích một cách sốt sắng, cầu nguyện kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa sẽ thanh luyện ta khỏi thói ích kỷ, đem lại cho ta nguồn sức mạnh để quảng đại phục vụ quên mình theo gương Chúa Giêsu Kitô.
Để thực hiện những điều này mà thôi theo lời dạy của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong bức thư chung này chúng ta cần phải cố gắng, cần phải vận dụng hết sức mình lên.
Hôm nay, trong thánh lễ này chúng ta hãy xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta có được nội lực, có được sự khôn ngoan và tích cực dấn thân thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta trở thành những người quản lý tốt ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta. Xin Chúa đồng hành với chúng ta trong giai đoạn mới của lịch sử tại Việt Nam, để chúng ta mỗi ngày một trưởng thành hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
17. Tiền bạc – Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Tiền bạc là một vấn đề lớn trong đời sống con người và xã hội. Phụng vụ Lời Chúa, đặc biệt là bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói chuyện về tiền bạc cho chúng ta nghe.
- Tiền bạc là người đầy tớ tốt
Đức Giêsu kể chuyện một ông quản lý bất trung, dùng tiền bạc của chủ để mua bạn bè. Biết mình sắp bị đuổi việc, anh sửa lại sổ sách làm lợi cho con nợ. Người nợ 100 thùng dầu, anh sửa lại là 50. Kẻ nợ 1.000 giạ lúa, anh sửa lại là 800. Kết quả là sau khi mất chức quản lý, anh vẫn còn được các con nợ đón tiếp: nay ở nhà con nợ này, mai ở nhà con nợ kia.
Là người ai cũng phải chết, có giàu sang phú quí đi nữa cũng chỉ vỏn vẹn ba tấc đất là mồ. Vậy chúng ta phải tính toán trước sau, phải khôn khéo trong việc dùng tiền của như ông quản lý bất lương đã làm là “dùng tiền của đời này mà làm việc thiện, mua lấy bạn bè, mua lấy sự sống đời đời”.
Việc thiện hôm nay ta làm là vốn liếng dành cho mai sau. Tiền làm việc thiện là người bạn trung thành theo ta về đời sau. Việc thiện không chỉ là đem cơm áo đến cho người nghèo, nhưng là tham gia mọi sinh hoạt có mục đích phát triển con người toàn diện: nâng cao dân trí, làm đẹp dân sinh, phát huy dân đức.
- Tiền bạc là thước đo lòng người
Làm sao nhận biết được người công chính và kẻ bất lương? Cứ xem cách người ta xử dụng tiền bạc: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai dám tín nhiệm mà trao phó của cải chân thật cho anh em.”
Mathêu là nhân viên thu thuế, một nghề hái ra tiền, nhưng đã bỏ nghề để đi theo Đức Giêsu làm tông đồ, sống lang thang nay đây mai đó. Từ đó ta nhận thấy tấm lòng của Mathêu. Một người đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Ông yêu Chúa thật lòng, mến Chúa trên hết mọi sự.
Trái lại, Giuđa Iscariôt, một kẻ vô danh, được Đức Giêsu chọn gọi làm tông đồ và tin tưởng giao cho chức quản lý, nắm giữ túi tiền của tông đồ đoàn. Nhưng anh ta đã lợi dụng chức vụ để ăn cắp tiền của tập thể và tính toán trong việc từ thiện. Anh ta tìm đủ mọi cách để kinh doanh Tin mừng và rao bán Thày của mình nhằm kiếm chác lợi nhuận. Tin mừng kể rằng: “Bấy giờ một trong nhóm Mười Hai là Giuđa Iscariôt đi gặp các Thượng tế mà nói: Tôi nộp ông ấy cho quí vị, quí vị cho tôi bao nhiêu? Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc.” (Mt 26,15). Từ đó ta nhận thấy lòng dạ của Giuđa. Anh ta là một con người giả dối, ham tiền và bỉ ổi. Tiền bạc đối với anh ta là trên hết. Anh ta đã được Đức Giêsu đánh giá “thà đừng sinh ra còn hơn”.
- Tiền bạc là một vị thần xấu
Khi người ta tôn thờ tiền của vật chất, coi tiền bạc là tiên là phật, là cùng đích của cuộc đời, thì lại là lúc người ta bị Tiền Của làm cho thoái hoá biến chất. Tông đồ Giuđa là một chứng cứ hiển nhiên. Chính vì thế mà hôm nay, Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.
Không chỉ có Đức Giêsu mới cảnh báo chúng ta về sự nguy hiểm của tiền bạc mà từ xa xưa Tiên tri Amos cũng đã nhân danh Thiên Chúa vạch trần tội ác của những kẻ tham tiền: “Bao giờ ngày mồng một qua đi cho ta còn bán lúa, bao giờ mới hết ngày sabat, để ta bày thóc ra. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm. Ta sẽ làm lệnh cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ, cả lúa nát gạo mục ta cũng đem ra bán”. Quả thật, tất cả mọi tội ác trên đời này đều do tiền mà ra:
Con bất hiếu với cha mẹ, trò phản thày, dân phản quốc…, nếu truy cho đến cùng, thì bị cáo đầu tiên chính là tiền.
Một chế độ thối nát rồi sụp đổ, một tôn giáo suy thoái hay một tổ chức từ thiện bị tai tiếng, thì nguyên căn bản nhân chính là tiền.
Những cảnh buôn bán sức lao động, buôn bán phụ nữ và trẻ em vẫn xảy ra thường này như cơm bữa. Nguyên nhân chính cũng là tiền.
Những tổ chức mafia: buôn bán hêrôin và vũ khí…, đều là những tội ác tày trời, gây nguy hiểm chết người. Luật pháp quốc tế và quốc gia sẽ bỏ tù và trừng trị đích đáng những kẻ này. Thế mà lắm kẻ vẫn lao đầu vào như con những con thiêu thân. Tại sao? Tại vì hám lợi, tham tiền.
Lạy Chúa, hôm nay Chúa nói cho chúng con nghe về tiền bạc. Xin cho chúng con biết dùng tiền của cho nên, để mưu cầu hạnh phúc cho chúng con và tha nhân ở đời này và đời sau. Amen.
18. Không thể thờ hai chủ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn viên quản lý bất lương đòi hỏi người đọc đừng nghĩ lan man khi tìm cách giải thích các chi tiết. Chủ ý dụ ngôn cho thấy, trước hết người ta phải quan tâm đến tương lai vĩnh cửu của mình, phải sử dụng hết tâm cơ tài trí ít nhất cũng như trong việc lo toan của cải vật chất. Một lần nữa Đức Giêsu lưu ý các môn đệ về vấn đề thiết yếu vượt trên mọi vấn đề, ai ai cũng phải dốc tất cả nghị lực, sức lực vào vấn đề cơ bản đó. Những vấn đề còn lại là phụ, sẽ giải quyết sau. Vấn đề cơ bản ấy là bổn phận phục vụ Thiên Chúa, nó trùng hợp với hạnh phúc con người. Từ ngữ ‘của bất lương’ phải hiểu theo nghĩa nào?
1) Căn bản sự sở hữu những của cải thế gian luôn luôn chứa đựng một nguy cơ bất công. Tuỳ theo mức giàu có vật chất, một câu hỏi ít hay nhiều nghiêm trọng được đặt ra: Khởi từ lúc nào việc sở hữu kéo theo một sự tước đoạt quyền lợi kẻ khác? Ai cũng biết, bình đẳng tuyệt đối về của cải là một ảo tưởng, và bất bình đẳng mau chóng biến thành bất công. Dưới mắt Đức Giêsu, giàu về vật chất là một hiểm hoạ. Rất nhiều lần Chúa trở lại vấn đề này, lúc thì bài xích, lúc thì thương hại cảnh giác. Qua từ ngữ ‘của bất lương’ chúng ta phải phát giác nguy cơ bất công đàng sau sự sở hữu vật chất.
2) Của bất lương là thứ của cải thế gian nào khiến cho tâm hồn quay ra phía khác chứ không hướng về Thiên Chúa. Tội bất công nặng nhất là tội không thờ kính Thiên Chúa hết lòng như bổn phận phải làm đối với Đấng Thượng Đế. Dồn hết tâm trí vào việc làm giàu mà quên Thiên Chúa là phạm tội biển thủ bởi lẽ để cho của cải thế gian chiếm đoạt tâm hồn đã được tạo dựng cho Thiên Chúa.
3) Người ta băn khoăn: vậy có lối xử trí nào để con người có thể tha thiết với của cải đời này mà không xa lìa Thiên Chúa? Đức Giêsu đáp: không thể cùng một lúc phục vụ hai chủ. Thật vậy, khi lao mình vào phục vụ tiền bạc thì chung quy con người phục vụ ông chủ nào? Trong trường hợp ấy, ông chủ chính là bản thân con người để lộ ra cái chất gì xấu nhất, nó là tư lợi, là lòng ích kỷ. Dung hoà hai sự thờ phụng –tôn thờ bản thân và tôn thờ Thiên Chúa- là việc không thể làm được.
4) Nếu vậy, phải khinh chê tiền bạc ư? Đồng tiền kiếm bằng mồ hôi nước mắt, cần để sinh sống, có thể san sẻ giúp đỡ tha nhân vì lòng thương, đồng tiền ấy không bị Đức Kitô bài xích. Đồng tiền nào nuôi dưỡng lòng ích kỷ, gây thiệt hại cho đức công bằng, khiến cho con người quên mất Thiên Chúa, đồng tiền ấy bị kết án trầm luân.
19. Hãy bắt đầu hơn là thế gian
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Vào thời điểm này, những đội bóng rổ chuyên nghiệp đang dự định vào vòng cuối của giải thế giới. Đặc biệt là những đội đang bị chia rẽ thì họ đang mong chờ một cuộc trao đổi, chuyển nhượng các cầu thủ, các đội nghĩ rằng vào mùa chuyển đổi cầu thủ này, họ có những gì họ cần và họ có thể đạt được điều đó. Họ sẵn lòng trải qua những cuộc trả giá tiền lương và chuyển nhượng để có được cầu thủ đó. Họ đã có một cùng loại khởi đầu mà Chúa Giêsu đã nhắc nhở trong ngày hôm nay về người quản lý bất lương.
Phúc Âm có vẻ như muốn nói Chúa Giêsu đã minh chứng và trình bày về vẻ bất lương của người quản lý. Một số nhà chú thích cắt nghĩa rằng, người quản lý đã thật sự giao lại công việc của mình và không lừa đảo chủ của mình ngay cả khi anh ta đã làm một việc có vẻ như thiệt hại cho công việc của chủ. Người chủ đã không tỏ một dấu hiệu nào cho thấy là ông ta bị lường gạt. Thật ra, ông đã dự định công việc của mình một cách táo bạo và làm một sự khởi đầu.
Quan điểm của Chúa Giêsu về việc này là: người đàn ông ở đây đã muốn bảo đảm cho tương lai của ông sau khi ông mất việc. Ông ta không ngồi đó than khóc về số phận của mình, ông ta đã làm một điều gì đó để tranh thủ cảm tình với những con nợ của chủ. Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm này thì không có ý nói về sự khởi đầu một việc kinh doanh hay là Ngài có ý nói đến sự chuẩn bị cho chiến thắng của những đội bóng rổ chuyên nghiệp, nhưng Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ để ý tới sự cứu rỗi đời đời của chúng ta. Hơn nữa, Ngài trông đợi chúng ta hãy làm việc khó nhọc cho những giá trị thiêng liêng như một số người đã làm và coi việc đó như là mục đích cuối cùng. Thánh Kinh ngày hôm nay đề nghị hai điều, mà trong đó chúng ta sẽ tăng trưởng đời sống thiêng liêng. Họ sẽ cầu nguyện cho những người có nhu cầu và đòi sự công bằng cho người nghèo. Điều thứ hai là một sự nối kết thân mật, bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một trong những nguồn mạch lời nguyện của chúng ta phải phản ảnh một bản tính rộng lớn của lời cầu nguyện được nhắc nhở trong thư của thánh tông đồ gởi cho Timôthê. Chúng ta cần bao gồm tất cả mọi người trong lời cầu nguyện của chúng ta, và chúng ta cần nhấn mạnh đặc biệt đến những người nghèo, những người bị xã hội ruồng bỏ và khinh khi.
Lời cầu nguyện phải dẫn đến hành động. Đặc biệt là loại hành động cầu bầu như tiên tri Amos, vị tiên tri của công bằng xã hội. Ngài đã kết án những kẻ đã dẫm đạp lên những nhu cầu và hủy diệt người nghèo nơi quê hương. Ngài đã khuyên nhủ những người này hãy nghĩ đến mục đích tối hậu của đời mình. Tiên tri Amos không thích quan điểm của Canvil Coolidge, ông đã nói: Công việc của người Mỹ là công việc”“. Chúng ta thì không như vậy được. Công việc của chúng ta sẽ là chia sẻ với những người khác, những người đang có nhu cầu, những người đang cần lời cầu bầu hơn những phê bình, những người đang sống trong hoạn nạn và nhận biết rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta chia sẻ những khả năng và ân phúc của chúng ta cho những người khác.
Người Công Giáo phải luôn được nhận biết như là những người sát cánh với người nghèo và những người quảng đại trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta được kêu gọi để trở nên một người: “Làm bạn với những người nghèo qua việc chúng ta dùng những hàng hóa, đặc sản của thế giới này”. Chúng ta có quyền trông đợi trở nên những người mà Thiên Chúa có thể tin tưởng để trao phó tài sản, vì chúng ta biết chia sẻ nó cho những người khác.
Trên hết, những người Công Giáo sẽ trình bày sự khởi đầu và táo bạo không chỉ trong lời cầu nguyện cho người có nhu cầu, nhưng cũng vươn đến giúp đỡ họ cách tốt nhất như chúng ta có thể. Đó là điều sẽ bảo đảm rằng chúng ta chỉ có một vị Thầy lớn lao tốt lành, một người cha quảng đại, là Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
20. Có tiền, hãy đem sử dụng!
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Phải lựa chọn ngay
Dụ ngôn được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay thường gây nhiều vấp phạm khi trình bày thái độ của người quản gia tinh khôn như là được phép. Tuy vậy, cần phải đặt dụ ngôn vào toàn thể văn mạch của Tin Mừng và trong toàn bộ của phần phụng vụ Lời Chúa.
Tin Mừng không cho biết người quản gia bất lương ở chỗ nào, chỉ biết rằng anh ta phung phí tài sản của chủ. Anh bị gọi đến và nhận được thông báo phải nghỉ việc. Trước tương lai đen tối, anh ta phải tính toán. Không thể nào ngổi yên mà chịu chết đói. Nhưng làm gì bây giờ? Không có sức để làm nghề nông, còn đi ăn xin thì xấu hỗ. Và anh đã tìm được một kế: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ của chủ. Những người này phải giúp lại anh ta, ít là tạm thời, cho đến khi anh ta kiếm được địa vị tương tự. Sự khéo léo tính toán này có tính cách quan trọng.
Như vậy, khởi đầu người quản gia đã tạo cho mình một thế giới nhỏ hẹp, và anh ta nghĩ rằng tương lai mình được bảo đảm. Chỗ cậy dựa của anh ta, đó là tiền bạc anh đã đánh cắp của ông chủ. Nhưng mảnh đất nhỏ hẹp, nơi anh đang thu mình, lại nỗ tung, và anh lại phải đối diện với những nguy cơ của cuộc sống, phải đỗ mổ hôi để kiếm miếng ăn.
Bấy giờ anh ta lại phải tìm cách lập lại vòng an toàn cho mình. Cái vòng này cũng vẫn dựa trên tiền bạc. Nhưng phải có sự trợ giúp của người khác, cần có sự đỗi chác: tôi trừ số nợ anh mắc với chủ, và ngày mai, anh nhớ đón tiếp tôi.
Thật là khôn khéo. Chính Đức Giêsu đã ghi nhận ở cuối dụ ngôn. Khi con người muốn tìm sự an toàn cho mình, họ đem hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để làm điều đó.
Thế là mối tương quan giữa người quản gia và ông chủ, lẽ ra phải dựa trên sự tin tưởng, công bằng và tự do, lại được đặt trên sự hư hoại, trên mưu mẹo. Tất cả mọi phía đều bị hạ thấp.
Thực vậy, sự an toàn đó chỉ có tính cách giả tạo, tạm bợ, vì nó dựa trên sự đỗi chác, trên sự ngờ vực. Mặc dù khen ngợi sự khôn khéo của người quản gia, nhưng Đức Giêsu không hề có ý khuyên các môn đệ phải noi theo gương người quản gia. Có chăng, ở đây, Đức Giêsu chỉ muốn đề cập đến thái độ khôn ngoan và mau lẹ trước mầu nhiệm Nước Trời. Trước những vấn đề của trần gian, trước sự an toàn giả tạo, tạm bợ, người ta khôn khéo và mau lẹ, còn trước mầu nhiệm Nước Trời, trước vận mệnh vĩnh cửu của mình, người ta lại hững hờ và chậm chạp. Hẳn là Đức Giêsu cảm thấy đau lòng vì lời giảng dạy của Người, các phép lạ Người làm không giúp các môn đệ ý thức hơn, nhanh nhẹn và nhiệt thành hơn trong việc đi theo Người. Dụ ngôn được kể ra như để cho thấy nét đặc trưng trong sứ điệp của Đức Giêsu. Đọc dụ ngôn nay, người ta liên tưởng đến dụ ngôn cây vả (Lc 16,3-9), và dụ ngôn hai người kiện cáo nhau (12,58-59).
Như vậy, trước đám thính giả hay tò mò, nhưng lại chẳng quyết định gì cả, Đức Giêsu tìm cách cho họ ý thức được tầm quan trọng của tình trạng: họ phải mau mắn lựa chọn khi nghe sứ điệp của Đức Giêsu. Phải quyết định ngay, không thể chần chờ, vì đã quá trễ; hạnh phúc tương lai tuỳ thuộc vào đấy.
Cung cách quản lý mới
Từ đó, Đức Giêsu mời gọi thay đỗi cung cách quản lý. Tiền bạc vẫn cần phải có, nhưng phải khéo léo sử dụng: tiền bạc được sử dụng dựa trên tình bạn, trên sự tin tưởng, sự chân thật. Theo quan niệm Tin Mừng, tiền bạc có thể là một nguy cơ lớn lao cho con người. “Hạnh phúc thay ai có tâm hổn nghèo khó.” Tuy vậy, tiền bạc bị khinh chê không phải vì tiền bạc, nhưng là vì cách sử dụng. Khi người ta lo giữ cho mình, tiền bạc trở thành tai hoạ, còn khi đem bố thí cho người nghèo, tiền bạc trở thành một bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu. Chính cách quản lý như thế này cũng chứng tỏ lòng trung tín của một người được giao nhiệm vụ trông coi tài sản của chủ. Có nhiều cách để quản lý tài sản, ở đây là phân phát cho người nghèo, không được coi những của cải mình đang nắm giữ là của riêng mình, để rổi chỉ lo cho những nhu cầu của mình, trái lại, phải luôn nhớ rằng, Thiên Chúa đã trao những của cải đó để mưu ích cho người nghèo. Như vậy, sau khi kêu gọi người tín hữu phải biết khôn khéo, Tin Mừng mời gọi họ hãy sống xứng đáng với lòng tin tưởng Thiên Chúa dành cho họ qua việc trao cho họ sử dụng những của cải trần gian.
Cuối cùng, người ta sẽ phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Phụng thờ Thiên Chúa có nghĩa là dấn thân cách trọn vẹn, quyết liệt, không hề nghĩ tưởng đến một điều gì khác. Còn khi coi tiền bạc là tất cả, người ta sẽ biến nó thành một vị thần, và phục lạy nó. Tới đây, người ta nhận thấy rõ giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Người tín hữu hiểu rằng mình đón nhận của cải là để chia sẻ với người khác đang phải túng thiếu. Nếu họ mải mê với nó, và xử sự như là mình có quyền tuyệt đối, họ đã biến nó thành ngẫu tượng, và như vậy là đụng chạm đến quyền tối thượng của Thiên Chúa. Kẻ thù nguy hiểm nhất của tự do con người là tiền bạc; nó muốn lôi chúng ta ra khỏi Thiên Chúa để đi theo nó.
Như thế, có hai thế giới: một thế giới của tiền bạc, của sự an toàn giả tạo, của sự tính toán hơn thiệt; một thế giới của sự tin tưởng, của tình bạn, của sự ban tặng. Giữa hai thế giới, không thể có sự thoả hiệp. Giữa Thiên Chúa và tiền bạc: người ta phải chọn lựa một trong hai, và khi đã chọn lựa, phải sống theo chọn lựa ấy.
ÙÙÙ
Câu chuyện về người quản gia bất lương nhắc nhở hai giáo huấn: mỗi người phải ý thức về những đòi hỏi của giai đoạn hiện tại, và phải đáp trả ngay tức khắc và không thoái lui trước lời mời gọi của ân sủng. Nếu để lui lại thì sẽ chậm trễ.
Vậy, mỗi chúng ta phải biết sử dụng tiền của: thái độ của người Ki-tô hữu phải thật dứt khoát, không chút lập lờ, đó là sử dụng tiền của cho những ai đang cần đến. Nếu lo tích trữ cho mình, chúng ta sẽ trở thành người sùng bái ngẫu tượng.
Thực là một điều khó khăn, tiền bạc vẫn cần, vẫn phải có, nhưng lại phải vượt qua, phải khước từ như là không có, không phải của mình.
ÙÙÙ
Bạn có nhiều của cải? Rất tốt!
Cha bạn có tài sản lớn lao
và bạn được thừa kế: rất hợp pháp!
Nhà bạn đầy những thành quả
do công lao vất vả của bạn:
chẳng có gì đáng chê trách!
Nhưng này bạn,
đó không phải là giàu có,
vì nó không làm cho bạn được bình an.
Nếu bạn yêu quý những của cải ấy,
bạn sẽ bị tiêu diệt cùng với nó.
Hãy đem tiêu dùng, và bạn sẽ không bị diệt vong.
Hãy đem cho, và bạn sẽ nêu giàu có;
hãy đem gieo, và bạn sẽ gặt lại được.
…
phỏng theo thánh Âu-tinh
21. Những đồng bạc lẻ
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người Đức giàu có nọ đến nghỉ mát tại một ngôi làng nhỏ bên cạnh bờ biển, dân chúng đa số là các ngư dân nghèo nàn chất phác. Chiều đến người khách lạ đi vào các hàng quán để đổi tiền hầu mua thức ăn và chi trả các thứ cần thiết. Ông vào một quán nhỏ và nhờ người chủ quán đổi cho một tờ giấy bạc 1.000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên người chủ quán nhìn thấy một tờ giấy bạc to như thế. Ông lắc đầu và nói với người khách lạ: “Với tờ giấy bạc nầy ông sẽ không mua được bất cứ cái gì ở đây. Ở đây chúng tôi chỉ trao đổi với nhau bằng những đồng bạc nhỏ mà thôi”.
Nhiều người dân làng bu lại để nhìn tờ giấy bạc 1.000 Đức mã. Họ cười nói với nhau: “Làm gì có giấy bạc 1.000 Đức mã”. Những người đánh cá cũng đứng lại biểu đồng tình. Họ nói rằng đồng bạc lớn nhất mà họ chỉ thấy năm ba lần trong đời là tờ 100 Đức mã. Thế là dân làng bắt đầu nghi ngờ về thành tích bất hảo của người khách lạ. Đêm hôm đó, từ cửa sổ của nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán như sau:
“Hắn ta phải là một tên bịp bợm. Trước hết là phải tìm cách tống hắn đi khỏi làng của chúng ta”.
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời lên, người đàn ông giàu có đã vội vã ra khỏi phòng trọ. Ông đi đến một đô thị nhỏ cách đó gần một ngày đàng và đổi giấy bạc 1.000 Đức mã ra những đồng bạc nhỏ. Với hai bao tiền đầy cộm, ông thuê xe trở lại ngôi làng. Lần nầy dân chúng tin rằng ông thực sự có tiền và họ đã tiếp đón ông rất tử tế.
Người khách lạ giàu có đã xoay xở khôn khéo và kịp thời để thoát khỏi sự nghi ngờ niềm nở tiếp đón khi ông đổi tờ giấy bạc 1.000 Đức mã thành những đồng bạc nhỏ. Tờ giấy bạc 1.000 Đức mã của ông nhà giàu chẳng có giá trị gì đối với dân nghèo mà còn trở nên nguy cơ cho chính bản thân ông nhà giàu. Cũng thế, thái độ của chúng ta đối với tiền của chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của bác ái, chia sẻ cho những người nghèo khổ và như thế chúng ta sẽ mua được nhiều bạn hữu.
Hôm nay, khi kể câu chuyện người quản lý biết dùng tiền của để mua chuộc bạn bè, Chúa Giêsu cũng muốn kêu gọi chúng ta hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để bảo đảm cho tương lai hạnh phúc. Đây là chuyện khéo léo xoay xở của một người quản lý bất lương. Anh đã lợi dụng cơ hội biển thủ tiền của hoa lợi của ông chủ. Ông chủ cho đòi người quản lý tới tính sổ và sau đó sẽ cho anh ta thôi việc. Thât là một tin bất ngờ như sét đánh. Mất việc làm, anh sẽ đi đâu? Sinh sống như thế nào? Cuốc mướn thì không nổi, ăn xin thì xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách là tìm được người để nhờ vả. Anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến. Anh làm ơn cho họ để sau nầy họ sẽ giúp đỡ anh. Anh biến họ nên những kẻ đồng lõa. Và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo anh.
Cứ xử như vậy, đối với chủ bất lương. Nhưng đó là khôn ngoan theo kiểu thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái đời nầy khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa không khen các việc làm của người quản lý kia, vì anh ta lả kẻ bất lương. Nhưng Ngài phải nhận rằng anh ta không khéo và mau lẹ tháo vát, xoay xở. Và Ngài tỏ ra đau lòng khi nghĩ đến phương diện Nước Trời, ở đây người ta không mau lẹ và khôn khéo như vậy: Chúa Giêsu đã đem ơn cứu độ đến qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta hững hờ và chậm chạp đến như vậy! Người ta không lanh lẹ mau trí xoay xở đối với Nước Trời như người quản lý bất lương kia mau trí lanh lẹ xoay xở đối với việc ở đời nầy. Đó là điều đau lòng và đáng trách!
Nhưng nếu muốn lanh trí, khôn khéo xoay xở đối với Nước Trời thì phải làm gì? Và đây là điểm chủ yếu của Tin Mừng hôm nay. Phải bắt chước anh quản lý trong việc khôn khéo tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Anh quản lý tìm bảo đảm tương lai ở đời nầy, còn con cái sự sáng phải tìm bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì? Tiền của đời nầy có giúp ích được gì không? – Có chứ! Hãy dùng tiền của mà mua sắm kho tàng cho mình ở trên trời mai ngày, nơi không có mối mọt đục khoét và không trộm cướp nào lấy mất được (x. Mt 6,19-21). Ngược lại, nếu chỉ dùng tiền mà tích trữ cho riêng mình ở đời nầy, thì như có lần Chúa đã nói: “Khốn cho kẻ ngu ngốc như vậy, vì khi chết y có thể mang theo được ghì không?” (Lc 12.16-21).
Nhưng thế nào là dùng tiền của để mua sắm kho tàng cho mình ở trên trời? Theo giáo huấn của Chúa và như các kitô hữu tiên khởi đã thi hành, thì của cải vật chất được ký gởi cho chúng ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi nó như thần tượng để tôn thờ, nhưng là để chúng ta san sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Tất cả vất đề nằm trong quan điểm nầy. Người ta phải lựa chọn: hoặc là coi tiền của hoặc là coi nó như của ký gởi để san sẻ giúp đỡ nhau. Nói cách khác, hoặc coi tiền của như thần tượng để tôn thờ, hoặc coi tiền cả như phương tiện để xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Cũng như ngôn sứ Amos (Bđ.1), Chúa không chấp nhận được thái độ tham lam tiền của, chỉ biết làm giàu cho mình và không sợ bóc lột người khác. Và tham lam như vậy là chứng tỏ đã coi tiền của là thần tượng, là một thứ tôn giáo. Đúng như lời Chúa dạy: “Không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được”.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung sướng, nhưng cũng là nguyên do của những phản bội, tráo trở, thất nhân thất nghĩa, bôi đen lòng người. Vì thế, người Kitô hữu xác tín có một đời sau, có một kho tàng thực đang chờ đón chúng ta, chúng ta không thể chấp nhận và sống theo tôn giáo thờ Thần Mammon-ngày nay là Thần Đô-la – tôn đồng tiền làm thần tượng, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng.
Chúng ta hãy đặt tiền bạc trở về đúng vị trí của nó là một tên nô lệ chứ không phải là một chủ nhân ông thì mới hy vọng có một thái độ, một cách cứ xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan với tha nhân. Với lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu qua dụ ngôn hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại thái độ của mình, đồng thời thành khẩn xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc, của cải trần gian cho tình thương yêu, bác ái và chia sẻ. Như thế là chúng ta gởi vào kho tàng bất diệt trên trời.
Hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống mai sau. Hãy hướng tất cả mọi sự vào cùng đích của cuộc sống. Hãy coi trọng con người hơn tiền bạc của cải và trong tình bạn hơn sự giàu sang phú quý. Bởi vì cái gì sẽ tồn tại mãi mãi? Không phải là tiền bạc hay giàu sang mà là tình bạn của con người. Hãy cư xử thế nào để ngày sau luôn có đông đảo bạn hữu chân thành đón rước chúng ta và Cửa Trời hạnh phúc.
22. Bản năng – McCarthy
Nhiều loài chim có một bản năng quay về nhà rất mạnh mẽ. Những con chim hải âu ở xứ Manx là một ví dụ hay. Người ta bắt một con ở xứ Wales và đeo vòng cho nó, rồi đem nó đến Boston, cách đó ba ngàn dặm và thả nó ra. Hai tuần lễ sau, nó bay trở về xứ Wales tại chính nơi mà nó bị bắt. Bản năng quay về nhà (hướng về quê hương) cũng có nơi con người – không chỉ theo ý nghĩa thể chất. Con người đã biết quay về nhà sau những kinh nghiệm đau thương, không chỉ về ngôi nhà cũ của mình, mà về bản thân khi xưa của mình. Họ quay về để thu nhặt những mảnh vụn của cuộc đời họ trước đây. Bản thân bẩm sinh của họ hầu như bị thương tổn. Dĩ nhiên, có những người trở về khi đã trở nên giàu có.
Nhà văn Ý Primo Levi đã sống qua một năm ở Auschwitz. Ông là một trong ba người trên chuyến tàu trở về so với con số 123 người ra đi. Sau này ông nói: “Nếu tôi không vào một nơi như thế, có lẽ tôi sẽ sung sướng hơn và thanh thản hơn, nhưng tôi không phong phú như thế này”. Dĩ nhiên ông không nói về tiền bạc.
Nói chung bản năng quay về nhà mình là một yếu tố tích cực. Tuy nhiên, nó cũng có thể tiêu cực. Sự thôi thúc quay về nhà mình cắt đứt những cơ hội tốt và khả năng tốt và làm cho việc canh tân đời sống trở nên khó khăn và vất vả. Người ta buộc phải quay về khi muốn giũ bỏ đời sống nông cạn và tầm thường hoặc cả đời sống lỗi lầm và tội ác. Chúng ta thấy một ví dụ nơi người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu. Khi anh ta bị cho nghỉ việc, lẽ ra đó phải là thời điểm nhục nhã và đau đớn cho anh ta. Nhưng đó cũng là một thời điểm cứu chuộc. Bởi vì nó chỉ cho anh ta thấy thực tại bất lương của cuộc đời anh ta và có thể trở thành một khúc quanh trong cuộc đời anh ta. Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta vẫn tiếp tục đi theo con đường bất lương trước đây của mình, không hề có một thay đổi nhỏ nào trong tính cách của anh ta.
Hoặc bản năng quay về nhà mình là một sự hỗ trợ hoặc là một trở lực thì nó còn tùy thuộc vào cái nhà chân thực của mình nằm ở đâu. Những người quen sống trong ánh sáng sẽ quay về ánh sáng. Nhưng những người quen sống trong bóng tối thì hầu như quay về với bóng tối.
Một cây có bộ rễ vững chắc và mọc thẳng sẽ trở lại bản chất cũ đứng thẳng của nó sau khi cơn bão đã đi qua, còn một cây có thân vặn vẹo trở lại bản chất vặn vẹo của nó. Khi chúng ta làm tổn thương đến sự chính trực của mình, chúng ta không làm mất nhân tính của mình, nhưng chúng ta đánh mất ý thức về sự nguyên vẹn, ý thức về mình lúc nào cũng là một con người như thế.
Đức Giêsu không lấy người quản gia xấu xa làm một gương mẫu. Người nói rằng con cái của ánh sáng có thể học đôi điều từ con cái của bóng tối. Những người xấu thì khéo léo, theo đuổi một mục đích, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành những mục tiêu xấu xa của họ. Những người tốt lành, trái lại thường chỉ ngồi đó không làm gì. Và kẻ xấu sở dĩ thắng thế chỉ vì người tốt không chịu làm gì.
23. Tiền bạc – McCarthy
Lòng tham tiền bạc đã đưa nhiều người đến chỗ suy sụp. Hầu như ngày nào trên báo chí chúng ta đều đọc thấy một vài viên chức cấp cao, hoặc một vài nhà điều hành cấp cao bị buộc tội tham nhũng.
Một trong những trường hợp nghiêm trọng gần đây là Nicholas Leeson, người đã làm sụp đổ một đế quốc ngân hàng – Ngân hàng Barings ở Luân Đôn. Là con trai của một người thợ hồ ở vùng Watford ngoại ô Luân Đôn, Leeson chưa từng học đại học. Ông ta làm việc ở ngân hàng Barings như một nhân viên bình thường nhưng nhanh chóng lên chức và được giao phụ trách việc kinh doanh tại Ngân hàng Singapore. Ông ta làm việc vất vả và có rất nhiều tham vọng. Tiền lương hàng năm của ông ta là 350.000 quan cùng với những món tiền thưởng khổng lồ.
Nhưng ông ta vẫn không thỏa mãn. Ông bắt đầu mua bán các nguồn tài chính. Lúc đầu ông ta đem lại cho ngân hàng những khoản lời lớn. Càng ngày ông ta càng trở nên tham lam. Ông lén lút thực hiện những giao dịch tài chính không cho các ông chủ biết. Sau cùng ông đã thực hiện những vụ đầu cơ lớn không có tiền trả nổi và làm cho toàn bộ ngân hàng bị phá sản.
Trong những hoàn cảnh như thế, người ta trả giá cho việc làm sai lầm trong tiền bạc những cái còn quí giá hơn tiền bạc. Họ trả giá bằng sự đánh mất lòng tự trọng, nhân phẩm và niềm hy vọng. Dĩ nhiên, lúc nào cũng có một cơ may được trả tiền bởi việc bán một câu chuyện của mình cho một bài báo. Nhưng ở đây cũng thế, có cái giá phải trả. Bất cứ nhân phẩm nhỏ nhoi nào mà người ta trước đây, sau này người ta cũng sẽ mất hết.
Leeson làm chúng ta nhớ đến đôi điều về dụ ngôn của người quản gia. Xem ra người quản gia giống với Leeson đã bị tiền bạc làm cho hư hỏng. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiền bạc được coi là quan trọng nên nó cũng dễ dàng trở thành thần linh của chúng ta. Chúng ta có thể đặt nó đứng trước tính lương thiện, công bằng và trước cả đời sống gia đình. Người ta đã bị tiêm nhiễm bởi não trạng càng có nhiều tiền càng tốt. Một con người bình thường trở nên mù mờ đến nỗi không còn nhìn thấy điều gì thật sự quan trọng nữa.
Ngôn sứ A-mốt đã lên án những người phục vụ Chúa bằng môi miệng trong ngày sa-bát nhưng bóc lột người nghèo những ngày khác trong tuần. Đức Giêsu nói chúng ta không thể phục vụ Thiên Chúa lẫn tiền bạc. Bạn cũng không thể phục vụ những người khác lẫn tiền bạc.
Một lần kia có một người giàu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giàu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói: “Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy gì”.
“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại”, ông nhà giàu đáp.
Rồi giáo trưởng đem ông ta ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói: “Ông hãy nhìn vào tấm gương này và ông thấy gì”.
“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giàu đáp.
“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có tráng lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông”.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
“Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của các sự vật nhưng không thể mua mua cái cốt lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”. (Henrik Ibsen)
24. Tên quản lý khôn khéo
Nghe xong dụ ngôn này chúng ta không khỏi thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại khen ngợi một kẻ xấu xa và bảo chúng ta nên bắt chước cách xử sự của hắn. Và nếu để ý chúng ta sẽ nhận thấy không phải chỉ lần này mà còn trong nhiều lần khác, Chúa Giêsu đã đề cập tới cách thức cư xử của người xấu kẻ ác: Chẳng hạn như khi so sánh việc phân xử của Thiên Chúa với một ông quan tòa bất chính, hoặc bảo chúng ta phải khôn ngoan như con rắn. Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta noi theo lối sống bất công, hung dữ, xảo trá và lừa đảo, nhưng Chúa chỉ nói tới sự khéo léo của tên quản lý này mà thôi.
Điều chính yếu là bài học mà Ngài nhằm tới: Hãy khéo léo phục vụ nước trời như con cái thế gian phục vụ các công việc của họ. Từ đó Chúa đưa chúng ta sang việc xử dụng tiền của cho phải phép. Tên quản lý được nói tới ở đây là một người quan trọng, giữ chức vụ lớn trong một nông trại, hắn được chủ trao phó cho việc xử dụng gia tài, nhưng hắn phải làm theo ý chủ. Việc phung phá tiền bạc là điều trái với ý chủ và phải được điều chỉnh lại. Ở đây, chủ không còn tín nhiệm hắn nữa vì hắn bị tố là kẻ bất lương, gian trá, lừa đảo và không đán tin cậy nữa. Trước sự kiện xảy ra, hắn đã suy nghĩ về tương lai và đã đưa ra những tính toán khéo léo. Hắn tỏ ra mình là một kẻ khéo làm, khéo xoay sở cả về phương diện tốt lẫn phương diện xấu. Chính sự khéo léo này lại làm cho hắn thêm bất lương hơn. Hắn giảm số nợ của những người vay mắc ông chủ: một trăm thùng dầu thì chỉ còn phải trả năm mươi thôi. Một trăm giạ lúa thì chỉ còn phải trả tám mươi thôi. Từ lề lối hành động của tên quản lý bất trung, Chúa nhận xét về thái thế nhân tình: Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn ngoan hơn con cái sự sáng. Con cái đời này là những kẻ chỉ biết đến cuộc sống hiện tại và hoạt động nhằm đến những của cải vật chất mà thôi. Trái lại, con cái sự sáng là những người đón nhận tinh thần của Chúa, con cái đời này đã xử dụng mọi cách thức để đạt tới mục tiêu, vậy con cái sự sáng cũng phải biết xử dụng sự vật đời này một cách khôn khéo để chiếm lấy niềm hạnh phúc nước trời.
Một sự vật đời này gần gũi và căn bản nhất, đó là tiền của. Tiền của, nếu không biết xử dụng, nó sẽ trở nên một ông chủ hà khắc, bóp chết những tình cảm kính mến đối với Thiên Chúa và yêu thương đối với tha nhân. Trái lại, nếu biết xử dụng đúng mực, nó sẽ đem lại nhiều lợi ích, chẳng hạn dùng tiền của để làm phúc bố thí cho kẻ nghèo, để tạo lấy những người bạn chân thành, một mai sẽ bênh vực cho chúng ta trước ngai tòa của Chúa.
Đằng khác, tiền của còn là một vật trắc nghiệm lòng trung tín của các môn đệ đối với Chúa. Căn cứ theo cách thức xử dụng để biết các ông là những người trung tín hay phản bội, chân thành hay gian dối, vì ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn, ai gian dối trong việc nhỏ thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ trao phó của chân thật cho các con… Nên nhớ rằng, chúng ta chỉ là những người quản lý, còn Chúa mới là chủ. Vậy chúng ta phải biết xử dụng tiền bạc và những phương tiện vật chất cho phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Để kết luận, tôi xin nhắc lại nơi đây một câu danh ngôn Tây phương, như một lời khuyên trong vấn đề xử dụng tiền bạc: Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng cũng là một ông chủ hà khắc.
25. Tiền bạc của chúng ta làm Chúa quan tâm
Đây có lẽ là một sự kiện nhỏ nhặt thú vị và Chúa Giêsu nắm lấy theo cách luôn luôn làm ngạc nhiên của Ngài. Chúng ta chờ đợi một bài học hay về sự bất lương, bởi vì Chúa Giêsu xem người quản lý là bất lương. Câu chuyện hoặc dụ ngôn kết thúc với hành vi lừa bịp cuối cùng: “Cầm lấy văn tự viết 80 thôi”. Nhưng hãy nhớ rõ rằng ở câu 8 bắt đầu lời phê bình của chính Chúa Giêsu, được chỉ rõ là “Chủ”, và đây là sự hốt hoảng: “Chủ khen ngài quản lý gian xảo”. Tố cáo sự bất lương thì rất dễ và tầm thường. Chúa Giêsu sắp dẫn chúng ta đến một lãnh vực độc đáo hơn: việc sử dụng tiền bạc một cách khéo léo.
Bài học mở rộng đầu tiên: hãy là những người khéo xoay sở và lanh lợi. Hãy nhìn con người này trong tình thế tuyệt vọng, tai họa sắp rơi xuống đầu anh ta, anh ta chỉ còn vài tiếng đồng hồ để hành động, và anh ta sẽ hành động trong vòng một khắc đồng hồ. Hỡi các bạn là con cái sự sáng, hãy rút kinh nghiệm, đứng trước một vận rủi các bạn đừng ngồi đó mà than thở và do dự, hãy xông xáo như người quản lý khôn ranh này. Gian xảo ư? Phải, nhưng người ta yêu cầu chúng ta khá tế nhị, như ở đây chỉ để rút ra điều tốt trong thí dụ này và loại bỏ điều xấu mà thôi.
Bài học thứ hai chính xác và quan trọng hơn, được đưa vào do công thức long trọng này: “Quả thật, ta bảo các ngươi”. Chúa dạy chúng ta cách đầu tư tiền bạc. Với thứ tiền quỷ quái này, chỉ có hai giải pháp: ném nó đi như Phanxicô Assisi, hoặc sử dụng nó một cách thông minh đến nỗi điều đó làm cho Chúa quan tâm. Kiểu nói rất trong sáng: “Hãy dùng tiền phi nghĩa mua lấy bạn bè, ngõ hầu khi hết của, họ sẽ chứa chấp các ngươi trong chốn đời đời”. Đây là lời khuyên những người giàu sụ chăng? Chắc chắn rồi, nhưng cũng là lời khuyên những người có tiền không sạch lắm ký gởi trong ngân hàng.
Dầu sao đi nữa, thậm chí là tiền sạch, vào lúc lâm chung, tiền đó cũng bay biến đâu mất, người ta lên trời với hai bàn tay trắng. Trên trái đất, tiền bạc mở ra những cánh cửa và tạo thuận lợi cho các quan hệ. Lên trời rồi, không còn gì nữa cả! Nếu có loại tiền bạc nào làm Chúa quan tâm, thì đó là tiền bạc mà người ta chia sẻ trong tình yêu thương, và thậm chí được cho một cách khá điên rồ. Những người mà chúng ta đã giúp đỡ sẽ có mặt ở đó để nói lại với Đấng Tối Cao. Chúng ta không trắng tay nhưng được mặc lấy sự độ lượng một cách tuyệt diệu; không phải chúng ta không có những mối quan hệ, có những người tiếp đón chúng ta một cách vui vẻ; chúng ta không phải là những kẻ xa lạ với Chúa tình yêu, chúng ta chính là tình yêu.
Biến tiền bạc thành tình yêu: thật là một sự đầu tư tuyệt vời! Nhưng thậm chí được câu truyện này tô điểm, bài học này vẫn còn tỏ ra rất khó khăn. Đây là lời kêu gọi chia sẻ, và chúng ta nhanh chóng tìm ra những lý do để chối từ lời kêu gọi đó.
Có lẽ, sau việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vấn đề tiền bạc ‘đánh lừa’, chúng ta sẽ cảm thấy rõ hơn cái nhìn của Thiên Chúa trên tiền bạc của chúng ta. Thiên Chúa không khinh chê điều gì trong cuộc sống chúng ta cả, mà là Ngài có sự tò mò đáng yêu: đứa con chín chắn của Ta sẽ đầu tư tiền bạc như thế nào? Chính việc chúng ta chọn lựa ngân hàng nào làm Ngài quan tâm. Ngân hàng ích kỷ hay ngân hàng tình yêu?
26. Sử dụng của cải
Đây là một dụ ngôn khó giải nghĩa, nhưng tựu trung cuộc đời là một trường học mà ta có thể học được gương tốt nơi những người xấu. Câu chuyện bao gồm những tên lưu manh mà người ta có thể gặp bất cứ ở đâu. Tên quản gia này là một tên lưu manh. Hắn vốn là một nô lệ, tuy vậy hắn được giao trách nhiệm điều hành gia sản của chủ. Tại Pa-lét-tin có nhiều địa chủ vắng mặt ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản gia của ông. Tên quản gia trong câu chuyện này đã ăn cắp khéo léo. Các con nợ cũng là những tên lưu manh. Chắc chắn món nợ của họ là tiền thuê đất. Thuê đất ở Pa-lét-tin thường được trả cho chủ đất không phải bằng tiền mặt mà mà bằng hiện vật, thường là một phần hoa lợi của đám đất cho thuê. Quản gia này biết rằng hắn đã mất chức quản gia, vì thế nảy ra một sáng kiến. Hắn ghi sổ một cách gian lận để các con nợ được trả ít hơn cho chủ. Điều này có hai công hiệu. Thứ nhất, các con nợ phải mang ơn hắn. Thứ hai, còn có hiệu lực hơn, là hắn làm cho cùng liên luỵ về hành động gian manh của hắn, và nếu lâm vào tình trạng bế tắc thì hắn ở vào một thế mạnh để thực hiện những vụ tống tiền: kiểu bút sa gà chết. Chính chủ hắn cũng là một thứ lưu manh nữa, bởi vì, thay vì khó chịu về hành động này, ông ta lại khen nó thông minh.
Điều khó giải thích trong dụ ngôn này là Luca đã gồm vào đó bốn bài học khác nhau:
1) Con cái đời này tỏ ra không khéo với đời hơn con cái sự sáng.
Điều đó có nghĩa là nếu các ki-tô hữu chúng ta cũng hăng hái không khéo trên đường hành đạo như người đời khéo tìm của cải tiền bạc thì tốt biết bao. Nếu người ta chú tâm đến linh hồn cũng như việc buôn bán làm ăn thì họ đã tốt hơn nhiều. Nhưng thật ra người ta luôn luôn để nhiều thời giờ, tiền bạc, công sức vào những lạc thú, vui chơi đời này gắp hai mươi lần hơn vào các công việc Hội Thánh của mình.
Một vị linh mục được mời giảng cho một nhà tù, ngài đề cập đến giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan đến việc báo thù: “Khi có ai vả má bên phải ngươi, hãy chìa luôn má bên kia cho hắn.” Để minh hoạ bài học ngài kể câu chuyện về Jackie Robinson, lực sĩ da đen đầu tiên thi đấu trong đội tuyển chính. Khi ông bầu Branch Rickey ký hợp đồng với Jackie, ông bảo: “Anh phải xơi mọi thứ họ dọn cho anh và đừng bao giờ phản kháng lại nhé!” Ông bầu thật có lý. Trong sân các cầu thủ giao banh cho anh cách thô lỗ, còn đám cổ động viên và đội bóng đối nghịch thì chế nhạo anh. Ra khỏi sân banh, anh bị khai trừ khỏi các khách sạn và nhà hàng, đang khi các cầu thủ khác được ở lại và ăn uống tại đó. Dầu vậy, Jackie vẫn luôn giữ được bình tĩnh, anh vẫn “chìa cả mà kia ra”, và cả ông bầu Branch cũng làm như thế khi bị công chúng chỉ trích, vì cho một tên da đen gia nhập đội bóng. Kể xong câu chuyện, vị linh mục đặt câu hỏi: “Các bạn thử nghĩ coi, các lực sĩ da đen ngày nay sẽ ra thế nào nếu Jackie và Branch không chìa má kia cho người ta tát?” Ngay sau cuộc nói chuyện, một tù nhân tiến lại nói: “Câu chuyện cha kể khá thú vị, nhưng sao cha không đề cập đến toàn thể câu chuyện, không nêu lên lý do tại sao ông bầu và gã cầu thủ da đen lại chấp nhận chìa má bên kia ra? Đâu có phải họ yêu mến Chúa mà vì ham tiền mà thôi. Branch chìa luôn má bên kia vì ông ta sẽ ký hợp đồng được với tất cả các lực sĩ da đen giỏi nhất trong nước và ông sẽ giàu to; Còn Jackie thì chịu chìa má kia vì chẳng qua anh ta cũng kiếm được khối bạc nếu anh thành công!”. Vị linh mục ngẫm nghĩ: “Nếu gã tù nhân này có lý thì câu chuyện của mình hỏng mất.” Nhưng tức khắc ngài nghĩ lại, câu chuyện vừa nói lên hai điều quan trọng hơn nữa: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng trong việc làm ăn của chúng.” Thì ra, người thế gian biết chịu khổ chịu cực để được những phần thưởng trần thế, là những thứ chỉ tồn tại trong ít năm, trong khi các Kitô hữu chúng ta không dám gian khổ để đạt được phần thưởng vĩnh viễn trên trời. Đạo của chúng ta chỉ trở thành hiện thực và hữu hiệu khi nào chúng ta đầu tư vào đó nhiều thì giờ, sức lực như vào các việc thế tục.
2) Của cải vật chất nên dùng để giữ gìn tình bạn. Điều này có thể làm trong hai cách.
a/ Làm việc đó cho đời sau, các rabbi Do thái có câu: “Kẻ giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giàu trong đời sau.” Khi chú giải truyện người giàu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrosiô có nói: “Bụng của người nghèo, nhà của bà goá, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời.” Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giàu có thật của con người không tuỳ những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm.” (Cn 19,17)
b/ Làm việc đó cho đời này. Người ta có thể dùng của cải một cách ích kỷ, hoặc có thể dùng để giúp cho đời sống dễ chịu hơn, không những cho mình, mà còn cho bạn bè những người chung quanh mình nữa. Biết bao nhà học giả đời đời mang ơn một người hằng tâm hằng sản đã dùng tiền bạc mình để giúp học bổng cho kẻ khác có điều kiện theo đuổi việc học. Biết bao người đã mang ơn một người bạn giàu có đã tài trợ họ trong cơn túng cực một cách thực tế. Tự bản chất của cải không phải là tội lỗi, nhưng là một trách nhiệm lớn, và người nào dùng của cải để giúp đỡ bạn bè, kẻ ấy đã làm trọn trách nhiệm của mình.
3) Trung thành trong việc nhỏ dẫn đến trung thành trong việc lớn.
Dựa vào cách thi hành việc nhỏ, qua đó, sẽ chứng tỏ người đó có xứng đáng hay không xứng đáng để trao phó những việc lớn. Điều này đúng trong các việc đời này, không ai được cất nhấc lên địa vị cao hơn, nếu lúc ở địa vị thấp, người đó đã không chứng tỏ được khả năng và lòng ngay thẳng. Nhưng Chúa Giêsu đã áp dụng nguyên tắc đó vào đời sau. Ý Ngài dạy: “Ở thế gian các ngươi chịu trách nhiệm về những của cải không thực sự thuộc về mình. Các ngươi không thể mang theo mình những của cải đó khi chết. Những của cải đó chỉ cho các ngươi vay mượn. Các ngươi là người quản lý các của đó, vì theo bản chất, những của cải đó không phải là của các ngươi vĩnh viễn. Nhưng trái lại ở trên trời các ngươi sẽ được những của cải thuộc về các ngươi một cách thiết thực, có tính vĩnh viễn và bất di dịch. Nhưng của cải mà các ngươi sẽ được ở trên trời lại tuỳ theo cách các ngươi dùng của cải dưới đất. Của cải mà các ngươi sẽ được làm tài sản riêng trên trời tuỳ theo cách các ngươi sử dụng những của cải mà các ngươi chỉ làm quản lý.”
4) Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ.
Chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ dụ có người làm thư ký ban ngày và làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn sự phục vụ Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
27. Tích trữ của cải thiêng liêng
“Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ”
Nhà tiên tri Amos, trong Bài đọc I, sống vào thế kỷ VIII trước kỷ nguyên chúng ta. Người sống trong một xã hội đương thời bon chen, tranh giành tiền bạc, đàn áp người nghèo khó, lấy đồng tiền mua người nô lệ. Chỉ có tiền là trên hết, có tiền mua gì cũng được, mua cả lương tâm. Nhưng Thiên Chúa là Đấng nâng đỡ bênh vực người nghèo. Và nhà tiên tri phát ngôn của Chúa, lên tiếng cảnh tỉnh. Bản cáo trạng thời xa xưa như còn vang vọng kết án những tệ đoan xã hội ngày nay. “Đức Chúa đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8,7).
Thiên Chúa là Tình thương. Ngài thương xót người nghèo nhưng cũng không ghét bỏ người giàu có thiện chí. Bài Phúc Âm hôm nay nói về người quản lý, nhưng cũng có thể gọi là dụ ngôn nói về phần rỗi đối với người giàu. Người giàu có phải làm gì để được Nước Trời?
Trước hết, người giàu có hư mất vì chỉ biết bo bo giữ của, không biết chia sẻ với người khác nhất là với người túng thiếu (Lc 16, 19-31). Vì thế, trước tiên phải biết chia sẻ.
Người quản lý trong dụ ngôn, là một người khôn ranh, trước khi bị bãi chức, đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho một số; dùng tài sản của chủ để thêm cho bạn mình. Chủ khen anh hành động khôn khéo. Tất nhiên, Chúa không bảo chúng ra noi gương “người con cái đời này” đó; nhưng Chúa dạy chúng ta là “con cái sự sáng” biết lợi dụng của cải để gây thêm bạn hữu. Nghĩa là biết chia sẻ, giúp đỡ người nghèo, để bằng lời cầu nguyện họ giúp đỡ lại ta khi ta “sinh trần trụi, trở về tay không” trước mặt Chúa.
Ý tưởng thứ hai, qua câu chuyện dụ ngôn, là người giàu của hãy nhớ rằng giàu của cải hãy nhớ rằng giàu của vật chất mà không biết làm giàu của thiêng liêng vĩnh cửu thiêng liêng vĩnh cửu thì có ích gì.
Của cải là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều tiền của càng mong muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mamon thời xưa hay thần Đô-la thời nay.
Vì thế, Chúa căn dặn: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ, và hoặc nó ghét chủ nầy và mến chủ kia, hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được.”
Người giàu có chân thật là người biết chia sẻ với người nghèo, là kẻ biết tích trữ của cải thiêng liêng, nơi “mối mọt không thể rúc rỉa, trộm cướp không chiếm đoạt được”.
Trên phần mộ Thánh Giáo hoàng Piô X có khắc ghi:
Piô X giáo hoàng
Khó nghèo và giàu có
Hiền lành và khiêm nhường
Mạnh mẽ và bênh vực đạo
Chăm chú cải tổ mọi sự trong Chúa
Đã yên nghỉ sốt sắng 20-8-1914
Lạy Chúa, hôm nay con quyết tâm yêu Chúa bằng cách chia sẻ với những người nghèo khó xung quanh, những gì Chúa đã ban cho con. Vì những gì Chúa ban cho con là để con đem chia sẻ với anh chị em con, nhất là với người nghèo khó.
28. Người nghèo
Có một điều làm tôi ngạc nhiên, đó là Kinh Thánh đề cập rất nhiều đến tiền bạc. Thời bấy giờ, nền kinh tế của dân Do Thái còn lạc hậu, người ta trao đổi với nhau bằng hàng hóa, và tiền bạc chưa chiếm được một địa vị quan trọng và cần thiết như ngày hôm nay, bởi vì ngày hôm nay có tiền mua tiên cũng được, trái chẳng có tiền thì mọi sự đều xôi hỏng bỏng không… Sở dĩ Kinh Thánh luôn đề cập đến tiền bạc là để lột mặt nạ cho chúng ta thấy rõ sự bất công của những kẻ tham lam, cũng như sự bóc lột của những kẻ quyền thế.
Thực vậy, qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi.
Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh ấy đã được vang lên qua đoạn Tin mừng hôm nay. Đúng thế, Chúa Giêsu đã không khen ngợi những tính toán mờ ám của tên quản lý bất lương, nhưng Ngài chỉ khen ngợi sự khôn ngoan, bình tĩnh và tiên liệu của hắn.
Từ đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Các con hãy dùng tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ tiếp đón các con vào chốn an nghỉ đời đời. Chúa Giêsu muốn chúng ta có thái độ siêu thoát đối với tiền bạc và nhất là chỉ coi nó như phương tiện đem lại lợi ích cho chúng ta, chứ đừng coi nó như mục đích, để rồi quá dính bén, khiến nó chi phối đời mình.
Ngài cũng quả quyết: Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chũa kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được. Đúng thế, nếu làm tôi Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên những người con của Ngài. Còn nếu làm tôi tiền của, chắc chắn chúng ta sẽ bị hư mất.
Đức Tổng giám mục Camara là một người phát ngôn bảo vệ quyền lợi của hằng triệu người nghèo túng ở Nam Mỹ. Họ bị giới chủ nhân bóc lột. Mà giới chủ nhân ở đây là những ai? Đó là những Kitô hữu, sống phè phỡn trên xương máu của những người bất hạnh. Những bài diễn thuyết của ngài thường gay gắt chỉ trích họ, khiến nhà cầm quyền Brasil toan bắt giam ngài, nhưng cũng chính lúc đó, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đặt ngài lên chức vụ Hồng y, như để long trọng xác định lập trường đấu tranh của ngài là chính đáng và đúng đắn, cũng như để nói lên tinh thần liên đới và chia sẻ của mình. Trong một bức thư, đức Hồng y Villot đã viết như sau: “Chúng ta phải cố gắng chống lại mọi hình thức bất công, cũng như phải cố gắng phát triển con người toàn diện. Là Kitô hữu, chúng ta phải tự hỏi xem chúng ta có trung thành với những đòi hỏi của đức tin hay không?”
Người nghèo đã chiếm một chỗ đứng quan trọng trong Kinh Thánh. Sự nghèo túng của họ không phải là kết quả của sự lười biếng, mà là kết quả của những bóc lột và tham vọng bất chính. Vì thế, một ngày nào đó, Chúa sẽ làm cho đảo lộn, như trong lời kinh “ngợi khen”, Mẹ Maria đã xác quyết: Phận đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, đuổi về bàn tay trắng.
29. Hai chủ
Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay được trích từ sách tiên tri Amos và bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta hai mẫu người, hai nếp sống trái ngược nhau. Mẫu sống của con cái thế gian, tức là con cái của sự tối tăm và mẫu người sống của những con cái Thiên Chúa, con cái sự sáng. Nếp sống của con cái thế gian, những kẻ làm nô lệ cho của cải vật chất, tôn thờ tiền tài được nhắc đến nơi bài đọc I. Họ muốn đề cao tiền tài và coi thường tha nhân, chỉ nghĩ đến việc buôn bán kiếm lợi.
Trong ngày nghỉ, ngày dành cho Giavê Thiên Chúa thì họ không nghỉ ngơi mà âm mưu làm sao để khi ra bán hàng họ sẽ kiếm lợi thêm nữa, nên họ dùng thời gian nghỉ lễ, dùng ngày của Chúa để giảm lường đong, tăng giá, làm cân giả. Họ là những con người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Mẫu sống của con cái thế gian còn được làm nổi bật hơn nữa trong bài Phúc âm kể về dụ ngôn người quản lý bất trung, mánh mung, phung phí tài sản của chủ để làm lợi cho bản thân. Trong cuộc đời, họ chỉ nhận điều gì làm lợi cho họ mà thôi, do đó Thiên Chúa không còn trong tư tưởng, trong tâm hồn, trong nếp sống của họ nữa.
Kể lại dụ ngôn về người quản lý bất trung này, Chúa Giêsu không có ý đề cao nếp sống của người quản lý bất trung cho các môn đệ noi theo, nhưng là để cảnh tỉnh các môn đệ qua một lời trách khéo: “Con cái thế gian khôn lanh hơn con cái sự sáng”. Chúa có ý cảnh tỉnh các môn đệ của Ngài không được ù lì làm biếng và thụ động. Con cái thế gian tìm đủ mọi cách để có danh vọng, làm sao giây phút hiện tại có lợi cho tương lai sắp đến, và để đạt đến mục tiêu này họ không ngại dùng những thủ đoạn mánh mung để làm lợi cho mình.
Phần Chúa Giêsu, Ngài nhắc khéo cho các môn đệ như sau: “Chúng con không được làm tôi hai chủ, tức là vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của”. Môn đệ Chúa cần dứt khoát chọn Chúa, sống theo giáo huấn của Ngài với hết sức dấn thân và nhiệt tâm. Cần phải chọn Thiên Chúa trước hết và mọi sự khác như của cải vật chất hoặc ngay cả mạng sống cũng cần phải sử dụng theo mục tiêu là để giúp chiếm đoạt được Chúa, đạt được cùng đích cuối cùng của đời sống con người: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình”.
Hãy tìm nước Thiên Chúa trước và tìm với hết sức mình, hết sức nhiệt tâm, hết nghị lực và hết tinh thần, không được ù lì thụ động. Phải ước mong Chúa làm khát vọng duy nhất cho cuộc đời mình. Thiên Chúa muốn chúng ta làm người quản lý tốt của cải, dùng hết khả năng Chúa ban để làm sinh lợi những khả năng, những nén bạc Chúa trao cho, sao cho sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị em.
Trong dụ ngôn được Chúa Giêsu kể và ghi lại nơi Phúc âm thánh Luca hôm nay chúng ta nhận thấy rằng, người quản lý xấu dùng tài trí của mình và tiền của của chủ để tạo ra bạn bè mới. Liên kết với của cải trong mục đích hưởng lấy những lợi lộc trần gian, đó là lối hành xử của con cái thế gian. Con cái sự sáng cần phải có lòng hăng say, sử dụng tốt những gì Chúa ban cho để làm cho đời sống con người được cứu rỗi, được nâng cao, xứng đáng với phẩm vị làm con cái Thiên Chúa.
Nếu sống vì tiền bạc, danh vọng, tìm cách lạm dụng và khử trừ người nghèo, tránh xa người nghèo, làm như thế là họ không phải là con người, không phải là con cái Thiên Chúa nữa. Bởi vì, con cái sự sáng không bao giờ được làm như vậy. Ngược lại, họ cần phải sử dụng tài năng Chúa ban, kể cả của cải vật chất để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị em, phục vụ kẻ nghèo chứ không loại trừ người nghèo.
Người quản lý tốt không lợi dụng cũng không phung phá tài sản của chủ: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn”. Trong tất cả mọi sự hãy tìm gặp Chúa trước hết. Chính trong viễn tượng này mà chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện sau đây được trích lại trong sách giáo lý mới: “Lạy Chúa, xin ban cho con tất cả những gì giúp con đến gần Chúa. Xin hãy cất khỏi con tất cả những gì làm con xa Chúa. Xin hãy giải thoát con khỏi cái tôi ích kỷ, tham lam tiền của để con biết dâng toàn thân cho Chúa”. Chúng ta hãy cầu nguyện như vậy hằng ngày và xin Chúa giúp chúng ta sống được như vậy để luôn trung thành với đức tin vào Chúa.
30. Tiền của
Dụ ngôn của bài Tin Mừng khá dí dỏm và linh động, kể chuyện một người quản lý đang đứng trước một tương lai đen tối: sắp bị đuổi việc, nên ông ta đã nghĩ ra một kế hoạch rất khôn khéo, có thể nói là láu cá, mánh mung hay gian xảo để thủ lợi khi thất nghiệp sẽ có người trả ơn mình, giúp đỡ mình. Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta gian xảo như người quản lý ấy, nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhanh trí khôn, biết ứng phó kịp thời với hoàn cảnh, nhất là tìm được những bảo đảm cho tương lai, mà tương lai quan trọng nhất là cuộc sống đời sau. Vì thế, sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra những giáo huấn của Ngài về vấn đề tiền của.
Tất cả những tiền của trần gian chỉ là những thứ vô tri giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến mức sống, đồng thời phát triển tình người, liên kết yêu thương. Nên tiền của trần gian chỉ là một thứ trung gian, là phương tiện con người phải biết sử dụng cho đúng, hợp tình hợp lý, khôn khéo và hữu ích để được ấm no, hạnh phúc ở đời này và nhất là để đạt tới kho tàng đích thực là Nước Trời.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung sướng nhưng đồng thời cũng là nguyên do những phản bội, tráo trở, thất nhân, thất đức, bôi đen lòng người, như câu trong sách nho: “Hoàng kim hắc thế tâm”. Nhưng trong thực tế, thường con người lại có những quan điểm trái ngược, đề cao giá trị đồng tiền, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng:
– Có tiền mua tiên cũng được.
– Tiền không chân xa gần đi khắp.
– Có tiền chán vạn người hầu.
– Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
– Mạnh vì gạo, bạo vì tiền…
Shakespeare cũng đồng ý rằng: “Tiền đi trước thì mọi con đường đều rộng mở”.
Hoặc như tục ngữ Pháp có câu: “Một người không tiền là một con sói không răng”. Ngày nay người ta nói: “Đồng tiền là tiên là phật. Là sức bật của thanh niên. Là sức khỏe của tuổi già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng để che thân”.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là những nhận định phiến diện về giá trị của đồng tiền. Những quan niệm xuất phát từ những giao tế, những công ăn việc làm do thiếu đồng tiền, cũng có thể do những yếu tố khác, nhưng người ta không nhận ra mà phải đón nhận những tráo trở, thất bại, ê chề. Nhưng còn trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dưa thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao? Hoặc những gia đình giàu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Cho nên, đầy đủ và trung thực nhất, phải là một nhận định hai chiều: “Tiền bạc chỉ là tên đầy tớ tốt, chứ không thể là ông chủ tốt được”. Và xa hơn, hỏi rằng đau khổ, cái chết, đồng tiền có chiến thắng được không? “Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Vì thế, là những Kitô hữu xác tín có một đời sau, có một kho tàng đích thực đang chờ đón, chúng ta có thể chấp nhận và sống theo châm ngôn: “Đồng tiền là vạn năng”? Cũng bị ràng buộc, nô lệ cho đồng tiền không?
Chúng ta hãy đặt tiền của trở về đúng vị trí, khả năng của nó, chứ đừng phóng đại lên thì mới hy vọng có một thái độ, cách cư xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan với tha nhân. Vấn đề vô cùng phức tạp và qui mô. Ở đây, chúng ta thử nêu vài nhận xét, ví dụ nho nhỏ trong phạm vi gia đình. Kinh nghiệm cho thấy trong gia đình, thường xuyên xảy ra những cãi cọ, xích mích chỉ vì mất mát, hư hỏng, những chia sẽ không đều. Vì tiền bạc, vợ chồng xào xáo lẫn nhau. Vì tiền bạc, anh em xa cách nhau do cha mẹ phân biệt đứa này làm nhiều tiền, đứa kia làm ít tiền. Ra đến xã hội, vấn đề còn phức tạp hơn nhiều. Không lạ gì mà người ta cứ quay cuồng lên vì đồng tiền, sẵn sàng làm tất cả vì đồng tiền. Tiền của đã trở thành một cực hút rất mạnh như một khối nam châm khổng lồ, bề thế như một vị chúa tể dõng dạc ngự trị trên trái tim mù quáng của con người. Chính trong bối cảnh như thế mà lời Chúa đã vang lên thức tỉnh lòng người: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Phải lựa chọn một trong hai.
Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại thái độ của mình: chúng ta kiếm tiền của như thế nào? Chúng ta chi tiêu tiền bạc như thế nào? Đồng thời thành khẩn cầu xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc của cải trần gian để đem lại ấm no, hạnh phúc đời này và cả đời sau nữa.
31. Chữ T.
Với cơ chế kinh tế thị trường như xã hội ngày nay, người ta đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc tổ chức quản lý công ty, doanh nghiệp nhà nước, công ty liên doanh nước ngoài cũng như đủ luật lệ về kinh tế tài chánh, thanh tra kiểm soát, vậy mà người ta vẫn không ngăn chặn được những chuyện làm ăn gian dối, trái pháp luật. Sở dĩ có những vụ tham nhũng, cuộc đời thay đen đổi trắng, bạn bè lừa dối nhau, người thân ly cách chung qui cũng chỉ vì đồng tiền. Chính vì thế mà lời Chúa đã vang lên thức tỉnh lòng người: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Chúng ta không thể vừa sống vì tiền bạc vừa sống vì Thiên Chúa được. Chỉ chọn một trong hai mà thôi: Hoặc là Thiên Chúa hoặc là tiền bạc. Trước khi quyết định, tôi xin bật mí cùng các bạn một điều quan trọng. Nếu ai không phục vụ Thiên Chúa thì không được vào Vương Quốc của Người đâu nhé! Vậy, mỗi người chúng ta được quyền ưu tiên chọn lựa. Vậy bạn chọn bên nào giữa Thiên Chúa và tiền tài?
Câu chuyện anh quản lý trong bài Tin Mừng hôm nay bị ông chủ khiển trách vì đã phung phí của chủ. Đây cũng là hành vi bất lương và gian dối của anh quản lý khiến cho ông chủ sa thải. Bấy giờ anh quản lý mới thức tỉnh về thân phận của mình. Anh tự hỏi: “Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”. Anh đang đứng trước một vực thẳm, tương lai thật tối tăm mù mịt. Sắp mất việc, anh lâm vào cảnh nghèo đói và chờ chết. Chỉ còn cách sống nương tựa vào người thân và bạn bè. Sau khi suy xét tỉ mỉ và tính toán xảo quyệt, anh lợi dụng cơ hội này để bóc lột ông chủ, dùng tiền bạc của chủ để lo cho tương lai của mình bằng cách đối xử tốt với những con nợ, để con nợ mang ơn và đón tiếp nồng hậu sau khi anh bị sa thải. Giả sử như trong các bạn có ai đó nợ một trăm triệu đồng, được chủ nợ xí xóa một nửa. Rồi một ngày kia, người chủ nợ đến nhà bạn đó chơi. Bạn đó sẽ tiếp rước ông ta như thế nào? Chắc chắn bạn đó sẽ vui mừng đón tiếp ông và cho ông ta tá túc chẳng những đôi ba ngày mà “mươi bữa nửa tháng” cũng còn được…! Có qua có lại mới toại lòng nhau. Đây cũng là cách đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống ngày nay.
Theo thói đời xưa nay, những can tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân và những phiên tòa xét xử các bị can phạm tội gian lận trong quản lý tài chánh hay làm thất thoát vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta đã từng nghe như: hãng nước hoa Thanh Hương, Ep-cô Minh Phụng, Trần văn Huy… Thường những kẻ bất lương thì người đời chê trách, nhưng anh quản lý bất lương trong bài Tin Mừng hôm nay được Chúa khen ngợi. Vì sao vậy? Chúa khen vì anh khôn khéo, biết sử dụng thời gian ngắn ngủi để tính sổ và lo cho tương lai lâu dài. Chắc chắn Chúa không khen sự bất lương gian trá của anh ta.
Có lẽ khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý dạy các tông đồ sống gian xảo như anh quản lý bất lương mà Người muốn các tông đồ phải nhanh trí khôn như người quản lý biết ứng phó kịp thời, hoàn cảnh, nhất là biết tìm những đảm bảo cho tương lai mình.
Chúng ta sẽ làm gì để chuẩn bị cho đời sống mai sau của mình khi mà xã hội ngày nay coi tiền bạc là thần tài? Trong cuộc sống con người, tiền bạc là một thực tại quan trọng. Những người giàu biết rõ điều đó, vì họ có nhiều tiền và thường sợ bị mất tiền. Những người nghèo cũng biết, vì họ thiếu tiền và thường rất khó khăn mới kiếm được vài đồng. Tiền bạc không thể là cùng đích nhưng thực tế nó chi phối tất cả, bao trùm từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến cả luân lý đạo đức. Và có lẽ vì thế mà đời hay nói rằng: “Tiền là tiên, là phật, là sức bật lò so, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý”. Chúng ta không lạ gì khi thấy người ta cứ quay cuồng lên vì đồng tiền và sẵn sàng làm tất cả vì đồng tiền bất chấp cả luân thường đạo lý. Lừa gạt kẻ khù khờ, bóc lột người yếu kém, trả lương thấp cho người làm công, không gì làm cho họ bối rối lương tâm cả. Họ chỉ nghĩ một điều duy nhất là kiếm tiền thế thôi. Tiền bạc không cần con người nhưng ai cũng cần tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình. Có ai chê tiền đâu, từ người già cho tới trẻ em. Tình nghĩa là chín, tiền bạc là mười, vàng là hai mươi bốn. Thánh Kinh thường nói về tiền bạc và bao giờ cũng nói nghiêm túc. Chúa Giêsu cũng nói như vậy. Khi nói về tiền bạc hầu như nói về sự sống sự chết. Với tiền bạc, người ta làm cho mình hư mất, nhưng người ta cũng có thể cứu sống mình nữa. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó nếu con người dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy nếu con người tôn thờ nó. Phải chăng đời là một chữ “T”? Thực ra, tiền bạc giúp cho con người ta sống và nó có giá trị nhất thời tạm bợ ở đời này, vì khi cái chết ập đến nó trở thành vô nghĩa vì không thể đem bạc tiền châu báu sang bên kia thế giới. Hơn nữa, trong hoàn cảnh suy thoái, làm ăn thua lỗ, tiền bạc là thứ bấp bênh nhất.
Chỉ có một giá trị vĩnh cửu là tình yêu. Tình yêu là tồn tại mãi mãi. Có một câu hát của cha Kim Long mà tôi không bao giờ quên đó là: “Oi mọi sự đều hão huyền, giả trá và đảo điên. Một điều bền vững thiên thu: đức kính yêu Chúa Trời. Chúng ta nhận thấy rằng tiền bạc không phải là tất cả. Tiền bạc chỉ mua được tình dục chứ không mua được tình yêu. Tiền mua được sách chứ không mua được kiến thức. Tiền mua được máu chứ không mua được sự sống… Nhưng tiền của có thể trở nên hữu ích khi biến nó thành phương tiện làm giàu cho sự sống đời sau bằng cách dùng tiền của để giải thoát con người khỏi nợ nần, đói kém, lạnh lẽo… Chúng ta chia sẻ cho tha nhân và phục vụ cho lợi ích chung. Việc làm như vậy là mua lấy bạn hữu đời sau vì những việc lành phúc đức, chúng ta có thể an tâm một ngày kia sẽ được đón nhận vào Nước Trời. Mỗi người chúng ta đừng để vật chất chi phối nhất là trong thời đại lệ thuộc vật chất ngày nay. Chúa không cấm chúng ta tìm kiếm của cải vật chất, Ngài cũng không ngăn cấm chúng ta sử dụng và hưởng dùng. Chính Ngài đã dựng nên chúng và làm quà tặng cho chúng ta. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng sa lầy, đừng chỉ còn biết có vật chất dưới mọi hình thức: tiền tài, danh vọng, lạc thú… Ngay cả khoa học và bao tiện nghi mà người ta quá tôn sùng hay lạm dụng. Tất cả những cái đó làm cho tâm hồn con người tê liệt, lâm vào cõi hôn mê. Khó khăn biết chừng nào để con người thoát khỏi ràng buộc, chi phối bởi vật chất có phải không nào? Thế mà hôm nay Đức Giêsu lại muốn chúng ta phải sống siêu thoát đối với những hấp dẫn vật chất, phải biết tìm sự giàu có theo sự đánh giá của Chúa. Ngài muốn chúng ta dùng chúng như những nấc thang vươn lên những sự cao vời. Ngài muốn chúng ta thành những người cao cả chớ không tầm thường. Thánh Phanxicô Assidi từ bỏ cuộc sống giàu sang để sống khó nghèo vì hạnh phúc Nước Trời.
Mỗi người chúng ta ai cũng có tiền. Kẻ nhiều người ít. Chúng ta làm gì với số tiền đó? Chúng ta có biết sử dụng nó và dùng nó để phục vụ kẻ khác mà không bao giờ làm nô lệ cho nó chăng? Chúng ta có biết dùng nó để mua lấy bạn bè là những người sẽ đón nhận chúng ta vào Nước Trời không? Tiền bạc làm cho chúng ta xa Thiên Chúa hay giúp chúng ta gần Ngài hơn? Đó là những câu hỏi được đặt ra mà mỗi người chúng ta tự trả lời.
32. Tính cách
Người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu không đáng tin cậy và bất lương. Rõ ràng có những lúc anh ta hoàn toàn như thế. Có lẽ bắt đầu là những việc bất lương nhỏ, nhưng dần dần trở thành một cách sống. Anh ta phải biết rằng mình sống trong nguy hiểm. Nhưng anh ta tránh né được sự phán xét của dư luận và của bản thân một thời gian dài. Tuy nhiên, dù có quỷ quyệt, anh ta cũng có lúc bị phát hiện và ông chủ của người quản gia bắt anh ta phải tính sổ.
Đây quả là một thời điểm rất nhọc nhằn và đau đớn cho quản gia. Anh ta không chỉ mất việc làm mà còn mất danh tiếng, anh ta rước lấy xấu hổ và sỉ nhục cho mình và gia đình mình nếu anh có một gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm của chân lý và sự thật được tiết lộ. Nó cho anh ta một cơ hội để bỏ lại sau lưng mình ảo tưởng và dối trá. Do đó, thời điểm ấy có thể là một khúc quanh trong cuộc đời anh ta.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta không học hỏi được gì từ điều đó. Cả sau khi bị cho thôi việc, anh ta tiếp tục sống theo con đường bất lương trước đây. Không hề có một thay đổi nào dù rất nhỏ trong tính cách của anh ta. Không hề có vết trầy xước nào trên bộ áo giáp của anh ta. Anh ta từ chối nhận lãnh trách nhiệm về loại người mà anh ta đã trở thành.
Thay đổi thói quen của một cuộc đời rất khó. Dostoevsky nói: “Nửa sau của cuộc đời một người thường được tạo thành bởi những thói quen được thủ đắc trong suốt nửa đầu của cuộc đời ấy”. Đây là một tư tưởng hay nhưng đáng sợ.
Dường như đến một lúc nào đó trong cuộc đời chúng ta khi thể chất quí giá mà chúng ta được tạo thành đã trở nên khô cứng và chai đá đến nỗi từ lúc đó trở đi chúng ta không thể đảm nhận một hình thể mới. Con người bất lương vẫn cứ bất lương mãi cho đến cùng. Con người tham lam sẽ cứ tham lam mãi cho đến cùng.
Một minh họa.
Một lần kia, một người thánh thiện vừa đi dạo trong rừng vừa giáo huấn các môn đệ. Ông chỉ vào một cây sồi con và yêu cầu một môn đệ nhổ nó lên. Dù với sự giúp đỡ của tất cả các bạn, anh ta cũng không thể nhổ lên được.
Và ông thầy kết luận: “Những đam mê và các thói quen cũng thế. Lúc ban đầu, trước khi chúng đâm rễ sâu xuống, người ta dễ dàng trừ khử chúng. Nhưng nếu chúng ta để cho chúng đâm rễ sâu rồi, thì hầu như chúng ta không thể thoát khỏi chúng”.
Điều đó hầu như đã xảy đến với người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu. Anh ta đã quá quen với cách sống bất lương đến nỗi không thể thay đổi được. Tuy nhiên, điều gì chúng ta không thể làm được trở thành có thể với sự giúp đỡ của ân sủng Thiên Chúa.
Trong khi câu chuyện cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của thói quen xấu nó cũng chỉ ra tầm quan trọng của việc hình thành những thói quen tốt. Bởi lẽ sự bất lương cũng có thể trở thành một cách sống như sự lương thiện. Sự lương thiện có thể trở thành tập quán, tự phát và bản tính thứ hai. Làm thế nào để một người đạt đến tình trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành trong một sớm, một chiều. Nó phải được học tập và thực hành lâu dài. Nó không hoàn thành bởi một ít công trình vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ. Phần thưởng thật sự cho một việc làm tốt là nó làm cho việc làm tốt kế tiếp sau đó được dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ của ngày thường tạo nên hoặc không tạo nên tính cách.
33. Khôn ngoan đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có người khôn “lỏi”. Có người khôn mà không “ngoan”, khôn mà không được người khác thương. Có người ngây thơ như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. “Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn”. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
Khôn theo kiểu thế gian
Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu kể, thật là khôn theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được người ta đón tiếp một khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục để tồn tại, anh ta phải toan tính làm những điều không lương thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm việc. Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương thiện có thể coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn nhau, và khi không còn lợi cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc sống chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!
“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi”. Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình gọi là khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều người trong cuộc sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua bán đổi chác trong mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu “dại” như vậy.
Khôn ngoan đích thực
Người khôn ngoan đích thực, phải là người thấy được điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai xa nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm chết trên dưới năm ngàn người. Sống trong một nước văn minh, con người làm chủ những luật lệ thiên nhiên, biết thời tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được những biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo. Con người gần như cảm thấy an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run sợ. Cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ con người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu? Được gì nếu cái chết xảy đến ngay cả khi mình giầu sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi tiếng, vẫn là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi tiếng đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng khiếp.
Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự khôn ngoan đích thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết, toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là khởi đầu một đời sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống đời này, thì quả là dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích thực, làm con người sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu và ngay trong cuộc sống này.
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài yêu thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu thương con người, con người được tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau khổ.
Đau khổ và sự dữ do con người gây ra cho nhau. Biến cố cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn muốn báo thù, muốn hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.
Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ sống yêu thương mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của Ngài. Sự khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý thuyết con người có thể học được trong vài phút, nhưng là chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu cầu nguyện: “xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”. Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng những bất công người ta gây ra cho con mẹ. Cách sống của Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn sống trong bất bình an. Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét mình, làm con người được bình an tận trong lòng, và giúp kẻ làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của Ngài đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả sự dữ. Đây là cách hành xử của những người tuyệt vời. Khôn ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc sống với những hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại sao vậy?
- Con người có thể sống hạnh phúc không? Khi nào?
- Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở đời này không? Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!
34. Khôn ngoan của con cái sự sáng.
(Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh)
Trong những ngày này, dư luận thế giới vẫn còn chưa nguôi vì nỗi thương đau cho rất nhiều nạn nhân trong các vụ bắt cóc tàn nhẫn đang diễn ra. Nhất là nỗi xót xa khi nghe tin hai vụ rơi máy bay và tấn công vào một trường học ở Nga, làm thiệt mạng quá nhiều người, trong đó có trên 330 trẻ em phải chết cách dã man.
Hoặc mới đây là vụ đánh bom sứ quán Australia tại Indonêsia, giết hại hơn mười người và rất đông những người khác bị thương. Càng thương cho các nạn nhân bao nhiêu, lòng người càng hận bấy nhiêu đối với những kẻ khủng bố không còn mang dòng máu của những con người.
Những kẻ ấy là ai?
Họ là những kẻ rất khôn ngoan, biết suy nghĩ, khả năng tính toán rất cao. Vì thế họ biết cách chọn lựa những phương án hành động tội ác, nhưng kín đáo, không ai có thể phát hiện. Rất tiếc sự khôn ngoan ấy đã bị lạm dụng, đã đặt sai chỗ, vì thế trở nên quá nguy hiểm cho nền hòa bình của thế giới, nguy hiểm cho sự sống của con người. Trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn nghe nói nhiều đến sự khôn ngoan.
Một người ăn nên làm ra, người ta bảo anh ta là người khôn ngoan. Ai đó ăn nói lợi khẩu, nói những lời duyên dáng, khoan thai, nói những lời hay, ý đẹp không làm phật ý nghười nghe, họ được gọi là khôn ngoan. Hay ai đó có thể đoán biết ý đồ xấu của người khác, và tránh né được sự hãm hại dành cho mình, cũng là người khôn ngoan. Một em học sinh khôn ngoan biết chăm lo cho việc học tập của mình, học ngày một tiến tới. Ngay cả một người giỏi mánh khóe, xu nịnh, làm giàu bằng móc ngoặc, ăn cắp của công, hối lộ, tham nhũng… cũng được gọi là khôn ngoan.
Cũng vậy, hôm nay trong dụ ngôn Người quản lý, một bên Chúa Giêsu gọi anh ta là bất lương, bên kia Chúa cũng dùng một kiểu nói mà thói thường người đời vẫn nói: Đó là gọi người quản lý bất lương kia đã hành động khôn khéo. Vì anh ta đã sử dụng trí thông minh, sự gian dối, xảo quyệt của mình để hưởng lợi, để thỏa mãn những tính toán vụ lợi cho riêng mình.
Ở đây có một vấn đề được đặt ra là: Vậy Chúa khen ngợi người quản lý bị coi là bất lương ấy? Bởi đó cũng sẽ là bài học cho chúng ta? Chắc không ai ngây thơ đến nổi nghĩ như thế. Vì ngay sau đó, Chúa Giêsu đã phân biệt rạch ròi: “con cái thế gian” và “con cái sự sáng”. Đã gọi là con cái thế gian, nó chẳng bao giờ thuộc về thế giới của con cái sự sáng, nhưng nó chỉ thuộc về cuộc đời này, đi xa hơn, nó tắm mình và chìm đắm trong cuộc đời này. Vì thuộc về thế gian, con cái thế gian sẽ giỏi mọi ngóc ngách, mọi luồn lách để có thể có được càng nhiều, càng tốt những bảo đảm cho bản thân khi sống trong cuộc đời này.
Bởi vậy, nếu chỉ nhìn về phía thế gian với một tâm hồn chỉ toàn chiếm hữu, vụ lợi, ích kỷ…, thì đúng là”con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng”.Phân biệt rạch ròi giữa “sự sáng” và “thế gian” cho thấy sự tối tăm của thế gian là đêm tối giăng mắc đầy hiểm nguy. Do đó làm sao bóng tối ấy lại có thể là bài học cho chúng ta! Chúa Giêsu cũng không khen ngợi việc làm bất lương của người quản lý. Đúng hơn, Chúa chỉ nhắm đến việc sử dụng trí thông minh, sự khôn ngoan sao cho phù hợp, đúng nơi, đúng lúc, nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho đời sống của mình. Và trên hết, ta phải hiểu đây là một so sánh, Chúa đưa ra để giúp ta chọn lựa thái độ sống theo đòi hỏi của đức tin. Vì nếu nơi thế gian, con cái thế gian dùng sự khôn ngoan của nó để sống, thì con cái của ánh sáng hãy dùng sự khôn ngoan trong đức tin để đạt đến sự sống đời đời.
Vậy, qua câu chuyện về người quản lý bất lương, Chúa kêu mời chúng ta hãy rút ra từ đó những ý nghĩa, những bài học cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Vì có khi đổ vỡ của người khác, ngay cả tội lỗi của chính mình hay của ai đó, cũng có thể là bài học kinh nghiệm cần thiết cho chúng ta sống tốt hơn, đến gần Chúa hơn, biết xa tránh mọi dịp tội hơn. Vì nếu chiếc xe trước đã đổ trên lối mòn, thì xe sau phải tìm lối khác mà đi cách đường hoàng hơn, an toàn hơn.Đó là sự khôn ngoan. Đó cũng chính là “con cái của sự sáng”. Vì sự khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn biết nhận ra chính mình, để không bao giờ tự biến mình thành mối nguy cho mình hay cho anh chị em.
Còn hơn thế, sự khôn ngoan của con cái sự sáng sẽ dẫn họ đi trên con đường có tên Giêsu để mỗi ngày tự hoàn bị mình nhờ chính mẫu gương sống của Chúa Giêsu và Lời Người dẫn lối. Tắt một lời, sự khôn ngoan của người tín hữu Kitô là đi trên Chính Lộ mà chính Chúa Giêsu đã vạch ra.Chính Lộ ấy, sự khôn ngoan ấy là một lối sống được tóm gọn trong Tám mối Phúc thật như sống nghèo khó, hiền lành, chấp nhận Thánh giá, khao khát sự công chính, thương yêu anh chị em, giữ tâm hồn thanh sạch để sống thánh thiện, biết gây bầu khí hòa bình, chấp nhận mọi thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đi trên chính lộ do chính Chúa Giêsu khai mở, ta sẽ chẳng bao giờ phải lo lạc lối. Bạn thân mến, là Kitô hữu, bạn và tôi có chính đời sống của Chúa Kitô làm mẫu mực và có chính Lời của Người làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, hành vi, lối sống của mình.
Bởi vậy, vì là Kitô hữu, sự khôn ngoan của bạn và tôi, không phải là sự không ngoan mà ta vẫn nghe thấy trong đời thường quanh mình, càng không thể chấp nhận thái độ chỉ chọn lựa sống khôn ngoan theo thói đời mà làm cho đời sống đức tin trở thành tăm tối. Sự khôn ngoan của Kitô hữu chỉ có một con đường, đó là ướm mình theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô và sống theo Lời Người dạy mà tám mối phúc thật là bảng tóm gọn của những lời dạy ấy.
Từ những hình ảnh cụ thể của tội ác khủng bố, đến hình ảnh của một người khéo vun quén cho đời sống trần gian của mình mà Chúa Giêsu cho thấy trong vụ ngôn Người quản lý bất lương, chúng ta rút ra bài học đáng giá cho mình: sự khôn ngoan của người tín hữu là trở nên giống Chúa Kitô để được Thiên Chúa yêu thương, đón nhận.Bạn ạ, đời sống Kitô hữu có một nỗi giằng co lớn lắm. Đó là vì ta cũng giống như anh chị em mình: rất say mê cuộc đời, say mê không thua bất kỳ ai. Nhưng ta cũng lại rất say mê vĩnh cửu, say mê đến tận cùng.
Bởi vậy chúng ta hãy làm sao để có thể gặp cái vĩnh cửu trong cái mau qua; vui chơi như mọi người nhưng vẫn tìm niềm vui thiên quốc; làm việc và sống trong cuộc đời, nhưng cũng thăng tiến Nước Trời trong chính cuộc đời ấy. Sự khôn ngoan chúng ta, những người Kitô hữu đó là sự khôn ngoan biết để Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời mình.
35. Phản bội – Lm Bùi Quang Tuấn
Vào một đêm Chúa nhật không trăng sao của mùa đông năm 2001, Bob Hanssen rời khỏi căn nhà ấm áp của mình, tiến ra công viên Foxstone thuộc tiểu bang Virginia, đi đến hộp thư chết mang tên Ellis nằm dưới chân một cây cầu gỗ không người qua lại. Tại đây, Bob nhét vội chiếc túi nhựa với nhiều giấy tờ xuống một chiếc hố nhỏ vừa mới đào. Sau đó y lấp đất và lá lên. Đoạn ra về.
Vừa rời khỏi hàng cây ngoài cùng của công viên, thình lình tám, chín bóng đen xuất hiện, với súng lục lăm lăm trên tay. Họ ập đến chụp lấy Bob, đè xuống và còng tay lại. Đang khi đó mấy bóng đen khác tiến vào màn đêm, trở lại chỗ cây cầu gỗ, đào lên sấp giấy trong bịch nylông mà Bob vừa chôn xuống trước đó mấy phút.
Cũng trong thời gian ấy, tại một địa điểm khác không xa, một vài bóng đen cũng đang lén lút theo dõi một hộp thư bí mật mang tên Lewis. Họ quan sát xem có ai đến lấy số tiền mà Bob chưa kịp tiếp nhận không. Nhưng đợi hoài chẳng thấy, nên họ đã lặng lẽ thu hồi gói tiền trong đó chứa 50 ngàn đô la tiền mặt. Đây là số tiền mà người Nga trả cho Bob, một nhân viên lâu năm của Cơ quan Điều tra Liên bang FBI, để anh này bán cho họ những tài liệu tối mật của Hoa kỳ.
Các nhân viên phản gián FBI đã theo dõi và bắt quả tang hành động phản bội của Bob Hanssen. Họ điều tra và khám phá thêm rằng Bob đã làm gián điệp nhị trùng suốt 15 năm qua, gây nên những thiệt hại không thể đo lường cho uy tín của cơ quan FBI, trong đó có việc chỉ điểm ba điệp viên của Nga làm việc cho Hoa kỳ, khiến cho hai trong ba người này đã bị xử tử. Hiện nay Bob đang chờ ra toà về tội phản quốc và có nguy cơ lãnh án tử hình.
Không ít đồng nghiệp thân quen với Bob đã sửng sốt khi được tin anh ta bị bắt. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Tại sao Bob lại phản bội đất nước, gia đình, con cái và bạn bè như vậy? Phải chăng anh ta bất mãn với cơ quan tình báo và muốn trả đũa việc các nhân viên CIA bị buộc phải dùng đến food stamps vào năm 1985? Hay bởi vì có một khúc mắc tâm lý nào đó trong đầu của Bob Hanssen?
Hàng chục câu hỏi được nêu lên, nhưng câu trả lời dễ hiểu nhất chính là: Bob Hanssen cần tiền. Tính ra từ khi khởi sự mua bán tin mật cho đến ngày bị bắt, Bob đã nhận được 600 ngàn đô, 3 viên kim cương, và 800 ngàn đô khác trong một nhà băng tại Nga.
“Đồng tiền có sức mạnh vạn năng,” nhiều người đã nói như thế. Lắm lúc chính đồng tiền đã làm đảo điên cán cân công lý, dập tắt tiếng nói của lương tâm, và hủy diệt bao quan hệ thân thương giữa con người với nhau. Chỉ vì một lợi nhuận riêng tư mà không ít kẻ đã bất chấp danh dự và nhân phẩm của chính mình, miễn sao có tiền.
Từ thuở xa xưa, lòng tham đã chi phối đời sống con người. Khi ẩn trong đồng tiền là những giá trị vật chất có khả năng trao đổi mua bán, và khi giá trị mọi sự, ngay cả giá trị con người, được qui định dựa trên tiền tài vật chất, thì đồng tiền bắt đầu chiếm địa vị độc tôn trong lòng người ta. Nó trở thành chủ nhân ông, khống chế hết mọi ý hướng đạo đức, công bình, và nhân phẩm.
Đứng trước tình cảnh bao kẻ đàn áp, bon chen, vì đồng tiền, thậm chí còn coi thường phẩm giá và bóc lột đồng loại đến tận xương tuỷ, Tiên Tri Amos, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, đã lên tiếng cảnh tỉnh: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ lãng quên tất cả việc chúng làm cho đến cùng” (Am 8:4-7).
Bị Thiên Chúa lãng quên là một hình phạt khủng khiếp. Bản cáo trạng được đọc lên từ thời xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn có đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, và làm giàu. Vẫn có đó những kẻ chẳng màng chi lễ lạy, cứ “thành tâm” làm nô lệ cho công việc và đồng tiền. Vẫn có đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn có đó những kẻ “lấy đôi dép” để đổi một thai nhi, phá đi một mạng người. Tuy không phải là những tên gián điệp phản bội quốc gia, nhưng họ là những kẻ bội phản con người và rao bán chính mình.
“Các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền tài.”
Chân thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm, người ta sẽ không thể thu lợi bằng con đường bất chính. Giữa Thiên Chúa và tiền của, con người phải chọn một. Nếu đặt Thượng Đế làm cùng đích, tiền bạc phải là phương tiện. Và chỉ có chọn lựa như thế mới mang lại giá trị và hạnh phúc đích thật cho con người.
Bài Phúc âm “Người Quản Lý Bất Lương” đã nên như một lời cảnh tỉnh dành cho con người trong thế giới tôn thờ vật chất. Phải chăng Đức Giêsu muốn nói: sẽ đến một ngày, người ta phải rời khỏi căn nhà trần gian, chẳng ai còn được làm chức quản lý nữa. Họ sẽ phải tính sổ về việc tìm kiếm và sử dụng tiền bạc khi còn tại thế. Người biết dùng của cải để mua bạn hữu, công phúc, sẽ được tiếp đón hân hoan. Kẻ tôn thờ tiền bạc, phản bội lương tâm, tàn phá nhân phẩm sẽ lãnh lấy bản án thịnh nộ gay gắt.
Lời Thánh Kinh vẫn luôn nhắc nhở:
Ấy, con người khác chi hơi thở
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu
Công vất vả ngược xuôi làn gió thoảng
Ký cóp mà chẳng hay ai sẽ tiêu dùng.
(Tv 38)
36. Bất trung hay trung tín- Lm Vũ Khắc Nghiêm
Năm 1990, sau khi hành quyết chủ tịch Ceaucesco (Côsétcu) và bà vợ, nhà độc tài khét tiếng của nước Rumani, người ta thấy ngôi biệt thự của chủ tịch, bên ngoài coi rất tầm thường, bên trong có 40 phòng sang trọng, trang hoàng bằng những bức tranh đắt tiền, phòng tắm thảm vàng, mỗi phòng đều có tivi, video, máy lạnh tối tân. Tài sản của ông không kém gì cựu tổng thống Noriêga nước Panama dính líu buôn lậu ma túy bị bắt giải sang tù ở Hoa Kỳ. Năm 1992, ở Việt Nam, ai cũng biết ông giám đốn ngân hàng Thanh Hương Nguyễn Văn Mười Hai rất khôn khéo, mánh khóe câu khách hàng gửi tiền như nước vào ngân hàng của ông, con ông thì dùng tiên gian dối để ăn chơi: ngồi xe Mercedes hạng nhất, với những vệ sĩ là đầu đảng dao búa. Từ một anh bán hàng rong, chỉ mấy năm ông đột nhiên làm giám đốc một ngân hàng lớn nhất nước. Rồi hàng loạt các ngân hàng khác sập tiệm vì lối làm ăn bất lương như vậy.
Đó là những quản lý bất trung, rất khôn khéo làm những việc bất lương. Nhưng rồi cũng có lúc “cháy nhà ra mặt chuột” như tên quản lý bất trung trong Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu chỉ khen cái khôn khéo, chứ không khen cách làm ăn bất trung của anh.
Cái khôn khéo thứ nhất của anh là khéo ăn cắp tài sản của chủ, mà chủ không thấy. Chắc anh tham nhũng ăn chơi dữ lắm, người ta thấy đau lòng, cực lắm họ mới tố cáo cho chủ biết.
Cái khôn khéo thứ hai là anh biết lo đề phòng cho tương lai, mua được nhiều bạn hữu cho anh tá túc khi bị cất chức. Anh nói: Tôi phải liệu thế nào để khi mất chức thì có người đón tiếp tôi về nhà.
Cái khôn khéo thứ ba là anh biết cách giải quyết bớt xén của chủ cách hợp pháp, có giấy tờ hợp lệ rõ ràng. Anh gọi các con nợ làm văn tự lại: 100 thùng dầu, viết 50 thôi; 100 giạ lúa, viết 80 thôi…; thế là cả hai cùng có lợi!
Thấy những kẻ bất trung khôn khéo làm những việc bất lương như thế, Đức Giêsu thở dài than tiếc cho con cái ánh sáng: “ Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng, khi xử sự với người đồng loại”. Con cái ánh sáng đáng lẽ phải khôn khéo làm những việc chân chính, nhất là trong việc sử dụng tiền của như “dùng tiền của đời này mà mua lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào gia cư vĩnh cửu. Làm như thế mới thật là quản lý trung tín.
Mỗi người đều được Thiên Chúa đặt làm quản lý một gia tài trong vườn diệu quang như Ađam Evà xưa. Gia tài nhỏ là những của cải vật chất, là thân xác mình, là địa lợi chung quanh. Gia tài lớn là những tài năng tâm trí, đức hạnh và linh hồn. Gia tài vô cùng quý giá là nguồn sống vô biên tràn từ các phép bí tích, từ lời hằng sống từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan, thì biết khôn khéo dùng gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, những viên ngọc quý trong nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái ánh sáng.
Cách xử sự khôn khéo trước nhất là hướng về Thiên Chúa, là chủ của mình, mến Chúa là ưu tiên hàng đầu. Làm tôi Chúa mới mong từ bỏ làm tôi tiền của. Làm tôi Chúa bắt đầu bằng lắng nghe lời Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1 Sm 3:9), để sẵn sàng xin vâng: “Vâng, tôi là nô tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Sứ thần nói hãy nhận Chúa Thánh Thần, đón rước Đức Giêsu vào lòng (Lc 1:30-38), đón rước Đức Giêsu ngự xuống trên bàn thờ mọi ngày, lắng nghe Người nói trong thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thần trong các phép bí tích và trong chiêm niệm, trong cầu nguyện liên lỉ, để hô hấp lấy hơi thở thần khí Đức Giêsu, cho ta được kêu lên với Thiên Chúa: “Ba ơi, Ba” với hết tình con thảo.
Cách xử sự khôn khéo thứ hai là hướng về con người. Con người tuyệt diệu nhất là hiền mẫu Maria chan chứa tình yêu thương, yêu thương những đứa con đau thương trong tội lỗi đến thí mạng sống con mình trên thập giá. Tiếp đến những bậc thầy hiển thánh tông đồ, tử đạo, đồng trinh, hiểu tu, mục tử, chân phước là những tôi tớ chân tín và khôn ngoan nhất của Chúa. Các Đấng đang kêu mời chúng ta nhập vào đoàn người đi theo chân Chúa, đến soi sáng cho muôn dân thấy Thiên Chúa là Cha nhân hậu và Đức Giêsu, Đấng cứu độ muôn đời. Xin cho chúng ta biết làm đệ tử của các Ngài. Sau cùng là kết bạn với những người bé nhỏ, những em út tội nghiệp, sầu khổ đáng thương nhất của Chúa. Những người đó là hình ảnh của Đức Giêsu nghèo khổ không có hòn đá gối đầu, đói khát mà chỉ được uống dấm chua, ta đói chỉ có bông lúa ăn trẩy, ta là khách lạ chỉ có máng cỏ bò lùa cho trọ, ta bị bắt bớ tù đầy, đánh đập, vác thập giá, bị đóng đinh, chết treo không giường chiếu. Xin cho con biết làm bạn chia sẻ tiền của, sự sống, tình thương và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn, đắng cay chua sót với các bạn chí thiết đó.
Cách xử sự khôn khéo thứ ba là sống hợp pháp, hợp pháp với giới răn của Chúa, hợp pháp với tình người, hợp pháp với nhân phẩm cao quý thiên chức làm người, người có tình thương, người có lý trí, người có nghị lực, “người chính tâm, thành ý, tri trí và cách vật” để “tu thân, tề gian, trị quốc, bình thiên hạ”, làm cho “tứ hải giai huynh đệ.
Lạy Chúa, xin soi sáng, trợ giúp và đỗi mới chúng con nên tôi tớ trung tín và khôn ngoan như vậy.
37. Hãy biết lo cho tương lai! – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cần biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái.
Ngày nay, chúng ta nhận thấy rất nhiều người dùng tiền để mua chuộc, để thăng quan tiến chức; hay có những người giàu vì làm ăn bất chính, nên họ thường rửa tiền để tránh sự dòm ngó của người khác. Những người như thế thường bị xã hội lên án vì hành động bất nhân của họ. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Người quản gia bất trung” đã làm thiệt hại cho ông chủ, nên đã bị ông chủ thải hồi. Nhưng, mặt khác, Chúa Giêsu lại khuyên họ hãy học theo gương người quản gia, vì ông ta đã biết dùng tiền của bất chính để mua chuộc bạn hữu, đã biết lo cho tương lai vận mệnh của mình. Phải chăng Chúa khen và cổ súy cho hành vi sai trái này của người quản gia? Vậy, nếu điều đó là tốt thì tốt ở chỗ nào? Và, nếu sai thì sai ở đâu? Chúng ta cùng nhau suy niệm.
- Người quản gia bất trung là ai?
Thoạt đầu, mới nghe dụ ngôn này, chúng ta rất dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt mối tương quan của chúng ta vào toàn bộ tổng thể bản văn, cũng như văn hóa của người Do thái thời bấy giờ, thì mới hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta điều gì! Với người Do thái thời bấy giờ, có nhiều người giàu có, họ thường lắm đồn điền ở nhiều nơi. Ông chủ không thể hiện diện cùng lúc tại nhiều chỗ được, vì thế, họ thường đặt những quản gia để trông nom kho lẫm và thay mặt mình để quản lý, điều hành mọi công việc.
Như vậy, người quản gia có một thế giá rất đặc biệt trong e kíp lãnh đạo. Ông chỉ đứng đằng sau chủ của ông; và có quyền thay mặt cũng như đại diện ông chủ khi ông vắng nhà; đồng thời có toàn quyền sắp xếp công việc cho những người làm công. Tuy nhiên, ông ta không có lương như những người làm công bình thường, ông ta chỉ có quyền thu xếp công việc và tìm cách làm lợi cho ông chủ. Khi không có lương như vậy, ông ta tìm cách cắt xén và ghi tăng thêm số lượng để lấy những nguồn lợi bất chính đó về cho mình. Quả thật, người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay đã tận dụng cơ hội “quyền huynh thế phụ” để làm ăn bất chính, hầu thu tích của cải cho mình. Nhưng thật không may, ông ta đã bị chủ phát hiện và quyết định đuổi việc: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16,2).
Trong hoàn cảnh này, ông ta suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16, 3-4). Quả thật, không lẽ từ một người quản gia mà nay lại đi cuốc đất, hay đi ăn mày? Ông ta không thể làm được những chuyện đó vì những mâu thuẫn với con người và vai trò của ông! “Cái khó ló cái khôn”, trước khi bị đuổi chính thức, ông vẫn còn đủ tư cách là đại diện cho ông chủ, và trong thời gian chờ đợi để bàn giao sổ sách, giấy tờ, ông ta tìm cách lấy lòng và tạo bạn hữu bằng việc giảm nợ cho cho những con nợ: “… ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi’” (Lc 16, 5-7). Một cách giải quyết hết sức khôn khéo. Ông vừa được tiếng là tốt bụng, lại còn thêm được rất nhiều bạn bè, hòng khi bị đuổi việc, ông được người ta đón rước mình như một vị đại ân nhân của họ. Và cuối cùng, ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động thật khôn ngoan.
Như vậy, Chúa Giêsu có phải khen người quản gia bất lương vì sự bất lương của hắn ta không? Thưa không! Ngài khen là khen cái tài khôn khéo, biết tính trước cho tương lai vận mệnh của mình, và biết dùng tiền của bất chính để tạo nên bạn hữu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy biết lo cho tương lai của mình, bởi vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Cuộc sống là một cái gì mong manh, ta có thể ra đi bất cứ lúc nào, nên: “không biết lo xa, ắt phải rầu gần”. Phần cuối của dụ ngôn, như một mệnh lệnh, Chúa Giêsu nói: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16, 9); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, làm sao tiền của trở thành nô lệ, đày tớ cho chúng ta, chứ đừng biến nó thành ông chủ của mình: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
- Sứ Điệp Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta biết rằng: mọi sự đều là của Chúa, và chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Mà nếu chỉ là quản lý, thì phải biết giới hạn, phải biết được vai trò của mình đến đâu và phải lo chu toàn trách vụ mà ông chủ trao cho, vì thế, ta phải trung thành và giữ chữ tín trong khi làm việc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).
Cần tránh những hình thức lạm quyền và sa đà vào tình trạng tội lỗi. Hãy biết chia sẻ cho người khác để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và có lợi cho phần hồn của mình. Chia sẻ bác ái được ví như một sự cầu lần, nay người, mai ta: “Người giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng người nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Thật thế, “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Cuối cùng, ta phải biết lo cho tương lai của chính mình như người quản gia trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Hãy mua lấy Nước Trời và làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Thật vậy, tiền của vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế hãy tìm mọi cách mà xây dựng, mua lấy Nước Trời cho cuộc sống mai hậu. Hãy biết lo cho tương lai của mình cách cẩn trọng.
- Sống Lời Chúa Hôm Nay
Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, nhiều người có những tư tưởng tự cao và cho rằng: ta có được như vậy là nhờ công khó của chính chúng ta, mà họ quên mất một điều căn bản rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” ( (Tv 127,1)). Vì vậy, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa khi ta còn có thể tìm được. Hãy nhạy bén và biết hành xử khôn khéo như người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu cảm thán của Chúa Giêsu hôm nay đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “…Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16,8). Đây là câu nói mang tính khiển trách của Chúa Giêsu về thái độ nhạy bén với những giá trị Nước Trời của mỗi chúng ta. Quả thật, nhiều khi chúng ta gặp phải những cám dỗ, thay vì tìm mọi cách để vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi, thì ta lại như “thiêu thân”, cứ muốn lao mình vào. Biết là những tội đó nguy hại cho phần rỗi của mình, nhưng vẫn cứ ung dung tiến đến và muốn ở lại luôn trong đó, bởi vì nơi đó là vũng lầy, nhưng lại là “vũng lầy êm ái”.
Lý do: vì chúng ta không tha thiết gì đến cuộc sống mai hậu, thậm chí lại còn tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự sống thần linh và thay vào đó là một sự sống thể lý thuần túy. Nhưng dù muốn dù không, chúng ta đều phải chân nhận với nhau rằng: cuộc sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, hữu hạn. Cuộc sống mai sau mới là cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, ngay lúc này, hãy biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái; đồng thời biết sử dụng tiền của là những vật hư nát để mua lấy Nước Trời, và, “Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích” hầu chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình, hầu thoát ra khỏi những sự chóng qua ở đời này mà biết lo tìm phần rỗi cho mình trong cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con biết chọn Chúa và những giá trị tốt trong cuộc đời. Amen.
38. Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX Vũ Phan Long
Của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em.
1.- Ngữ cảnh
Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị (c. 18).
Về bài dụ ngôn Người quản lý bất lương, cho đến nay bài này vẫn là một crux interpretum (“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
- a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
- b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),
- c) Áp dụng 3 (c. 13).
3.- Vài điểm chú giải
– một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[1].
– tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu khống.
– phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.
– Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Híp-ri bat, “thùng” tương đương với khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Rô-ma).
– viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.
– Một trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ từ ngữ Híp-ri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
– viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.
– Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu )” hay “ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông chủ” (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai-cập dưới thời Hy Lạp và Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chiu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì đến chủ.
– con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
– nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
– Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Híp-ri mamôn hoặc danh từ A-ram mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?” Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa, tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Có một cách giải thích khách hợp lý hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải hành động với một sự minh mẫn và khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau
Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sê-mít rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ “con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.
Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn) ; câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách nhiệm và sử dụng để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
- Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, túc sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
- Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Người phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với Người, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Người là Chúa tất cả của cải vạt chất và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.
- Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.
- Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng dắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn…
- Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.
———————————————–
[1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London 1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.
39. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng
Dụ ngôn về “người quản gia bất lương” là một trong các câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy trong Tin Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết nhà thuyết giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa bịp đó.
Nhưng đó là một dụ ngôn, một “mâchâl”, một “câu đố “. Chứ không phải là một câu chuyện xây dựng trong mọi chi tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp luận lý và đơn giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử dụng văn phong điển hình của những người kể chuyện phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu người nghe đừng bỏ mất óc phê bình: “Nào, các bạn sáng suốt nhé! Hãy hiểu sự tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là cố ý: Các bạn đã bị nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến thế sao…!
Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông
Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn sẽ diễn tiến trên ý tưởng “quản lý” này. Trong Luật Rôm, cũng như trong tâm thức thông thường, quyền “sở hữu” là “quyền sử dụng và lợi dụng cái gì thuộc về mình”: “Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên tôi làm gì tùy thích”. Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư hữu tư nhân thì khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở hữu, nhưng chỉ là những “người quản lý” của cải vốn vẫn thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền thống này trực tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng sản) và vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại: “Thiên Chúa đã trao trái đất và mọi vật chứa trong đó cho con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).
Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’
Tất cả những gì tôi phải “quản lý”: tài sản, đức tính, sự phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những khả năng tình cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã giao cho tôi và chúng vẫn luôn là các công việc “của Người”. Thiên Chúa không thích “sự phung phí”, đó là một sự xúc phạm những người đang thiếu thốn.
Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!’
Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ ràng sự bối rối của người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị “sa thải”. Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được đàng sau sự vội vàng ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy những người đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình khi còn thời gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian để “lật lại” như người ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng đi ngược lại mục đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải, và quay về.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.’
Sự gian lận này khéo léo đến ba lần: Không mất gì cả không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá đột xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã chẳng thay đổi kể từ Đức Giêsu.
Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng lúa mì cũng rất điển hình ở Palestine. “Một trăm thùng dầu”, là thu hoạch trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu? “Một trăm bao lúa” là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa, tương đương với 364 hecto lít lúa mì! Theo các chuyên gia, sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500 ngày công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền tổng số tiền gian lận.
Về điểm này của câu chuyện, người nghe hẳn phải chờ đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp…
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại
Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi khen người quản gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong lời giải thích mà Người sẽ đưa ra. Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức Giêsu không tán thưởng sự lừa bịp của “người quản gia lừa gạt” hoặc người quản gia bất công” như bản văn Hy Lạp đã nói. Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc về thế giới “bóng tối” mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt với các con cái của “ánh sáng” (1 Thêxalônica 5,4-5).
Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu
Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn! Đấy là lý lo của lời khen ngợi. Trong công thức này ở trọng tâm của bài dụ ngôn, Đức Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử dụng tốt sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu thương vào các mối quan hệ. Đó còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một phương tiện để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu. Nó có thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là niềm vui cho người nào đã góp phần vào niềm vui ấy khi “ban tặng”! Luca trong Tin Mừng của Ngài đã nhấn mạnh đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các thánh sử khác. Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến nỗi những người giàu có chỉ vào được đó nhờ sự bảo trợ và giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có sẽ làm bạn.
Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu hỏi đáng ngại. Tại sao không! Nhưng tốt hơn là “Tin Mừng” cho những người giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào “nơi ở vĩnh cửu” như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ không còn nữa”.
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn
Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này, đây là những châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư tưởng Đức Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc là một “việc nhỏ” khi so sánh với “việc lớn” là Nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có chấp nhận quan điểm đó không?
Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?
Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu nói với chúng ta rằng tiền bạc thì “bất lương”. Đó là một cái bẫy chỉ đem lại sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê 6,17). Tính từ “bất lương” trở đi trở lại năm lần trong trang này. Đức Giêsu đã chới chữ. Người nói về “người quản gia bất lương” rồi giờ đây, Người nói về “tiền bạc’ bất lương”. Từ này cũng thường được dịch là “người quản gia bất chính, bất hảo, bất công”… và “tiền bạc bất chính, bất hảo, bất công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được mời gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất chính không? Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một cách có lợi để tạo thành bạn bè cho mình, nhưng nó cũng có thể là một quyền lực của sự ác.
Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?
Khẳng định thứ ba này có một cung cách hiện đại rất đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án “tha hóa” của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành thật sự cho chúng ta. Sự giàu sang không làm cho một người nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc. Giá trị thật sự ở chỗ khác. Tiền bạc làm “tha hóa” chúng ta, nếu chúng ta để nó “chiếm đoạt” chúng ta.
Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được
Chữ ‘Tiền Của’ viết với một chữ hoa ở đây để dịch từ ‘Mam-mon’, một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì nó mà người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc xiềng xích, chiếm đoạt, đánh đòn với những lo âu về công việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ thỏa hiệp nào: Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông chủ: Thiên Chúa ngày Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao, lợi lộc sáu ngày còn lại trong tuần.
Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?
40. Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Những ngày qua, trên mạng viết rất nhiều bài về Anh Đặng Ngọc Viết.
Hai giờ chiều ngày 11-9, Anh Viết vào tòa nhà Ủy ban Nhân dân thành phố Thái Bình, gởi xe rồi đi tìm Văn phòng của “Trung tâm Phát triển Quỹ đất”, lấy ra khẩu súng Anh bắn thẳng vào 5 cán bộ. Sau đó, Anh trở ra lấy xe và đi mất, để lại đằng sau một hiện trường tang tóc.
Buổi chiều cùng ngày, Anh Viết về quê nhà ở xã Trà Giang, huyện Kế Xương, tỉnh Thái Bình. Anh đi bộ ra chùa Đông Sơn và đến hơn 6 giờ, Anh tự kết liễu đời mình bằng hai phát súng tự bắn vào ngực mình. Bảy phát súng nổ, tuy diễn ra ngắn ngủi nhưng có vọng âm xa, sâu lắng, làm cho lương tâm con người trở nên ray rứt. Ranh giới rất là mong manh giữa trái và phải, giữa lương thiện và bất lương, gây nên những cảm xúc nhiều chiều, trái ngược.
Nhà báo Minh Diện đã điểm lại sự kiện và phân tích nguyên nhân của vụ án đau thương này. (x. Ai cho tôi lương thiện, http://bolapquechoa.blogspot.com).
Ngôn sứ Hôsê nhận định về tình trạng xã hội của Israel vào thế kỷ VIII tcn: “Israel vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú; nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng dựng thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10, 1). Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều, nhận định này của vị Ngôn sứ thế kỷ thứ VIII tcn vẫn đúng cho con người mọi nơi mọi thời, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay ở Việt Nam đã tạo quá nhiều thuận lợi cho tham nhũng trục lợi và bất công tràn lan.
Các Ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo, những người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm mua địa vị chức tước; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi.
Trong Cựu Ước, giàu có thịnh vượng thường được xem như một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng dân Ítraen lại suy nghĩ theo cách của các dân ngoại chung quanh, họ coi sự thịnh vượng của mình là ơn lành của các sức mạnh thiên nhiên mà dân ngoại tôn thờ như những thần linh, thần mưa, thần gió, thần đất. Cho nên vật chất càng phát triển họ càng sùng bái ngẫu tượng nhiều hơn. Đó là một sự phản bội không thể tha thứ: “Chúng là thứ người lòng một dạ hai, rồi đây chúng sẽ phải đền tội” (Hs 10, 2). Thiên Chúa đã kết ước với họ nhưng họ đã thất trung bội tín, lòng họ đã bị chia sẻ. Thay vì tôn thờ một mình Thiên Chúa, nghe theo lời Người dạy bảo và trông cậy vào một mình Người, họ lại chạy theo những thần linh giả dối. Con tim họ đã bị chia sẻ. Ngôn sứ Hô sê mạnh mẽ cảnh cáo Ítraen: “Rồi đây chúng sẽ phải đền tội; bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan, cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ” (Hs 10, 2). Cái gì giả trá thì vẫn là giả trá. Đặt tin tưởng vào nó, tất chẳng thể bền. Rồi đây Ítraen sẽ thấy các thần tượng mình sụp đổ, “bấy giờ họ sẽ nói với núi đồi: ‘Phủ lấp chúng tôi đi!’ và với gò nổng: ‘Hãy đổ xuống trên chúng tôi!'” (Hs 10, 8).
Chính kinh nghiệm cho thấy rằng của cải giàu sang thường đưa người ta đi xa Chúa. Sự sung túc mang tới cho người ta nhiều thứ có khả năng cạnh tranh với Thiên Chúa, và thậm chí thay thế Thiên Chúa, ví dụ như địa vị, quyền thế, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, lạc thú. Tục ngữ ta đã chẳng nói “có tiền mua tiên cũng được” hay “đồng bạc đâm toạc tờ giấy” đó sao? Của cải làm cho người chiếm hữu nó có cảm thức mãnh liệt rằng mình “toàn năng”, muốn gì cũng được! (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay sẽ thấy, người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng của họ và khi đó làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh của các Ngôn sứ, Chúa Giêsu đã dạy: Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và nhân phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu có đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ…Giá trị của tiền tài hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Tiền của là phương tiện để chia sẻ với tha nhân, thánh Phaolô viết cho Timôthêô: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,17-18).
Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
41. Hãy biết lo cho tương lai
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Ngày nay, chúng ta nhận thấy rất nhiều người dùng tiền để mua chuộc, để thăng quan tiến chức; hay có những người giàu vì làm ăn bất chính, nên họ thường rửa tiền để tránh sự dòm ngó của người khác. Những người như thế thường bị xã hội lên án vì hành động bất nhân của họ. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Người quản gia bất trung” đã làm thiệt hại cho ông chủ, nên đã bị ông chủ thải hồi. Nhưng, mặt khác, Chúa Giêsu lại khuyên họ hãy học theo gương người quản gia, vì ông ta đã biết dùng tiền của bất chính để mua chuộc bạn hữu, đã biết lo cho tương lai vận mệnh của mình. Phải chăng Chúa khen và cổ súy cho hành vi sai trái này của người quản gia? Vậy, nếu điều đó là tốt thì tốt ở chỗ nào? Và, nếu sai thì sai ở đâu? Chúng ta cùng nhau suy niệm.
- Người quản gia bất trung là ai?
Thoạt đầu, mới nghe dụ ngôn này, chúng ta rất dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt mối tương quan của chúng ta vào toàn bộ tổng thể bản văn, cũng như văn hóa của người Dothái thời bấy giờ, thì mới hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta điều gì!
Với người Dothái thời bấy giờ, có nhiều người giàu có, họ thường lắm đồn điền ở nhiều nơi. Ông chủ không thể hiện diện cùng lúc tại nhiều chỗ được, vì thế, họ thường đặt những quản gia để trông nom kho lẫm và thay mặt mình để quản lý, điều hành mọi công việc.
Như vậy, người quản gia có một thế giá rất đặc biệt trong e kíp lãnh đạo. Ông chỉ đứng đằng sau chủ của ông; và có quyền thay mặt cũng như đại diện ông chủ khi ông vắng nhà; đồng thời có toàn quyền sắp xếp công việc cho những người làm công. Tuy nhiên, ông ta không có lương như những người làm công bình thường, ông ta chỉ có quyền thu xếp công việc và tìm cách làm lợi cho ông chủ. Khi không có lương như vậy, ông ta tìm cách cắt xén và ghi tăng thêm số lượng để lấy những nguồn lợi bất chính đó về cho mình. Quả thật, người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay đã tận dụng cơ hội “quyền huynh thế phụ” để làm ăn bất chính, hầu thu tích của cải cho mình. Nhưng thật không may, ông ta đã bị chủ phát hiện và quyết định đuổi việc: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16,2).
Trong hoàn cảnh này, ông ta suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16, 3-4). Quả thật, không lẽ từ một người quản gia mà nay lại đi cuốc đất, hay đi ăn mày? Ông ta không thể làm được những chuyện đó vì những mâu thuẫn với con người và vai trò của ông! “Cái khó ló cái khôn”, trước khi bị đuổi chính thức, ông vẫn còn đủ tư cách là đại diện cho ông chủ, và trong thời gian chờ đợi để bàn giao sổ sách, giấy tờ, ông ta tìm cách lấy lòng và tạo bạn hữu bằng việc giảm nợ cho cho những con nợ: “… ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi'” (Lc 16, 5-7). Một cách giải quyết hết sức khôn khéo. Ông vừa được tiếng là tốt bụng, lại còn thêm được rất nhiều bạn bè, hòng khi bị đuổi việc, ông được người ta đón rước mình như một vị đại ân nhân của họ. Và cuối cùng, ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động thật khôn ngoan.
Như vậy, Chúa Giêsu có phải khen người quản gia bất lương vì sự bất lương của hắn ta không? Thưa không! Ngài khen là khen cái tài khôn khéo, biết tính trước cho tương lai vận mệnh của mình, và biết dùng tiền của bất chính để tạo nên bạn hữu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy biết lo cho tương lai của mình, bởi vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Cuộc sống là một cái gì mong manh, ta có thể ra đi bất cứ lúc nào, nên: “không biết lo xa, ắt phải rầu gần”. Phần cuối của dụ ngôn, như một mệnh lệnh, Chúa Giêsu nói: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16, 9); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, làm sao tiền của trở thành nô lệ, đày tớ cho chúng ta, chứ đừng biến nó thành ông chủ của mình: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
- Sứ điệp Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta biết rằng: mọi sự đều là của Chúa, và chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Mà nếu chỉ là quản lý, thì phải biết giới hạn, phải biết được vai trò của mình đến đâu và phải lo chu toàn trách vụ mà ông chủ trao cho, vì thế, ta phải trung thành và giữ chữ tín trong khi làm việc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16).
Cần tránh những hình thức lạm quyền và sa đà vào tình trạng tội lỗi. Hãy biết chia sẻ cho người khác để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và có lợi cho phần hồn của mình. Chia sẻ bác ái được ví như một sự cầu lần, nay người, mai ta: “Người giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng người nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Thật thế, “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Cuối cùng, ta phải biết lo cho tương lai của chính mình như người quản gia trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Hãy mua lấy Nước Trời và làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Thật vậy, tiền của vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế hãy tìm mọi cách mà xây dựng, mua lấy Nước Trời cho cuộc sống mai hậu. Hãy biết lo cho tương lai của mình cách cẩn trọng.
- Sống Lời Chúa hôm nay
Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, nhiều người có những tư tưởng tự cao và cho rằng: ta có được như vậy là nhờ công khó của chính chúng ta, mà họ quên mất một điều căn bản rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” ( (Tv 127,1)). Vì vậy, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa khi ta còn có thể tìm được. Hãy nhạy bén và biết hành xử khôn khéo như người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu cảm thán của Chúa Giêsu hôm nay đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “…Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Đây là câu nói mang tính khiển trách của Chúa Giêsu về thái độ nhạy bén với những giá trị Nước Trời của mỗi chúng ta. Quả thật, nhiều khi chúng ta gặp phải những cám dỗ, thay vì tìm mọi cách để vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi, thì ta lại như “thiêu thân”, cứ muốn lao mình vào. Biết là những tội đó nguy hại cho phần rỗi của mình, nhưng vẫn cứ ung dung tiến đến và muốn ở lại luôn trong đó, bởi vì nơi đó là vũng lầy, nhưng lại là “vũng lầy êm ái”.
Lý do: vì chúng ta không tha thiết gì đến cuộc sống mai hậu, thậm chí lại còn tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự sống thần linh và thay vào đó là một sự sống thể lý thuần túy. Nhưng dù muốn dù không, chúng ta đều phải chân nhận với nhau rằng: cuộc sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, hữu hạn. Cuộc sống mai sau mới là cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, ngay lúc này, hãy biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái; đồng thời biết sử dụng tiền của là những vật hư nát để mua lấy Nước Trời, và, “Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích” hầu chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình, hầu thoát ra khỏi những sự chóng qua ở đời này mà biết lo tìm phần rỗi cho mình trong cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con biết chọn Chúa và những giá trị tốt trong cuộc đời. Amen.