Suy niệm LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- C
Lời Chúa: St 14,18-20; 1Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17
MỤC LỤC
- Đời sống mới 3
- Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 5
- Thánh Thể, quà tặng tình yêu. 8
- Thái độ sống. 11
- Mình Máu Chúa – Veritas. 13
- Bánh Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 16
- Thánh Thể – Mầu nhiệm Đức Tin – Hy Tế Tình Yêu. 20
- Tình yêu tột cùng – Cố Lm Hồng Phúc. 24
- Không thể cho gì hơn nữa. 26
- Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. 28
- Ngài cầm bánh bẻ ra. 37
- Corpus Christi – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn. 39
- Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ. 44
- Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà. 47
- Chạnh lòng thương – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 50
- Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 53
- Tham dự Thánh Lễ. 56
- Để tưởng nhớ Thầy. 58
- Thánh Thể dấu chỉ tình yêu. 61
- Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 64
- Loại bánh con người khao khát – Achille Degeest 67
- Từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em.. 69
- Thánh Thể. 73
- Chúa Giêsu là niềm mong đợi của mọi người. 75
- Thánh Thể. 77
- Mình Máu Thánh – Radio Veritas Asia. 80
- Thánh Thể – Lm. John Nguyễn. 83
- Thánh Thể. 86
- Thánh Thể. 89
- Lương thực. 93
- Mình Máu Chúa Kitô. 95
- Bữa tối trọng nhất – Gm Arthur Tonne. 98
- Lương thực trường sinh – AM Trần Bình An. 100
- Thánh Thể – Bí Tích tình yêu. 105
- Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. 109
- Tình yêu hy sinh trao ban chính mình. 114
- Bí Tích Thánh Thể – Dấu chỉ Tình Yêu. 119
- Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều. 121
- Chú giải của Noel Quesson. 129
1. Đời sống mới
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta khám phá ra một vài khía cạnh chính yếu của bí tích Thánh Thể. Qua bài đọc thứ I chúng ta thấy Melkisêđê là một nhân vật lạ lùng. Ông là vua Salem, đã dùng bánh và rượu để dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa trong thời đại mà truyền thống chỉ dùng chiên bò làm lễ vật. Ông vừa là vua lại vừa là thượng tế, và dường như ông đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Từ đó, truyền thống Thánh Kinh đã coi ông như là kiểu mẫu cho chức tư tế và các cộng đoàn tín hữu, đã noi gương ông, dâng bánh và rượu như lễ vật tạ ơn Thiên Chúa để lãnh nhận những ơn phúc lành Thiên Chúa ban cho.
Tiếp đến qua bài Phúc Âm thánh Luca kể lại phép lạ bánh hoá nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi 5000 người bằng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Phép lạ này là hình ảnh của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này. Ngài đã dùng chính thịt máu Ngài qua hình bánh rượu để làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta.
Sau cùng thánh Phaolô đã kể lại việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể vào chiều ngày thứ năm tuần thánh trước khi Ngài chịu nạn. Rồi thánh nhân đã kết luận: Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chết cho đến khi Ngài lại đến. Vì thế, khi rước lễ thì chính Chúa hiện diện trong chúng ta, kết hiệp chúng ta lại với nhau và cùng nhau kết hiệp với Thiên Chúa, đưa chúng ta từ cõi chết đến nguồn sự sống vĩnh cửu. Chính Ngài đã phá huỷ để tái lập lại chúng ta nên con người mới.
Một sự chết đi và sống lại được thực hiện trong chính tâm hồn chúng ta. Điều đó xem ra có vẻ lạ lùng, nhưng lại là cách thức sinh tồn của vạn vật. Hạt giống không mục nát, không chết đi thì làm sao cây lúa có thể nẩy sinh. Con ngài không tự huỷ thì làm sao nở thành một cánh bướm xinh tươi. Chính nhờ vào sự chết đi mà tạo vật được tiến hoá.
Với chúng ta cũng vậy, khi chúng ta rước lấy Mình Thánh Đức Kitô là chúng ta thực hiện một cuộc tái sinh mới. Chúng ta từ bỏ bản thân để được kết hợp với Đức Kitô. Hơn thế nữa, Thánh Thể còn nuôi dưỡng và thực hiện trong chúng ta một đời sống mới. Người tín hữu phải biết chấp hành những biến đổi do Đức Kitô đem lại, phải từ bỏ mình để làm một cuộc mạo hiểm, vì chúng ta không biết được điều gì Đức Kitô thực hiện trong chúng ta. Đó là một đời sống mới mà chúng ta chưa bao giờ trải qua.
Bởi vậy, với lương thực thần linh bổ dưỡng chúng ta hãy biêt khử trừ những thói hư tật xấu để nhờ đó chúng ta sẽ được mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Chúa.
2. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Không gì quý bằng sự sống. Dù bị thiên tai càn quét hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng người nhà chưa phải chết thì vẫn còn may. Được sống trên cõi đời là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Sách Giảng Viên viết: “Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết.” (Giảng Viên 9,4). Thà làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng.” Vì yêu thương con người vô hạn nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý nhất, đó là sự sống; và Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật (sự sống tự nhiên) mà còn thông ban cả Sự Sống thần linh của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban Sự Sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha, rồi Chúa Cha thông ban Sự Sống của mình cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con) và Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác nhận sự sống của mình từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Ga 6, 57). Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn. Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể. Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.” Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì kẻ ấy nên một với Chúa Giêsu và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai. “Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51). “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54). Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giêsu khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định: “Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy.” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh). Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa: “Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Thánh Thể Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
3. Thánh Thể, quà tặng tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người Do Thái quý trọng hạt lúa miến như thế nào thì người Việt Nam chúng ta cũng quý trọng hạt gạo biết bao. Vì hạt gạo tượng trưng cho sự đầy đủ, sung túc và no ấm. Người Việt Nam còn coi hạt gạo, hạt cơm là “hạt ngọc” Trời cho để nuôi sống con người. Tuy nhiên, để có được hạt gạo con người cũng phải bỏ công sức với một nắng hai sương mà có. Trong bài thơ: “Hạt Gạo Làng Ta” của Trần Đăng Khoa viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi đã nói lên được một phần ý nghĩa đó:
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy.”
Ôi! Thật là một sự hy sinh, cần mẫn vượt lên trên cái nắng đổ lửa, gay gắt đến nỗi “Chết cả cá cờ / Cua ngoi lên bờ”, ấy thế mà: “Mẹ em xuống cấy”… Mẹ đâu quản nắng mưa, đầu tắt, mặt tối để kiếm bát cơm đầy cho con, cho gia đình ấm bụng. Cha đâu quản “một nắng hai sương”,“bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để vun trồng chờ ngày cho lúa trổ bông. Vì thế, có ai đó đã nói rằng:
Ôi hạt lúa
Ngậm nắng uống sương
Hạt hình cong tấm lưng người cày cấy.
Cày cấy với biết bao mồ hôi, tần tảo hy sinh, nhưng để thành hạt gạo, hạt lúa lại còn bị thanh luyện một lần nữa để thành hạt gạo thơm ngon.
Ôi hạt lúa
rồi cũng thành hạt gạo
Đau đớn qua rồi
Gạo trắng tựa bông.
Có lẽ Chúa Giêsu khi chọn tấm bánh làm nên từ hạt lúa miến là biểu tượng cho chính thân thể Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở con người phải trân quý Tấm Bánh Trời Ban, vì đây cũng là dấu chỉ của một tình yêu cao cả không phải của con người làm ra mà là của Thiên Chúa ân ban. Tấm bánh biểu lộ tình yêu tự hiến hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Tấm bánh là thành quả của mồ hôi, của công sức, của hy tế hiến dâng để trở nên của ăn của uống cho nhân trần.
Trong Thánh Kinh ghi lại: “Trong đêm bị trao nộp, Chúa Giêsu cầm bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ.” Tại sao không phải là một đêm thanh bình hay một ngày bình an để thiết lập Bí tích Thánh Thể? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn giữa lúc nguy nan trăm bề sợ hãi để trao ban Thánh Thể Mình cho các môn sinh? Có lẽ, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh yếu tố hy tế thập giá, là một hy tế tự hiến đầy hy sinh. Thánh Thể được làm nên trong hiến tế thập giá, trong máu và nước mắt của Chúa. Thiên Chúa đã làm tất cả điều đó vì yêu con người. Vì yêu mà Ngài chẳng màng những hy sinh, những đắng cay muôn phần. Cũng như một người mẹ chẳng quản ngại dầm mưa giãi nắng để gieo trồng hạt gạo thì Chúa Giê-su cũng đi vào cuộc thương khó để làm thánh tấm bánh hằng sống cho nhân trần. Nếu như cha ông ta đã từng đồng cảm với bao vất vả cực nhọc thấm đẫm mồ hôi của người nông dân, chân lấm tay bùn và lên tiếng nhắc nhở mọi người: “Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.” Có lẽ Giáo Hội cũng nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng món quà Thánh Thể mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Một món quà vô giá vì được ban tặng trong hiến tế đẫm máu của Đức Kitô trên Thập giá. Một món quà mà Thiên Chúa đã vun đắp với trọn tình yêu hy sinh chết cho người mình yêu.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta tạ ơn về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Tình Ngài vẫn đong đầy cho chúng ta qua Thánh Thể Chúa. Tình Ngài vẫn chịu hiến tế vì chúng ta và qua đó trao ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời để: “Ai ăn bánh này sẽ không chết bao giờ”. Xin cho chúng ta luôn biết siêng năng đón nhận Thánh Thể Chúa là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết hiến tế đời mình kết hợp với hiến tế của Chúa để sinh ơn ích cho mình và cho muôn người.
Xin Mình Máu Thánh Chúa bổ dưỡng và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ xa lánh ơn lành của Chúa. Amen.
4. Thái độ sống
Chúa Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.
Các môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.
Nhưng Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này. Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại, khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.
Và Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì hạnh phúc của người khác.
5. Mình Máu Chúa – Veritas
(Trích trong ‘Hãy Ra Khơi’)
Hôm nay, tôi bỗng chợt nhớ đến một kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp lại mãi trong thời gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát các mương đìa quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín hoặc tiếc nuối những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn nhưng mẹ tôi lại cứ lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc hối tiếc những con tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm, những người cần đến. Mỗi lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại bảo: “Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho người ta ăn thì còn mãi”. Tôi không bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm với chính hành động chia bánh, chia cá cho những người xung quanh.
Hôm nay đọc lại đoạn Tin Mừng của lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua và nhất là lời giải thích của mẹ tôi: “Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn”. Một lần nữa lại xuất hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm mà các tông đồ đã trải qua ngày xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ đã được nhìn thấy nhiều việc làm của Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối với con người. Những lời nhắn nhủ dạy bảo của Chúa đã đánh động các ngài là sẽ không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh quang, danh vọng, địa vị cho bản thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện với một nhu cầu cụ thể của muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có phản ứng tránh né, thoái thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp vào. Các ngài đã nhắc khéo Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy vấn đề ăn uống. Chúa Giêsu đã làm ngược lại, Ngài ra lệnh: “Các con phải cho họ ăn”. Làm đồ đệ của Chúa, nhất là trong địa vị các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời mời gọi của tình bác ái liên đới. Và không để các tông đồ sống trong một thái độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc cho đi của Ngài. Trước hết, bằng việc chịu cực một chút, dấn bước hơn một chút để ra khỏi cái tôi ích kỷ, để tổ chức đám đông ngồi xuống bãi cỏ thành từng nhóm cho có trật tự.
Chắc chắn, đây cũng là một công việc khá phức tạp so với phương tiện thời đó. Phức tạp hơn là việc rửa chén quét nhà, rót cho người khách một ly nước, dù chỉ là một ly nước lã, nếu phải ly nước trà lại càng phải hy sinh nhiều hơn nữa: “Con ạ, mình ăn thì hết, người ta ăn mới còn”. Không biết mẹ tôi đã học được lẽ khôn ngoan này nơi đâu? Chắc chắn không phải nơi sách vở, vì mẹ tôi chỉ học xong tiểu học, như vậy có thể là từ Chúa. Tôi không biết. Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ cầm lấy bánh và cá mà Ngài vừa chúc phúc để đem phân phối cho dân chúng. Như mẹ tôi đã bảo tôi đem bánh, đem cá đi cho người xung quanh để họ cũng được hưởng một bữa ăn ngon như nhà tôi lúc tát đìa hoặc làm bánh. Cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện và được mô tả trong đoạn Phúc âm của thánh Luca hôm nay loan báo cho các môn đệ là Chúa sẽ thiết lập Bí tích Thánh Thể sau này. Chắc chắn sau kinh nghiệm sống với Chúa, các tông đồ hiểu được bí quyết sâu xa của Bí tích Thánh Thể, hy sinh chính bản thân mình như Chúa để nên của ăn đem lại hạnh phúc vui mừng cho anh chị em.
Chúng ta có thể nói, mừng lễ kính Mình Máu Chúa hôm nay như là ôn lại một kinh nghiệm gia đình, kinh nghiệm đại gia đình Giáo Hội của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là trung tâm trong đời sống của mỗi người chúng ta cũng như là trung tâm của sinh hoạt Giáo Hội. Mỗi người chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi ôn lại kinh nghiệm gia đình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với các tông đồ ngày xưa, Ngài mời gọi các tông đồ hãy cộng tác với Ngài để cho đi, cho đi chính Ngài, cho đi chính bản thân của họ. Mỗi người chúng ta hôm nay cử hành lễ Mình Thánh Chúa, chúng ta cũng được mời gọi cho đi chính mình như Chúa đã cho đi. Chúng ta tôn thờ sự hiện diện của Chúa không đủ, chúng ta còn phải để cho Chúa sống trong chúng ta, để Chúa cho đi trong chúng ta và chúng ta được mời gọi cho đi như Ngài. Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta cho đi trong tình thương bác ái, để chúng ta được sống như Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể mỗi ngày như Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
6. Bánh Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ông tổ Abraham đi cứu người cháu là ông Lot bị bắt giữ, khoảng 1850 năm trước khi Chúa Giêsu giáng trần. Trên đường trở về đi qua Salem, ông Abraham đã gặp ông Melchizedek vừa là vua và là tư tế. Melkizedek đã dâng bánh và rượu cho Abraham. Bánh và rượu là biểu tượng của Bí tích Thánh Thể sau này được hiến dâng bởi tư tế theo dòng Melkizedek: Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (Stk 14, 18). Từ thuở xa xưa, con người đã biết biến chế hạt miến, hạt mì thành bánh và ép những trái nho ủ lên men thành rượu. Đây là một tiến trình hòa lẫn biến đổi bánh rượu thật tuyệt vời. Tất cả mọi loài vật khác trên địa cầu đều ăn tươi nuốt sống theo luật tự nhiên. Riêng con người, bánh và rượu là căn cốt thực phẩm được chế biến để đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người mọi thời và mọi nơi.
Trong ba năm rao giảng, phúc âm kể lại hai lần Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Trước khi Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều, Chúa đã dạy dỗ và an ủi chữa lành bệnh tật cả tâm linh lẫn thể xác. Chúa yêu thương đoàn dân như chiên không có người chăn dắt. Người ta mải mê nghe lời Chúa quên cả ngày giờ. Chúa cảm thông mọi nỗi khát khao của họ. Chúa cho họ các món ăn cả tinh thần lẫn thân xác. Hôm nay, Chúa muốn các tông đồ lo liệu thức ăn cho đám đông. Thật là bối rối, của ăn đâu cho đủ để nuôi cả mấy ngàn người: Đức Giê-su bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này.” (Lc 9, 13). Chúa muốn thử thách các các tông đồ một chút. Với lòng cảm thương sự đói khát của đoàn dân, Chúa đã sẵn sàng dùng bánh và cá như dấu chỉ của trời cao trao ban: Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông (Lc 9, 16).
Có thể chúng ta cũng cảm thấy hơi lạ, dân chúng ăn bánh với cá. Bánh là thức ăn chung của nhiều dân tộc nhưng với cá khô nướng hay cá kho. Mỗi dân tộc có những món ăn riêng biệt làm nên căn tính con người. Thức ăn nuôi dưỡng con người cả tinh thần lẫn thể chất. Thức ăn đi đôi với suy tư, quan niệm và triết sống. Đại khái thức ăn biểu trưng của người Việt Nam là cơm gạo, người Căm Bốt có mắm Bồ hóc, người Ấn Độ có món Cari, người Đại Hàn có Kim chi, người Trung Hoa có Mì phở, người Ý có Pizza, người Hoa Kỳ có Hamburger và người Mễ Tây Cơ có Taco, đỗ đậu…Thức ăn làm nên căn tính của mỗi dân tộc. Chúng ta tôn trọng sự khác biệt trong vấn đề văn hóa thực phẩm. Món ăn của các Kitô Hữu trên toàn thế giới, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chúng ta cùng ăn chung một thứ bánh và uống chung một chén rượu. Bánh và Rượu của Bí Tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã chọn lựa. Khi chúng ta được ăn bánh và uống chén của Chúa, chúng ta trở nên chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Khi hoàn tất việc rao giảng Tin Mừng, trước khi Chúa Giêsu từ giã thế gian, Ngài đã để lại cho Giáo Hội một gia bảo quý giá vô cùng. Cũng bánh đó, rượu đó mà chúng ta được dưỡng nuôi hằng ngày. Chúa Giêsu đã chọn lựa bánh rượu trong muôn ngàn loại thực phẩm để hiến thánh. Trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng, Chúa Giêsu đã cử hành một nghi thức hết sức nhiệm mầu: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy ( 1Cor 11, 24). Và Chúa đã chọn rượu nho để thánh hiến trở thành Máu Chúa. Chất rượu trong chén thánh là giá máu của giao ước mới. Chúa Giêsu dùng cả bánh và rượu biến đổi thành thịt và máu thánh Chúa: Cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”(1 Cor 11, 25).
Đây là mầu nhiệm đức tin. Các tín hữu tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin vượt trội trên tất cả mọi việc cử hành phụng vụ. Người không thuộc trong đạo Công Giáo, không thể nào hiểu nổi, tại sao người tín hữu lại tin vào tấm bánh bé mọn và chén rượu nho đó là Mình Máu Thánh Chúa. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có niềm tin vào sự biến đổi bản thể của một sự vật như thế. Trong cử hành thánh lễ, qua lời truyền phép của linh mục, bánh và rượu trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. Một sự biến đổi lạ lùng qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mọi người tuyên xưng niềm tin và phủ phục tôn thờ Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh hình rượu. Và khi trao Mình Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên xác tín: Mình Thánh Chúa Kitô, Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Có nghĩa là chúng ta tin thật Chúa hiện diện đó.
Các linh mục thay mặt Chúa và Giáo Hội dâng thánh lễ mỗi ngày. Giám mục và linh mục đều là con người yếu đuối, tội lỗi và mỏng dòn chứa đầy tham thân si. Qua sứ vụ, Chúa đã chọn gọi những con người tầm thường để thi hành việc thánh. Thật ra, không ai là người xứng đáng đại diện đứng trước bàn thánh để dâng thánh lễ. Trong lễ hiến tế, Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa bị lột trần, bị đòn đánh nát thân, mồ hôi cùng vết thương rướm máu chảy lan, chân tay bị đóng chặt vào thánh giá, chịu đói chịu khát, quằn quại đớn đau và máu cùng nước từ cạnh sườn đã chảy ra tới giọt cuối cùng. Vì đuối sức, Chúa bị nghẹt thở và đã chết trên thánh giá để cứu độ nhân loại. Chén Máu đã đổ ra lập giáo ước mới không chỉ trong bữa tiệc ly mà là chén máu châu báu đang hứng từng giọt từ châu thân của Chúa trên thánh giá. Chén Máu của nhục hình khổ đau và chết.
Trên gian cung thánh, trước bàn thờ dưới chân thánh giá Chúa, các chủ tế mặc áo lễ thiệt đẹp, có khi rước sách linh đình, chén vàng bát kiểu, bàn thờ đá quí và hoa nến trang trọng. Các linh mục cử hành thánh lễ trong không gian rộng rãi, thoáng mát và chẳng phải chịu nắng nôi đớn đau và khổ sở như Chúa Giêsu trên thập giá xưa. Mỗi linh mục cần ý thức vai trò đại diện quan trọng của mình trong khi cử hành thánh lễ. Các linh mục có trọng trách giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Chúa Giêsu là vai chính. Chúng ta biết rằng thánh lễ hy tế là trung tâm của tất cả niềm tin Kitô Giáo. Cử hành thánh lễ tưởng niệm sự hiện diện của Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Thánh lễ là cử hành Bí tích tình yêu dâng hiến. Thánh Phaolô lãnh nhận giáo lý từ chính Chúa Giêsu phục sinh và truyền lại cho các thế hệ, Ngài nhắc nhớ: Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết (1Cor 11, 26). Chúng ta ăn Bánh và uống Chén hằng tuần, chúng ta tiếp tục loan truyền Chúa chịu chết và sống lại. Mỗi lần lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta được biến đổi nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con Bí Tích Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quí, chúng con cùng phục bái tôn thờ. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để an ủi và cảm thông những gánh nặng cuộc đời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Hơn nữa, Chúa còn dưỡng nuôi chúng con bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, xin cho chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt trong ân tình Chúa.
7. Thánh Thể – Mầu nhiệm Đức Tin – Hy Tế Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, lễ kính Mình Máu Thánh Chúa được Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 và được cử hành vào thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức là 60 ngày sau lễ Phục sinh. Lễ này gồm hai phần: Thánh lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, và cao điểm Rước Kiệu Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường và hát bài của Thánh Tôma Aquinô: Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê. (Ca nhập lễ)
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội long trọng công khai Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Mầu nhiệm đã được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được nhớ đến vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho tất cả, được bao bọc bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, đức tin chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là mình Chúa Kitô và Rượu lại là máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, Bí tích cần thiết để dẫn dắt chúng ta trên con đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa không để chúng ta mồ côi: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Nhưng Ngài ở lại với chúng ta thế nào khi trở cùng Cha? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thể hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo Hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Ngài trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức Tin Công Giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, Ngài đã làm người thực sự. Để cứu chuộc con người, Ngài đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là máu châu báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người. Vì thế, Ngài được các tín hữu ăn: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Ngài đối với chúng ta: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn…”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: “Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa,” (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Ngài lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Ngài kết hợp chúng ta với Ngài, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy.” (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Ngài đã sinh ra thì Ngài nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Ngài làm cho ta vững tin rằng Ngài đã mang lấy chính xác thân của ta”. Ngài tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta”, “làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là truyền thống rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh trên các nẻo đường
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh nuôi sống đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
8. Tình yêu tột cùng – Cố Lm Hồng Phúc
Ở trong nhà tiệc ly chiều hôm thứ năm thánh ấy, Chúa Giêsu đã cầm bánh và rượu lập nên phép Thánh Thể. Bánh đã trở nên mình Chúa, rượu đã trở nên máu Chúa. Thì cách đó độ 300 thước, trên sân đền thờ người Do-thái cũng giết con chiên lấy máu rẩy lên bàn thờ, họ dâng bánh thánh theo luật Môisen dạy. Ngài cũng làm một nghi lễ, nhưng mặc cho nghi lễ ấy một ý nghĩa sâu xa: Ngài vừa là Thầy cả vừa là của lễ hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha, vừa là của nuôi linh hồn ta.
Trong bài đọc I, Kinh Thánh kể lại việc Môisen làm hy lễ giao hòa bằng cách lấy máu bò tơ tưới lên bàn thờ. Người xưa coi máu là sự sống, cấm đổ máu người ta là cấm hại mạng sống người vì mạng sống thuộc quyền của Chúa; người xưa lấy máu để tỏ tình đoàn kết giao hòa. Hai bộ lạc dễ tỏ tình đoàn kết thì cho hai vị thủ lãnh gặp nhau, lấy dao rạch máu ở tay, và đôi bên uống máu nhau. Bằng nghi thức ấy, họ cho rằng hai bên đã uống nguồn sống của nhau và đã trở nên anh em, đã giao hòa mãi mãi với nhau. Môisen đã làm nghi lễ ấy khi lấy máu bò tơ, đại diện cho toàn dân để tưới lên bàn thờ Thiên Chúa: giữa Thiên Chúa và dân đã có một cuộc giao hòa vĩnh viễn.
Khi lập nên phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã hoàn tất việc giao hòa giữa ta với Thiên Chúa. Máu thánh của Ngài chảy trong huyết quản của ta, làm cho ta giao hòa nơi Thiên Chúa, Ngài ở trong ta như ta ở trong Ngài. “Này là chén máu Ta, máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được khỏi tội”. “Nếu các con không ăn thịt và uống máu Ta thì các con không có sự sống đời đời”.
Thánh Thể là một cuộc giao hòa – Thánh Thể là một lễ tế.
Chúa Giêsu biết giờ sau hết của Ngài đã gần đến thì Ngài yêu thương ta đến tận cùng. Ngài đã làm gì? Ngài diễn tình yêu ấy ra trước cuộc tử nạn của Ngài sẽ xãy ra ngày mai; Ngài cầm bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: “NÀY LÀ MÌNH TA”. Bánh ấy đã trở nên mình Ngài, mà ngày mai sẽ bị roi đòn đánh đập, bẻ gẫy như chiếc bánh hôm nay, đã hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha và làm của ăn nuôi linh hồn ta. Hai việc ấy là hiến dâng và nuôi sống linh hồn ta, chính là một cuộc lễ hiến tế và Ngài muốn chúng ta phải làm đi làm lại: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.
Vậy phép Thánh Thể là cuộc giao hòa chúng ta với Chúa, là việc tế lễ ta với Chúa. Hôm nay mừng mầu nhiệm ấy, chúng ta hãy dâng tất cả để tôn vinh và cảm tạ Chúa, vì đã ban cho chúng ta phép Thánh Thể.
9. Không thể cho gì hơn nữa
Cách đây không bao lâu, một đám thợ lặn đã tìm ra chiếc tàu Tân Ban Nha bị chìm dưới đáy biển ngoài khơi Bắc Ái Nhĩ Lan. Trong số các báu vật tìm được trong tàu, họ thấy một chiếc nhẫn bằng vàng, trên mặt nhẫn có chạm một bàn tay nắm trái tim với dòng chữ:
– Anh không còn gì hơn nữa để cho em!
Hình ảnh về câu nói trên nhắc chúng ta nhớ đến việc Chúa Giêsu đã chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Trái tim người đã bị đâm thủng vì chúng ta và Ngài còn tự nguyện trở nên thần lương cho đời sống Kitô hữu của chúng ta trong Bí tích Thánh Thể.
Nhiều nhà thần học gia nói rằng: việc Chúa Giêsu từ bỏ ngai Trời của mình hoá thân làm người cũng đủ cứu chuộc chúng ta rồi. Thế nhưng, với lòng yêu thương chúng ta quá bội, Ngài còn muốn trao ban cho chúng ta tất cả tình yêu, trao ban cả mạng sống của Ngài. Chính sự hy sinh vô cùng này có sức cứu chữa tất cả mọi tâm hồn tội lỗi, tha thứ mọi hình phạt mà con người đáng phải chịu. Ai yêu mến Chúa hết lòng, và ước ao trở nên một với Ngài trong Bí tích Thánh thể, sẽ được nên giống Chúa và chắc chắn sẽ được phần thưởng Nước Trời.
Thời nay, chúng ta không được gặp Chúa Giêsu, không được nghe Người giảng trực tiếp như các Tông đồ ngày xưa, nhưng chúng ta có Bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu không muốn chúng ta thiệt thòi hơn dân Do Thái xưa nên Người đã lập Bí Tích Thánh Thể, để tiếp tục ở với chúng ta, đến với từng người chúng ta như xưa Người đã đến trong dân Do Thái. Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ là chúng ta được nghe lại lời Chúa và suy niệm theo sự gợi ý của vị linh mục, sau đó được rước chính Chúa vào lòng như xưa kia Giakêu, Phêrô, chị em Lazarô… đã rước Chúa vào nhà mình. Giáo lý Công giáo dạy rằng: mỗi khi chúng ta rước lễ là được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và hợp nhất với nhau, được tha thứ các lỗi nhẹ, được Chúa thêm sức giúp chúng ta chống trả các cơn cám dỗ… Vấn đề là chúng ta có cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong lòng mình không? Hay chúng ta rước lễ vì thói quen, rước rồi mà không nhớ là Chúa đang ngự trong lòng mình, quên việc tiếp đón và tâm sự với Chúa. Nếu chúng ta rước Chúa cách thờ ơ như vậy thì không chừng đáng bị phạt hơn là được ơn. Vì vậy, phải chuẩn bị tâm hồn kỹ lưỡng trước khi rước Chúa. ước gì mỗi lần rước Chúa, chúng ta đều rước với lòng yêu mến chân thành, cung kính để an ủi trái tim Chúa và nhận được tràn đầy ơn ích thiêng liêng.
Xưa kia, Thiên Chúa ngự xuống núi Sinai và nhắn gởi những lời thương yêu, nhắc bảo, sửa dạy dân chúng mà dân Do Thái cảm thấy rất phấn khởi và đầy lòng kính sợ Chúa. Còn chúng ta rước Chúa thường xuyên với tâm tình nào? Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu không? Có lẽ chúng ta chưa được như vậy! Vì vậy, hôm nay chúng ta hãy xin Chúa ngự vào lòng và làm cho long chúng ta bừng cháy lửa yêu mến Chúa, vui long hy sinh phục vụ cho gia đình, và tha nhân, chu toàn các bổn phận mà mình đã lãnh nhận trong chức vị hiện tại của mình đối với Giáo Hội và xã hội.
Xin Mình Máu Thánh Chúa mà chúng con rước lấy hàng ngày thêm sức cho linh hồn con, cho tâm trí con được chan chứa tình thương và lòng vị tha bác ái, để chúng con thật sự là chứng nhân cho Chúa giữa trần gian này.
10. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu
Lễ nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm nay? Đó là vấn đề đã được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi. Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hàng ngày nên không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ XII, vì có người đặt vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
- Bánh rượu trong tay Melkisedek.
Bài sách Khởi Nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa, thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.
Tác giả sách Khởi Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện. Nhưng đây là ba câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng Hòa Bình. Chắc chắn câu truyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc đặt chân đến.
Hơn nữa, ở đây, nơi đô thị ‘Hòa Bình’ này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật ‘mầu nhiệm’. Ông không phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là ‘ông vua công chính’. Về sau người ta đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông như không cha không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện này.
Ông ra đón Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là Vua Salem, ông đã không nghênh đón ‘người đại thắng khải hoàn’ theo cung cách triều đình, nhưng với tác phong là tư tế; vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính vị tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối Cao mà ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất, nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những tư cách này khiến con cái Israel –cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của Thiên Chúa.
Điều này cũng nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ Đấng dựng nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng trọng.
Tuy nhiên Cựu Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisêdek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên, chuẩn bị cho việc tôn thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó ngày nay trong Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu ‘là hoa mầu ruộng đất và lao công vất vả của con người’ để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang chờ được vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisêdek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu đã được dâng từ thời Melkisêdek để trở nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và Melkisêdek là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.
- Bánh rượu trong tay Chúa Giêsu.
Chắc chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ lại một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Ngài ra đi chịu chết.
Lần ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác. Việc này xảy ra trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn đệ Chúa đã kể lại việc này theo ‘khuôn mẫu’ của việc Người cầm lấy bánh rượu ở trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc ly.
Thánh Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật, đây là điều người đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp nhau để cử hành ‘bữa tiệc của Chúa’. Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là ‘của Chúa’ cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác. Những người này nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta chỉ mượn ‘Nhà của Chúa’ để mang đồ ăn của ‘nhà mình’ tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành ‘bữa ăn tối’ của Chúa nữa.
Thế nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là ‘bữa ăn’ đích thực của Chúa. Người làm cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta… vì các ngươi…”. Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta”. Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Người nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm Đức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và ‘Bữa Ăn Của Chúa’ luôn luôn mang sắc thái của bữa Tiệc ly.
Đó cũng là bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước mới. Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến mình nên Chiên Vượt Qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì phải đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Ngài bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Đức Giêsu đã bảo: ‘Phải làm sự này mà nhớ đến Người’. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được Giao Ước mới, phải làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ ‘mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa… anh em làm bất xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.
Những lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể; Người muốn rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Đây là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với ‘ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc Tử Nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.
Bánh rượu trên tay Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu như trên tay Melkisêdek nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó không phải chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao công vất vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới, nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.
- Bánh rượu trên tay chúng ta.
Dĩ nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ ‘Bữa Ăn Của Chúa’, mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Ở đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Đức Giêsu nơi bàn Tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn Tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi những người đi theo Chúa vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi… Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân chúng.
Chúng ta bảo bữa ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện này cũng có ý báo trước những việc xảy ra sau… nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc Thánh Thể, thánh Luca còn muốn chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các Tông Đồ. Lúc đầu họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài trao bánh cá cho họ phân phát… cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 Tông Đồ.
Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của ăn vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ vụn?
Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được Chúa nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
11. Ngài cầm bánh bẻ ra
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật. Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành tôi. Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên, nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng. Tôi được nuôi bằng trời cao, đất rộng và biển cả.
Từ lâu Đức Giêsu mang một khát vọng lớn, đó là nuôi sống linh hồn con người, nuôi mọi tín hữu thuộc mọi thời đại, và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài, bằng cái chết và sự sống của Ngài. Ngài có mắc bệnh hoang tưởng không? Cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển cho ta thấy Đức Giêsu là con người bình thường khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.
Ngài muốn ta tham dự vào cuộc Vượt Qua của Ngài, Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta; thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt Mình Ngài, thành thức uống bằng cách biến rượu nho thành Máu Ngài. Như thế ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần, người ấy nên một với Ngài. Không phải Ngài trở thành người ấy, cho bằng người ấy trở thành Ngài.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Mỗi thánh lễ là một lần nhớ đến và làm sống lại hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Tình Yêu. Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Cần ngắm nhìn cử chỉ bẻ bánh của Đức Giêsu. Tấm bánh trở thành Tấm Thân Ngài được bẻ ra và trao hiến trên thập giá. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên mãi. “Anh em hãy cho họ ăn đi.” Như các môn đệ, chúng ta cũng lúng túng và bất lực trước cơn đói của con người hôm nay, đói cơm bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng. Nếu chúng ta dám trao cho Đức Giêsu tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ nhoi; nếu chúng ta chịu để cho Ngài bẻ ra, và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ, thì chúng ta có thể nuôi được cả thế giới.
Thỉnh thoảng bạn nên cầu nguyện trước Thánh Thể. Bạn có thể học được nhiều điều. Con Thiên Chúa vinh quang rất mực, lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh mong manh, lặng lẽ, đơn sơ. Tấm bánh không biết nói, không sống cho mình. Tấm bánh hiện diện là để cho người ta thưởng thức, và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng. Chúng ta có thể bắt chước lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể không?
Gợi Ý Chia Sẻ
- Thánh lễ có làm thay đổi đời bạn không? Việc rước lấy Đấng đã tự hiến qua cử chỉ bẻ bánh có giúp bạn dám chia sẻ đời mình cho tha nhân không?
- Để có một thánh lễ Chúa Nhật đầy ý nghĩa, bạn thấy mình phải chuẩn bị trong cuộc sống ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa. Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ… Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
12. Corpus Christi – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nguồn gốc ngày lễ:
Vào năm 1246, tại Toà giám mục Liège của Bỉ quốc, người ta thấy có cuộc gặp gỡ bất thường giữa Đức Cha Rôbectô de Thorate và sơ Juliana, một nữ tu khiêm hạ và thánh thiện của Dòng Augustinô. Sơ Juliana đến xin yết kiến vị Giám mục sở tại để dâng lên một lời thỉnh cầu: xin giáo quyền cho thiết lập ngày lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu.
Lẽ đương nhiên, vị Giám mục thánh thiện và khôn ngoan Rôbectô đã hỏi vị nữ tu về nguyên nhân hay động lực thúc đẩy làm nên lời thỉnh cầu. Sơ Juliana thành thật trình bày với Đức Cha rằng hồi nhỏ sơ có thấy hình một vầng trăng rằm với một đốm đen trên đó. Mãi về sau, trong một lần hiện ra, Chúa Giêsu đã giải thích cho Sơ Juliana về ý nghĩa của giấc mơ ngày xưa: vầng trăng rằm tượng trưng cho chu kỳ phụng vụ trong năm; đốm đen là vì trong chu kỳ đó vẫn còn thiếu một ngày lễ để vinh danh Thân Mình Cực Thánh của Chúa Giêsu.
Theo Sơ Juliana, ngoài Thứ Năm Tuần Thánh, ngày tưởng niệm việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu còn muốn Giáo hội có một ngày khác để tôn kính Mình Máu của Ngài. Kèm với lời giải thích và tỏ bày ý muốn, Chúa Giêsu còn nêu lên ba lý do của việc làm này: thứ nhất, Ngài khát khao niềm tin vào Bí tích Thánh Thể được càng ngày càng vững vàng mạnh mẽ nơi mỗi người Kitô hữu; thứ hai, Ngài ao ước mọi tín hữu múc được sức mạnh thiêng liêng nơi Bí tích Thánh Thể để có thể can đảm thực thi các nhân đức; và thứ ba, Ngài mong muốn người tín hữu có cơ hội sửa chữa cho những phạm thánh và bất kính mà loài người đã gây nên.
Dường như được ơn Chúa soi sáng và sắp xếp, nên Đức Cha Rôbectô de Thorate đã lắng nghe và tin tưởng những điều Sơ Juliana nói. Thế rồi, chẳng bao lâu sau, ngài cho thiết lập trong địa phận một ngày lễ kính Mình Thánh Chúa hay còn được gọi là Corpus Christi (tiếng Latinh). Đức Cha cũng đã trình cho Đức Giáo hoàng Ubanô IV về những gì ngài đang thực hiện trong địa phận. Và rồi, đến năm 1264, Đức Ubanô đã cho công bố với Giáo hội hoàn vũ việc chọn ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi làm ngày kính Mình Thánh Chúa cách đặc biệt.
Tập quán trên đã được nắm giữ từ thế kỷ 13 cho đến những thập niên gần đây. Sau Công đồng Vaticanô II, một vài sửa đổi đã được thực thi, trong đó lễ Corpus Christi được dời vào ngày Chúa Nhật sau Lễ Chúa Ba Ngôi. Suốt hơn 8 thế kỷ trôi qua, cứ đến ngày lễ Kính Mình Thánh Chúa, khắp nơi, trong nhiều giáo xứ, người ta tổ chức chầu lượt, lôi cuốn biết bao nhiêu giáo hữu đến kính thờ suy tôn Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.
Tuy cũng có những người chống đối và tìm cách loại trừ ngày lễ này khỏi lòng tín hữu, nhưng những cố gắng đó cũng chỉ hoài công. Lịch sử có ghi nhận: trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi Ngày bên Châu âu, quân đội Thuỵ Điển đã bao vây một làng Wuerzburg tại Bavaria. Vị quan chỉ huy đã đưa ra nhiều nghiêm lệnh nhằm khống chế dân chúng. Trong đó có lệnh cấm tổ chức rước kiệu trong ngày lễ Corpus Christi sắp đến. Các thầy Dòng Camêlô đang cư ngụ trong làng đã phải đối diện với tình hình tiến thoái lưỡng nan: trong khi Thiên Chúa Cha muốn cử hành ngày lễ tôn kính Con Ngài thì vị chỉ huy quân đội Thuỵ Điển lại ngăn cấm, nếu không muốn bị tử hình. Nhưng cuối cùng các vị tu sĩ đã chọn vâng theo ý Thiên Chúa. Thế là một cuộc rước long trọng với linh mục kiệu Thánh Thể từ nhà thờ qua cổng làng đã diễn ra. Lập tức quân đội được phái đến. Súng ống, gươm giáo dàn ra đe doạ. Không sợ hãi, thầy Agapytus hiên ngang rẽ đám đông tiến lên. Đứng trước hàng quân đang lăm le vũ khí, thầy bảo họ hãy quỳ gối xuống trước Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá. Lạ lùng thay, cả đoàn binh đã đồng loạt quỳ xuống, không ai dám thi hành lệnh phá hoại cuộc rước của quan chỉ huy! Thế là dân chúng lại tiếp tục hồ hởi cung nghinh Mình Thánh Chúa qua các nẻo đường đã định. (x. Homilies, Thomas L. Kemp)
Ý nghĩa lễ Corpus Christi:
Lễ Corpus Christi được lập ra để nhắc nhở với người giáo hữu về một tình mến bao la vô tận. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban người Con yêu dấu của Ngài, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Sự hạ mình từ một Thiên Chúa cao sang xuống mang kiếp người để chia sẻ thân phận khốn cùng và cứu chuộc nhân loại đã là một lối tỏ tình quá sức tưởng tượng. Ấy thế mà, làm như chưa thoả, Thiên Chúa lại còn hạ mình trở thành tấm bánh, vật vô tri vô giác, còn thấp hơn bất cứ một loài thụ sinh nào.
Lắm người cảm nhận mình như là quả banh, cây chổi, viết chì trong tay Chúa. Quả là những tâm tình khiêm hạ đáng quí. Nhưng khi so với sự khiêm hạ của Thiên Chúa khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng tâm hồn người ta thì vẫn là một cách biệt không thể đo lường.
Thánh Bênađô từng nói: “Tình yêu không phân biệt giai cấp.” Còn Thánh Phêrô Kim khẩu thì viết: “Khi yêu, người ta bất luận giàu nghèo, cũng không màng cân xứng, không ngại khó khăn, nhưng miễn sao thoả lòng ao ước là được.” Một linh mục khác cũng nhận xét rằng khi yêu chẳng ai nói với nhau: “Tôi là con nhà giàu, có bằng tiến sĩ vật lý, còn em chỉ là con bé nhà quê ít học, cho nên em phải biết thân biết phận của mình”. Không thế được! “Không thể có thái độ kênh kiệu như thế trong tình yêu chân thật” (Lm. Nguyễn Khảm, Nghe Trong Thinh Lặng). Đúng hơn, người ta sẽ khiêm tốn hạ mình để chỉ thấy người yêu chính là đối tượng duy nhất và tất cả.
Thế ra, vì yêu thương nên Thiên Chúa đã khiêm tốn hạ mình làm người, và hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình làm thành tấm bánh đơn sơ bé nhỏ cho người ta dễ ăn, hầu được nên một với con người. Nên một là đặc tính của tình yêu. Có yêu nhau người ta mới muốn nên một và sợ bị chia ly. Thánh Anphong từng suy gẫm rằng: “Vì Chúa khao khát ta rước lấy Ngài trong phép Thánh Thể, nên Ngài mời gọi: ‘Hãy đến ăn bánh Ta ban và uống rượu Ta dọn’ (Cn 9:5). ‘Ăn đi hỡi các bạn. Uống đi! Say đi hỡi các bạn yêu dấu’ (Dc 5:1). Chúa mời gọi ta chưa đủ, Ngài còn ra luật buộc ta nữa: ‘Hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta’ (Mt 26:26). Và Ngài hứa ban sự sống đời đời cho những ai chịu lấy Ngài: ‘Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống đời đời’ (Ga 6:51). Nếu ta không vâng giữ lời Ngài, thì Ngài ngăm đe: ‘Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống nơi mình các ngươi’ (Ga 6:53). Tất cả những lời mời gọi, những lời hứa ban, và những lời khuyên răn hiệp cùng ta trong bí tích Thánh Thể, để tình yêu thương được mật thiết hơn”.
Kỳ lạ làm sao tình Chúa yêu nhân thế trong Bí tích Thánh Thể! Nhưng có lẽ cũng kỳ lạ không kém khi con người dửng dưng, lạnh lùng và xem thường việc rước Chúa. Không ít người cảm thấy nguội lạnh, chẳng xứng đáng được Chúa ngự vào. Nhưng những người đó hãy ghi nhớ lời Thánh Catarina Xiêna: “Kẻ nói mình nguội lạnh, không dám rước lễ cũng giống như người biết mình bị cảm lạnh mà không chịu đến lò sưởi ấm, ấy thật là dại dột.” Thế nên, càng biết mình nguội lạnh, khô khan, hay hèn yếu, ta càng phải siêng năng đến gần với lò lửa tình thương đang bừng cháy. Các thánh khuyên ta hãy siêng năng rước lễ vì “một lần rước lễ được nhiều ơn ích hơn một tuần ăn chay” (T. Vincentê Phêriê).
Nếu không thể rước Chúa cách trực tiếp thì cũng hãy rước lễ cách thiêng liêng. Với lòng ước ao rước Chúa cũng đủ để khử trừ mọi tội nhẹ và giữ gìn ta khỏi các tội trọng rồi. Nếu không thể đi dâng Lễ hàng ngày, thì hãy đọc lên lời nguyện “Rước lễ Thiêng liêng” sau đây để lửa mến Chúa được bừng cháy luôn trong tâm hồn: “Lạy rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu. Bởi Chúa hằng muốn kết hợp cùng con trong phép Thánh Thể, nên lòng con khát khao rước Chúa ngự vào lòng con lắm. Song bây giờ con chẳng được rước thật Mình Máu Thánh Chúa, thì ít nữa lại xin Chúa hãy ngự vào lòng con cách thiêng liêng. Lạy Chúa xin hãy ngự vào lòng con”.
Xin cho ngày Lễ Corpus Christi đốt lên trong ta ngọn lửa kính mến và lòng khát khao được kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể, hầu sức sống luôn chứa chan và bình an hằng tuôn tràn trong cuộc đời chúng ta.
13. Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – R. Veritas)
Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm Mười Hai: “Chính các con hãy cho họ ăn”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: “Ở nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh”. Chúa cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng.
Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.
Chúng ta đọc lại câu 16 đoạn Tin Mừng trên: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đm đông”. Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.
Bữa tiệc ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con”. Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm.
Cựu ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Giáo Hội thời khai sinh đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần.
Xin Chúa giúp chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ bánh.
14. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14, 13-21 và15, 32-38.) và Mác cô (6,35-44 và 8, 1-10) Luca ( 9, 12-17) và Gioan (6, 1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng. Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển… được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất. Thế thì tại sao có nhiều người đói?. Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng “người thì ăn không hết, người thì làm không ra”.
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, cho con cháu… thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu cùng nhường nhau mà ăn, thì không ai phải thiếu đói. Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những nhà máy lớn, nắm bắt công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người không có phương tiện sản xuất, không thủ đắc những công nghệ mới đành phải chịu cảnh thiếu đói.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư. Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Ngài giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng. Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?” Thế rồi “Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Ngài lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.” Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân. Noi gương các môn đệ, trong đám đông cũng có một số người mang theo chút lương thực dự phòng, cũng mang phần ăn ít ỏi của mình ra mà trao cho người bên cạnh. Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sa-rép-ta. Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Ê-li-a truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (I Vua 17, 7-16).
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: “Các con hãy cho họ ăn” để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
ÙÙÙ
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.
Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
15. Chạnh lòng thương – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Mỗi người chúng ta đã từng nghe, từng nói những câu mời gọi sống tình liên đới và chia sẻ bác ái với nhau trong tình làng nghĩa xóm như: “Lá lành đùm lá rách”, hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Sự liên đới đồng cảm với nhau trong tình thần “Tứ hải giai huynh đệ” để có thể “thương người như thể thương thân”. Đó là những lời răn dạy của tổ tiên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của người dân Việt chúng ta. Một dân tộc đặt chữ tình lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người để có thể “tối lửa tắt đèn có nhau”. Thế nhưng, có mấy ai đã thực sự sống điều đó? Có mấy ai đã thực sự sống đùm bọc lẫn nhau? Tại sao một nền văn hóa tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam mà lại có sự chênh lệch giầu nghèo quá lớn như ngày hôm nay? Ở giữa những phồn hoa của nền kinh tế thị trường hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời đói rách bần cùng, kiếm ăn từng bữa, đôi khi cũng chỉ được bữa cơm, bữa cháo! Ngày nay khi xã hội thay đổi, cuộc sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Thì ở đâu đó rất gần chúng ta vẫn còn có những mảnh đời lạnh giá cả về thể xác lẫn tâm hồn. Họ là những người vô gia cư bị xã hội đẩy ra bên lề xã hội. Họ là những em bé bị bỏ rơi, bị lợi dụng đang ăn xin, bán vé số, lượm ve chai. Họ là những người tật nguyền không có tiền để đến bệnh viện đành chấp nhận sống lây lất qua ngày… Họ là những con người nghèo đang chờ từng hạt cơm rơi hay từng nghĩa cử bác ái của chúng ta.
Song le, cái đói, cái nghèo không chỉ đến với một vài cá nhân nhưng đôi khi cũng bám vào cả một làng, một xã. Theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế, có một ngôi làng mà cư dân phải đối mặt với nạn đói quanh năm. Đó là làng Trung Chánh, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, một ngôi làng không ruộng, không vườn, ăn không đủ no, trẻ con không được đến trường. Báo Nông Nghiệp ghi nhận về tình cảnh khốn khổ của dân làng này qua đoạn ký sự như sau.
Làng Trung Chánh nằm sát đầm Cầu Hai, phá Tam Giang. Cuộc sống ở đây chỉ theo đuổi con tôm, con cá ở đầm. Khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, cả thôn từ già đến trẻ lại kéo nhau “gieo mình” xuống đầm, xuống biển mưu sinh. Cứ như vậy, người và lưới rong ruổi khắp các con đầm, kênh, lạch và ra tận biển từ đêm đến sáng hôm sau. Trong làng chỉ còn lại những người già yếu và trẻ con 3-4 tuổi trong những căn nhà lụp xụp, xiêu xẹo, dột nát. Làng Trung Chánh 6 giờ sáng, khi những “chuyến đò đêm” trở vào bờ. Cả thôn náo nhiệt tiếng í ới gọi nhau, đàn ông xả lưới, đàn bà quảy hàng đi chợ, trẻ con hò nhau phụ giúp bố mẹ nhặt từng con tôm, con tép còn sót lại. Đã từ lâu dân Trung Chánh hình thành nên thói quen bất đắc dĩ là mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm: “Cả thôn này không có bữa cơm trưa, bữa tối, thường thì chỉ ăn “bữa cơm chính” vào lúc 8-9 giờ sáng, rồi sau đó cả làng cùng đi ngủ, đến tối lại đi làm” một người dân tên Hạnh tâm sự như thế. Và cái tên “làng đói” cũng ra đời từ đó. Buổi trưa, cả thôn không có lấy một nhà nổi lửa. Không gian đìu hiu, chỉ có bóng dáng những đứa trẻ con đầu tóc vàng hoe vì nắng, vì gió tụ tập quanh những bóng tre. Chúng vẫn chưa đến tuổi làm nghề nên vẫn còn được chơi đùa thoả thích. Còn cha, mẹ, anh chị của chúng đã tranh thủ ngủ lấy lại sức sau một đêm dài thức trằng trên đầm, trên phá. Cũng theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, khi kể về chuyện nợ của người dân trong thôn, cư dân Mai Thị Gái chua xót nói với phóng viên “Chú không tin cứ đi hỏi mười người trong thôn này thì có đến… mười một người mắc nợ. Khổ lắm chú ơi. Hồi trước còn có cơm mà ăn, nhưng mấy tháng nay, nhiều gia đình đã chuyển sang…ăn cháo”. Xem ra làng Trung Chánh đang thiếu một tấm bánh được chia sẻ, được trao ban cho họ. Đất nước chúng ta đang ngày một giầu có vật chất nhưng lại nghèo tấm lòng. Nghèo đến mức chỉ tìm kiếm của cải cho mình mà vẫn chưa bao giờ thỏa mãn. Nghèo đến mức chẳng nghĩ rằng mình có khả năng cho đi. Nghèo đến mức chỉ nghĩ vun quén cho bản thân mà quên rằng mình còn có bổn phận chia sẻ cho anh em trong tình liên đới anh em một nhà. Cái đói, cái nghèo lận vào cuộc đời người dân làng Trung Chánh vì không được sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Nếu “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” thì cả một làng đói khổ sao cả một dân tộc không chạnh lòng với những đói khổ của anh em mình?
Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta nhìn lên tình yêu của Chúa. Chúa đã trao ban chính sự sống của mình cho thế gian được sống. Chúa còn trao ban cả Máu Thịt Ngài để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Có người cho rằng bánh và rượu làm sao trở nên Thịt và Máu của Chúa Giêsu được. Thực ra, chúng ta ăn bánh và rượu vẫn biến đổi thành thịt và máu của chúng ta thì Chúa Giêsu cũng có thể biến bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài. Điều quan yếu không dừng lại ở việc bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài mà hệ tại ở việc Ngài trao ban chính sự sống đó cho chúng ta. Để “ai ăn bánh này sẽ không chết muôn đời”. Như vậy, bánh và rượu trở nên Mình và Máu thì dễ, điều quan yếu là chúng ta có dám trao ban chính sự sống đó cho tha nhân hay không?
Nguyện xin Mình và Máu Thánh Chúa cũng biến đổi chúng ta trở nên giống Chúa. Giống Chúa ở trái tim biết chạnh lòng thương xót trước những khổ đau của anh em. Giống Chúa ở tấm lòng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để vơi đi nỗi khổ của anh em trong tình liên đới chân thành. Giống Chúa ở việc cũng trở thành tấm bánh được sẻ chia cho tha nhân được sống hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện cao dẹp của chúng ta để mỗi cuộc đời chúng ta thực sự là tấm bánh đem lại cho nhân thế sự no thỏa và niềm vui, hạnh phúc. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phép lạ là hóa bánh ra nhiều hay bẻ bánh ra và trao?
Trong các phép lạ được ghi lại, hóa bánh ra nhiều là phổ thông nhất: cả bốn sách Tin Mừng đều kể lại, thậm chí Mat-thêu và Mác-cô còn đề cập tới một vụ khác nữa ít hoành tráng hơn. Tại sao vậy? Nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho là ‘vì đây là phép lạ chứng tỏ rõ ràng nhất quyền uy tuyệt đối của Chúa Giê-su trên các định luật tự nhiên’ (xem chú giải Lc 9,12 trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’ của nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ). Tôi xin mạn phép được suy nghĩ khác đi một chút.
Căn cứ vào Phúc Âm Gio-an chương 6, ý nghĩa chính của sự kiện lạ này không mấy hệ tại ở việc ‘hóa bánh ra nhiều’, cho bằng ở việc ‘bẻ bánh ra và trao’. Hầu như cả sáu trình thuật đều đề cao hành vi xem ra khá tiểu tiết này. Hơn nữa, khi đọc đoạn Tin Mừng được Giáo hội trích dẫn trong ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C, tôi càng thêm xác tín về suy nghĩ của mình. Đúng là ‘hóa bánh ra nhiều’ chỉ là ‘bao bì’ để thu hút khách hàng đón nhận một ‘sản phẩm’ tuyệt vời là tình yêu ‘bẻ ra và trao tặng’ gói đựng bên trong. Và có thể vì đã nắm được nội dung nòng cốt của sự kiện này nên các Ki-tô hữu ngay từ thời đầu đã dành cho phép lạ ‘bánh hóa nhiều’ một trân trọng đặc biệt đến thế. Phép lạ mang tính vật lý này thực ra chỉ là tiền đề đưa ta tới cử chỉ ‘bẻ ra và trao tặng’ đầy ý nghĩa và rất độc đáo của một Thiên Chúa nhân ái, được thực hiện trong hiến tế thập giá của Đức Giê-su Ki-tô. Sau này, khi việc hóa bánh ra nhiều không còn là quan trọng nữa, thì hành vi ‘bẻ bánh và trao cho’ lại luôn được môn đệ nhận ra đó là dấu hiệu không thể nhầm lẫn để nhận ra Thầy chí thánh, như trường hợp hai môn đệ trên được đi Em-mau sau khi Chúa phục sinh (xem Lc 24, 30-31).
Nếu truyền thống Ki-tô giáo, qua các thời đại, luôn liên kết phép lạ này với Thánh Thể, thì chính là vì đã nhận ra việc ‘bẻ ra và trao ban’ là điều đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hiến tế thập giá của Đức Giê-su. Trong bữa tiệc Vượt Qua ly biệt, Đức Giê-su đã chẳng tự ‘bẻ ra và trao ban’ là gì’? Bánh bẻ ra là ‘bí tích’ (dấu bên ngoài) của Mình Thầy hiến tế, rượu trao ban là ‘bí tích’ của Máu Thầy đổ ra cứu chuộc. Tự nó việc xác định ‘bánh là Mình Thầy và rượu là Máu Thầy’ sẽ hầu như trở nên vô nghĩa, nếu chỉ dừng lại ở sự biến thể kỳ lạ (transubstantiation). Đức Giê-su chỉ biến thể để có thể thực hiện việc tự ‘bẻ ra và trao tặng’ tới từng người chúng ta. Như thế Thánh Thể trước hết phải là một hành động, một hành động tự hiến, biểu lộ rõ nét nhất yếu tính nền tảng của Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã hé mở cho thấy: một Thiên Chúa hiến dâng và trao tặng cho nhân loại, trong chính lúc họ tội lỗi và bất xứng nhất.
Như vậy Mình và Máu Thánh Chúa sẽ không chỉ đơn thuần là hiện diện của Giê-su – Thiên Chúa, để chúng ta ‘phục bái tôn thờ’; nhưng luôn là dâng hiến của một Giê-su ‘bẻ ra – trao ban’ để ta đón nhận và phân phát. Thánh Thể sẽ không chỉ đòi nơi ta một lòng sùng kính ‘tĩnh’, nhưng phải đưa ta đến một đón nhận và tham gia ‘động’ vào huyền nhiệm Giê-su hiến mình trên thập giá. Thánh Thể thôi thúc mỗi môn đệ chúng ta “chính anh em hãy cho họ ăn”, khác hẳn với thái độ hưởng thụ và no nê cho thỏa chí thỏa lòng của đám quần chúng.
Suy niệm này giúp ta hiểu được phần nào các đòi hỏi của việc cử hành Thánh Thể. Truyền phép để bánh trở thành Mình-Chúa-bẻ-ra và rượu trở thành Máu-Chúa-đổ-ra là một cử hành (celebration) thực sự, chứ không chỉ là một công thức (formula) nhiệm mầu tạo nên sự biến thể. Và Chúa muốn mỗi chúng ta “anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”, chứ không chỉ diễn lại hay lập lại như một tấn tuồng tưởng niệm. Càng trong tư cách linh mục, chính tôi trước hết, và qua tôi cả các anh chị em tín hữu khác nữa, trong mỗi Thánh lễ sẽ phải làm việc cử hành này cách sinh động nhất; đó là vào sâu trong niềm tin vào một Thiên Chúa hiến mình và trao ban, để rồi chính mình cũng sẽ khởi đầu cuộc hiến mình và trao ban trong Giê-su.
Thống hối đầu Thánh Lễ không chỉ mang mục đích thanh tẩy ta cho xứng với một hành vi phụng vụ, nhưng còn quan trọng hơn, cho ta ý thức đón nhận món quà đã được Thiên Chúa trao ban vô điều kiện, cách đầy nhân ái và yêu thương. Việc rước lễ không chỉ để ta đón lấy một Thiên Chúa ngự vào trong lòng, nhưng phải kết hiệp ta sâu sắc với một Đức Ki-tô ‘bẻ ra và trao tặng’ của thập giá, và phải thôi thúc ta làm như người đã làm trong cuộc sống hàng ngày. Thánh Lễ là trung tâm đời sống Ki-tô hữu không chỉ vì đó là hành vi thờ phượng Thiên Chúa cách cao quí nhất, nhưng vì nó liên kết chúng ta cách sâu xa nhất vào mầu nhiệm hiến tế là trung tâm của niềm tin cũng như cuộc sống của chúng ta. Một khi chính Thiên Chúa đã tự hiến và trao ban thì các Ki-tô hữu, là những kẻ tin vào Người, sẽ không thể làm gì khác hơn.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, cảm tạ Chúa đã cho con được làm linh mục để có điều kiện ‘cử hành’ Thánh Lễ tốt hơn. Xin Chúa nâng đỡ để con có thể giúp nhiều tín hữu, không những chỉ cử hành các nghi thức cách trang trọng và sốt sáng, nhưng còn biết tham dự vào hiến tế thập giá của Chúa Ki-tô bằng việc ‘bẻ ra và trao ban’ chính mình trong cuộc sống hàng này. Xin cho con được một lòng sùng kính mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa cách sống động, để mỗi lần tới gần Thánh Thể là con lãnh nhận được tình yêu dâng hiến Chúa dành cho con, đồng thời cũng mời gọi con tiến vào tình yêu dâng hiến phục vụ mọi người. Amen.
17. Tham dự Thánh Lễ
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn đưa ra một câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy nghĩ, đó là: Người Kitô hữu có cần phải đi tham dự Thánh lễ hay không?
Việc tham dự Thánh lễ đối với nhiều người, dù chỉ trong ngày Chúa nhật, cũng đã là một gánh nặng, một việc cực chẳng đã mới phải làm mà thôi. Dĩ nhiên hơn một tiếng đồng hồ ở trong nhà thờ chẳng ăn nhằm chi với đời sống, với những tính toán làm ăn và hưởng thụ của họ.
- Nhưng nếu người Kitô hữu là người suốt tuần cảm thấy mình là phần tử của Dân Chúa và ý thức rằng thiên đàng không gì khác hơn là mọi người được hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau, thì làm sao người đó lại không hân hoan đi về nhà Chúa, lại không cảm thấy mình cần phải có mặt trong cuộc gặp gỡ đầy tình mến thương, là Thánh lễ.
- Nếu người Kitô hữu là người luôn ý thức sứ mạng của mình ở giữa lòng cuộc đời, là phải chu toàn những nghĩa vụ trần gian từ trong gia đình đến ngoài xã hội, thì làm sao người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến trước mặt Chúa, thú tội cùng anh chị em và xin mọi người cầu khẩn cho mình trước tôn nhan Chúa?
- Nếu người Ki tô hữu là người suốt tuần muốn được ánh sáng đức tin soi cho thấy mọi sự và tìm hiểu ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và trong mọi biến cố, thì làm sao người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến lắng nghe và suy gẫm lời Chúa?
- Nếu người Kitô hữu là người suốt tuần không nhắm mắt và bịt tai lại, nhưng đã biết nhìn thấy những khổ đau vật chất cũng như tinh thần ở chung quanh mình, đã biết chia sẽ những niềm vui cũng như những nỗi buồn với mọi người anh em, và nếu người đó đã từng mang trong cõi lòng niềm hy vọng thúc đảy mọi người tiến đến sự giải thoát của Đức Kitô, thì làm sao người ấy lại không mang niềm hy vọng và nỗi chờ mong đó, hợp với những ý nguyện trong Thánh lễ mà dâng lên Thiên Chúa toàn năng?
- Nếu người Ki tô hữu là người luôn ý thức rằng mọi sự mình có từ mảnh vườn và hạt lúa đến vợ chồng và con cái…đều do Chúa ban, còn mình thì có nhiệm vụ khai thác đất đai để giúp ích cho mọi người, thì dĩ nhiên người ấy sẽ hiểu vì sao Thánh lễ lại được gọi là lễ tạ ơn và vì sao mình phải cảm tạ Đức Kitô, Đấng phụng thờ Chúa Cha cách hoàn toàn hơn bất kỳ một người nào khác.
Nếu suốt tuần, sự lao động được quan niệm như là một việc thờ phượng Thiên Chúa, nếu những công lao khó nhọc và những nỗi đau buồn trong tuần đã được biến thành một của lễ thiêng liêng, thì chúng ta hiểu được vì sao cần phải đem tất cả những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời ấy kết hiệp với của lễ tinh tuyền của Đức Kitô mà dâng lên cho Thiên Chúa.
Việc dâng lễ và rước lễ chỉ có ý nghĩa và giá trị, đồng thời trở nên niềm vui mừng và hy vọng, nếu như trước và sau khi đến nhà thờ, chúng ta cảm thấy mình chỉ có một nghĩa vụ là yêu mến Thiên Chúa trong anh em và yêu mến anh em trong Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới cảm thấy rằng chúng ta không có cách nào hơn để sống, ngoài việc kết hiệp với Đấng đã vì yêu thương mà hiến mình trên thập giá và hiện đang sống để chuyển thông sức mạnh tình yêu ấy cho mỗi người chúng ta.
Bởi đó, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và sốt sắng rước lễ, nhờ đó chúng ta sẽ kín múc được những lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn, mà thánh lễ đem lại cho mỗi người chúng ta.
18. Để tưởng nhớ Thầy
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, viết năm 57, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Ngài khẳng định rằng ngài chỉ là người truyền đạt lại những gì mình đã lãnh nhận từ truyền thống Giáo Hội. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Đức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp.
Tấm bánh thành Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn. Chén rượu thành Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống. Đức Giêsu còn mời ta làm lại những gì Người đã làm: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ Thầy.” Giáo Hội đã vâng lời từ 20 thế kỷ. Có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái chết của Chúa.
Không thể tách rời thánh lễ với cái chết của Đức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em. Rước lễ là rước lấy Đấng đã chết vì loài người, như thế là hiệp thông vào cái chết thập giá. Mỗi lần dự lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết. Nhưng Đấng đã chết cũng là Đấng đã sống lại, Đấng đang ngự bên hữu Cha và sẽ đến trong vinh quang. Rước lễ chẳng phải là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Đấng đang sống và đang ban sự sống.
Dự thánh lễ là dự một bữa ăn như bữa Tiệc ly, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ. Chính vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình trong ngày qua, tuần qua. Tấm bánh làm từ lúa của đất, công của người. Chúa Giêsu cần tấm bánh của tôi, để Người biến đổi. Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người thánh hoá. Chúa Kitô không từ trời cao ngự xuống tấm bánh. Đúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và biến nó thành lương thực thần linh nuôi tôi. Như thế, tấm bánh thánh mong manh nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Địa, Nhân. Vũ trụ, con người và Thiên Chúa gặp nhau, hoà quyện.
Bí tích Thánh Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người. Những gì là tự nhiên, nay được thần hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình. Lễ vật tôi dâng lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi. Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất…
Mỗi phút trên trái đất, có bao tấm bánh được trao đi. Trong mỗi tấm bánh bình thường được bẻ ra và trao đi, chúng ta thấy có bóng dáng của tấm bánh Mình Chúa. Chính nhờ được nuôi bằng bánh thánh tại bàn thờ, mà ta có thể chia sẻ cho tha nhân tấm bánh vật chất, và những tấm bánh tinh thần. Hãy dâng tất cả những gì thuộc về trái đất và con người, để Đức Kitô biến đổi thành Tấm Bánh Khổng Lồ dâng lên Cha.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Theo kinh nghiệm của bạn, rước lễ đem lại lợi ích gì cho cuộc sống?
- Thánh lễ trở nên nhàm vì chúng ta thường đi xem linh mục làm lễ, và chẳng mang theo một lễ vật nào. Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự thánh lễ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Chúa là thức ăn, thức uống của con. Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao.
Chúa ngọt ngào trong cổ họng con hơn cả tầng mật ong, vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời. Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao, vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài? Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con, con cảm thấy cả hai.
Chúa đòi con nên một với Ngài, đòi hỏi đó làm cho con đau đớn, vì con không muốn từ bỏ những thói quen của con để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ ơn Chúa, ca ngợi và tôn vinh Chúa, bởi đó là sự sống đời đời cho con.
Ruy Broeck
19. Thánh Thể dấu chỉ tình yêu
- Ăn uống là nhu cầu tất yếu để cho sự tồn tại và phát triển thể xác của một con người. Vì yêu thương, Thiên Chúa không những cho con người có thể xác mà còn có linh hồn, đó là điểm cơ bản để con người hơn hẳn các sinh vật khác. Đoạn Tin Mừng được chọn đọc Chúa Nhật Mình Máu Thánh Chúa hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, không những được ăn no nê mà còn dư thừa, đó là dấu chỉ Bí Tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.
- Phép lạ hoá bánh ra nhiều nầy có liên hệ gì tới Bí Tích Thánh Thể, tới Mình Máu Thánh Chúa? Thưa đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại, và đây cũng là phép lạ công khai trước một số đông người. Từ năm chiếc bánh và hai con cá ban đầu biến thành lương thực, thực phẩm cung cấp cho trên năm ngàn người ăn mà vẫn còn dư thừa! Cách ghi chép của Thánh Luca về phép lạ này có thể so sánh với việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể (x. Mt 26 và song song), như: Phép lạ xảy ra vào lúc ngày tàn; sau này Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể cũng vào lúc cuối ngày. Trong phép lạ này những hành động của Đức Giêsu như: cầm lấy bánh và cá đọc lời chúc tụng, bẻ ra, phân phát; sau này Đức Giêsu khi lập Bí Tích Thánh Thể, Người cũng có những hành động giống như vậy.
Qua phép lạ hoá bánh, cá ra nhiều này và Bí Tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập. Đức Giêsu muốn nói lên, muốn dạy ta điều gì? Thưa qua đó cho ta thấy tình thương của Thiên Chúa, Đức Giêsu dành cho mọi người chúng ta và Chúa cũng đòi hỏi chúng ta cũng phải lấy tình người đối với nhau.
- Trước hết, phép lạ nầy và Bí Tích Thánh Thể cho ta thấy dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu đã cứu chữa những ai cần được cứu chữa. Rồi khi trời đã xế chiều, rất có thể Người giải tán đám đông để họ tự túc đi vào các làng mạc gần đó để mua thức ăn cho khỏi bận tâm như lời đề nghị của các Tông Đồ. Thế nhưng chúng ta thấy Chúa không đồng ý với đề nghị này mà Người lo liệu cho họ có của ăn bằng phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều.
Không những lo cho dân chúng được no đủ về thể xác, mà quan trọng hơn bằng việc tự hiến bản thân của mình để ban của ăn thiêng liêng cho loài người. Vì Người là Đấng quyền năng, có thể dùng những phương thức khác để nuôi sống linh hồn con người, nhưng Người đã chọn con đường tự hiến máu thịt của mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Tình thương của Người dành cho chúng ta không những một lần thôi, mà mỗi khi Thánh Lễ được cử hành là tái diễn việc hy sinh của Đức Giêsu, và hiệu quả của việc hy sinh này tiếp tục được thực hiện, như lời Đức Giêsu đã hứa: Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời(x. Ga 6,51-58).
- Kế đến, phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều và Bí Tích Thánh Thể còn là dấu chỉ tình yêu thương của con người phải có đối với nhau. Khi các Tông Đồ đề nghị giải tán dân chúng để họ tự tìm thức ăn, thì chính Đức Giêsu đã nhắc nhở các ông: “Chính anh em, hãy cho họ ăn” (Ga 9,13). Vâng “chính anh em”, “chính các con” phải có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc cho anh chị em mình chứ không đợi một ai khác! Rồi cảnh tượng bữa ăn lạ lùng thật vui, trên 5.000 người cùng chia sẻ lương thực thực phẩm với nhau. Một hình ảnh nói lên sự yêu thương và hợp nhất. Thật vậy, một buổi tiệc dù vui hay buồn (sinh nhật, cưới, tang…), thì những người tham dự cùng chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn, qua đó nói lên sự yêu thương, hợp nhất. Buổi ăn nơi hoang dã này càng đượm ý nghĩa hơn khi Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể.
Bàn tiệc Thánh Thể được Đức Giêsu thiết lập dưới hình thức một bàn tiệc hiệp thông huynh đệ. Vì vậy, Thánh lễ, qua đó Bí Tích Thánh Thể được cử hành là bàn tiệc thánh, thiêng liêng, mọi người không phân biệt giai cấp, già trẻ, sang hèn… đều được mời gọi tham dự, chia sẻ. Thánh Phaolô đã viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Như vậy quả thật Bí Tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người mà còn là dấu chỉ của tình người cần phải có đối với nhau.
- Nhân ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, và qua những suy nghĩ trên, chúng ta có quyết tâm gì? Khi xác quyết Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình Chúa, chúng ta phải siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ, để đáp trả tình yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời nhờ ơn Chúa giúp để chúng ta có thể vượt qua những khó khăn, thử thách đời nầy và nhất là đảm bảo cho chúng ta được sống đời đời. Khi xác quyết Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình người, mỗi chúng ta phải cố gắng sống yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Không phải chúng ta chỉ hiệp nhất và yêu thương trong việc thờ phượng Chúa, trong Thánh lễ… mà còn phải thực sự hiệp nhất và yêu thương nhau trong cuộc sống. Đức Giêsu phán: “Anh em hãy làm việc nầy mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), chắc hẳn Chúa không chỉ muốn chúng ta chỉ cử hành lại Bí Tích Thánh Thể mà thôi, mà còn muốn chúng ta yêu thương, giúp đỡ nhau trong tình bác ái huynh đệ theo gương của Người. Bởi đời ta là Thánh lễ nối dài và như lệnh truyền của Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
20. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THÁNH LỄ TRONG NHÀ THỜ VÀ THÁNH LỄ NGOÀI CUỘC ĐỜI
Đức Hồng Y Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một sự phạm thánh ghê gớm.
Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.
Nói như thế, Đức Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta hãy lưu ý hai điểm:
1- Diễn tiến phép lạ hoá bánh ra nhiều giống hệt như diễn biến một Thánh Lễ. Nếu Thánh Lễ gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phục vụ Thánh Thể thì trong bài tường thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã giảng dạy dân chúng trước rồi mới ban bánh sau. Dân chúng được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa trước khi được nuôi dưỡng bằng bánh đã được chúc phúc. Đây quả là một Thánh Lễ cử hành giữa đời thường. Một Thánh Lễ không có nhà thờ, chẳng có bàn thờ.
2- Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu khi hoá bánh ra nhiều, khi lập phép Mình Thánh Chúa và khi dùng bữa với các môn đệ làng Emmau giống y như nhau. Cả 3 đoạn văn trên đều tả Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ.
Tại sao có sự trùng hợp thế? Thưa vì Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu rằng: Bí tích không chỉ là một nghi lễ, nhưng là một sự thực. Sự thực ấy phải đâm rễ sâu nơi cuộc đời, phản chiếu đời sống và đem lại lợi ích cho đời sống.
- Nếu trong Thánh Lễ Chúa Giêsu ban phát lương thực nuôi linh hồn, thì ngoài cuộc đời, Người đã ban lương thực nuôi thân xác.
- Nếu Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ, thì trong sa mạc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã tổ chức một bữa tiệc long trọng, mỗi bàn ăn gồm 50 người để họ chia sẻ với nhau không chỉ cơm bánh mà còn tâm tư tình cảm nữa.
- Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình cho Đức Chúa Cha dưới hình bánh rượu, thì ngoài cuộc đời, Chúa Giêsu đã tự hiến mình trên thánh giá.
- Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dưới hình bánh bị bẻ ra để phân phát, thì ngoài cuộc đời, thân xác Người cũng đã bị bẻ ra trong những sỉ nhúc, đòn vọt, đóng đinh.
Quả thật Chúa Giêsu đã dâng Thánh Lễ không chỉ trong nhà thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ ngoài cuộc đời. Người không chỉ dâng một lễ vật nào đó, nhưng đã dâng chính bản thân mình. Người chỉ cử hành một bí tích, nhưng chính bản thân Người đã trở thành bí tích. Người không chỉ bẻ ra một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình ra để ban phát cho mọi người. Chính vì thế mà lễ dâng của Người có giá trị. Thái độ của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ.
Làm sao ta có thể gọi Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ nếu ta vẫn còn giữ trong lòng những thù hận ghen ghét? Làm sao ta có thể đi dự tiệc Thánh Lễ nếu chung quanh ta còn biết bao anh em đói khổ, thiếu thốn? Làm sao ta có thể dâng Thánh Lễ nếu trong cuộc đời ta không hiến mình cho anh em?
Khi truyền lệnh: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chúa Giêsu không chỉ truyền cho ta cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Người còn muốn cho ta dâng Thánh Lễ cả ngoài cuộc đời. Nghĩa là phải chia sẻ, chịu mọi đau khổ, biết khiêm nhường nhịn nhục, biết sống đoàn kết yêu thương, biết hiến mình vì anh em.
Việc cử hành Thánh Lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng như việc cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài cuộc đời, những nghi lễ trong nhà thờ sẽ trở thành bùa chú, giả dối và phản chứng.
Xin cho bí tích Thánh Thể trở thành một sự thực trong đời sống. Xin cho chúng ta biết thờ lạy Chúa Giêsu không phải chỉ trong hình bánh mà còn nơi những anh em bé mọn trong cuộc đời. Xin cho chính đời sống ta trở thành một bí tích, chịu bẻ ra để đem lại lợi ích cho anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự Thánh Lễ?
- Rước lễ đem lại những ơn ích nào cho đời sống thiêng liêng của bạn?
- Bạn đã dâng Thánh Lễ trong cuộc đời chưa?
21. Loại bánh con người khao khát – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trên bình diện giai thoại, nên nhắc đến một chú giải mới đây cho rằng đám đông theo Chúa là một cuộc tập họp có dáng dấp quân sự… Theo lối nhìn ấy, tưởng nên phụ đề thêm cho đủ bộ: Chúa chữa lành các bệnh nhân, vậy có nên nghĩ Chúa điều hành một sở y tế không? Phải nói lên như vậy để chúng ta chú ý đến sự cần thiết đọc các bản văn Kinh Thánh với tinh thần khách quan, không nên quên rằng nguy cơ là ở chỗ để óc chủ quan làm cho hiểu sai ý nghĩa Kinh Thánh. Phê phán thẳng thắn với một tâm hồn thanh khiết, là điều kiện phải có cho sự khảo cứu những tác phẩm nghiêm chỉnh – đức tính ấy rất cần cho người đọc Kinh Thánh.
Ý định Thiên Chúa trong sáng như thanh thiên bạch nhật, hiển hiện qua đoạn Phúc Âm thuật lại phép lạ hóa bánh thành nhiều. Đức Giêsu đáp ứng những khát vọng sâu xa của nhân loại bằng ân huệ sinh hóa bánh ăn và bằng chính bản thân Chúa lôi cuốn dân chúng. Bài đọc hôm nay dễ hiểu, chỉ cần lưu ý ba chi tiết hấp dẫn:
1) Đức Giêsu niềm nở với đám đông dân chúng theo Người.
Đức Giêsu là Thầy được dư luận rộng rãi đồn đại. Ai cũng muốn đến gần để xem để nghe. Tới một lúc, Chúa muốn lui ra một chỗ riêng biệt. Dân chúng đoán biết ý Chúa, vội đến đó trước chờ Người. Thấy thế, Chúa tỏ ra niềm nở với họ. Chúng ta có thể tưởng tượng Người có lẽ hơi bực mình, muốn nghỉ ngơi một lát vì mệt mỏi. Chúa để đám đông vây quanh, như thể ‘nuốt’ lấy Người. Có ý kiến cho rằng linh mục của Đức Giêsu Kitô được ơn kêu gọi trở nên một người bị ‘nuốt’. Đối với Chúa, điều nhận xét này đúng vô cùng. Chúa ban cho dân chúng một của ăn thiêng liêng lâu bền hơn của ăn vật chất. Vậy của ăn mà loài người khao khát nhất là của ăn thiêng liêng. Môn đệ Đức Kitô không được bao giờ quên rằng người xung quanh có quyền đòi hỏi nhiều ở mình, mình phải niềm nở, phải tiếp tế cho những ai đói khát.
2) Chúa nói với họ về Nước Thiên Chúa. Và bảo các môn đệ: “Hãy cho họ ăn”.
Cho họ của ăn nào? Họ cần cả hai thứ, bánh phần hồn lẫn bánh phần xác. Con người là một bản thể vừa vật chất vừa siêu nhiên. Nước Thiên Chúa dưới thế gồm những con người cần có lương thực nuôi thân. Kitô hữu nào muốn trở nên môn đệ Đức Kitô trong sự thật, kẻ ấy phải cố gắng phân phát của ăn vật chất cho những ai đói về thể xác, nhưng không được quên rằng họ cũng đói về phần hồn. Thế giới ngày nay thiếu ăn, kêu gọi chúng ta giúp đỡ – Đức Giáo Hoàng không ngớt nhắc nhở chúng ta điều ấy. Chúng ta làm gì về mặt thực tế cho những kẻ ăn không đủ no? Thế giới đang kêu gọi những người có trách nhiệm về Phúc Âm. Chúng ta có đem Phúc Âm thật đến cho những kẻ đói khát sự thật không?
3) Bánh được Đức Giêsu hóa thành nhiều là tiền-ảnh về Bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu tự hóa thành nhiều như Người đã hóa năm chiếc bánh thành vô số của ăn. Phép lạ bánh là dấu chỉ khiến chúng ta ý niệm về quyền năng vô biên của Thiên Chúa đem phục vụ cho một tình yêu vô biên. Không có dấu hiệu yêu thương nào lớn hơn hiến mạng sống mình. Đức Giêsu hiến mạng sống Người, hơn thế nữa, Chúa tặng tất cả bản thân Chúa cho nhân loại. Chúa dùng quyền năng vô biên của Người phục vụ cho sự hiến tặng ấy. Chúa tự hóa thành nhiều để hiến cho mỗi người chúng ta. Khi hàng ngàn người rước lễ, có hàng ngàn con người riêng biệt, chính Đức Kitô hiến toàn thân cho mỗi người rước Mình Thánh Chúa lúc đó.
22. Từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên thế giới ngày nay đang xảy ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua cay: đó là cảnh một số người dư tiền thừa của, ăn uống lu bù… Và bên cạnh đó, một thảm cảnh trái ngược khác: đó là hàng triệu người thiếu ăn, hay không có gì để ăn… Ngay hôm nay đây, có những vùng rộng lớn trên thế giới-như Phi Châu- đang thiếu ăn đến độ không sống nổi, bên cạnh những người khác đang phung phí tiền của một cách phi nhân… Ăn uống tràn trụa, ăn chọ bội thực, ăn quá mà chết, và người ta đã chết vì ăn quá nhiều cũng như biết bao nhiêu người khác đã chết vì không có gì ăn!..
Trong hai thực trạng bi thảm đó, có chung hậu quả nầy là: cái chết. No quá mà chết. Đói quá mà chết. Tại sao lai chết? Vì hai nhu cầu không được đáp ứng: nhu cầu thứ nhất, người ta muốn biết sống để làm gì? Tại sao lại sống? Vì thấy đời sống phi lý, nên người ta ăn để mà chết, ăn cho nó nổ tung cái bụng ra cũng được! Nhu cầu thứ hai, người ta muốn có cái gì ăn để sống. Sống bằng cái gì? Câu hỏi nầy lệ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi thứ nhất: sống để làm gì? Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu trả lời: người ta sống với nhau và chia sẻ với nhau. Thánh Thể Chúa ban cho chúng ta để thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu với anh em của mình. Nếu chúng ta thực hiện được điều nầy là giải quyết được nạn đói trên thế giới.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô vừa cho chúng ta một chứng cớ rất xa xưa về Bí tích Thánh Thể, “Bữa tiệc của Chúa”. Bốn sách Tin Mừng cũng ghi lại những nét chính yếu về Bữa Tiệc nầy. Các tín hữu Côrintô vẫn hội họp nhau để cử hành “Bữa tiệc của Chúa”, nhưng Thánh Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là “Tiệc của Chúa” cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại, bởi vì ai đến dự cũng đem phần ăn riêng của nhà mình đến. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu say sưa thoải mái, bên cạnh đó những người nghèo hơn đem theo phần ăn ít ỏi hay chẳng có gì, ôm bụng đói meo ngồi chờ… Người ta chỉ mương “Nhà của Chúa” để đem đồ ăn của “nhà mình” đến ăn nhậu. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành “Bữa ăn tối của Chúa” nữa.
Vì vậy, để sửa dạy giáo dân của ngài, thánh Phaolô phải nhắc lại thế nào là “bữa ăn” đích thực của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại điều ngài đã nhận được nơi Chúa Giêsu để truyền lại cho tín hữu, đó là: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra trao cho các môn đệ mà nói: “Nầy là Mình Thấy sẽ bị nộp vì anh em”. Cũng vậy, sau khi dùng bữa tối, Chúa Giêsu cầm chén rượu trao cho các ông mà nói: “Chén này là Giao Ước mới trong Máu Thầy. Anh em hãy làm lại việc nầy mỗi khi uống mà nhớ đến Thầy”.
Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Thánh Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói rõ việc đó xảy ra trong đêm Chúa Giêsu bị nộp. Cho nên việc ban bánh rượu nầy cho các môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và “Bữa ăn của Chúa” luôn luôn mang sắc thái của Bữa Tiệc Ly cũng là Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái. Trong Bữa Tiệc Vượt Qua nầy, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Vậy mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Chúa Giêsu lại nói: “Đây là Mình Ngài sẽ bị nộp và đây là Máu Ngài sẽ đổ ra”. Rõ ràng Chúa Giêsu đã tự coi, tự biến mình nên Chiên Vượt Qua để đem đến ơn cứu độ mà các tiên tri từng loan báo. Ngài đã thay thế Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái bằng Bữa Tiệc của Người hôm nay.
Vậy mà giáo dân Côrintô đâu có làm như vậy. Thánh Phaolô phải bảo họ: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén nầy, anh em loan báo cái chết của Chúa cho đến khi Ngài trở lại. Anh em làm bất xứng thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa”. Những lời nầy tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh và rượu đã trở nên Mình và Máu Chúa. Nhưng mục đích của Thánh Phaolô không phải chỉ nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể mà còn khuyên chúng ta vì tính chất linh thiêng của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành Tiệc Thánh để gia tăng tình yêu: Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Đây mới là ý nghĩa của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: Trước khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi 5.000 người ăn, chưa kể đàn bà và trẻ em, Chúa Giêsu bảo các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn đi!”. Các ông ngạc nhiên, lúng túng và bắt đầu tính toán: chúng ta chỉ có năm cái bánh và hai con cá; hay là phải đi mua thức ăn cho cả đám đông nầy? Làm sao nuôi nổi tới năm ngàn đàn ông, còn đàn bà và trẻ em chưa kể? Chỉ mua bánh cũng phải tốn ít ra là 200 đồng. Nhưng mua ở đây vì đây là hoang địa? Chính Philip là người đang cố tìm câu trả lời. Các ông định giải tán dân chúng để họ tự tìm lấy thức ăn và chỗ ở cho yên chuyện, vì trời sắp tối rồi. Thấy các ông thú nhận sự bất lực của mình, Chúa Giêsu bảo các ông chia đám đông thành từng tổ 50 người, rồi Ngài lại cầm lấy bánh và cá, chúc tụng Chúa, bẻ ra và trao cho các ông đem phân phát cho dân chúng. Tất cả mọi người đều được ăn no và cuối cùng còn thu lại được 12 thúng bánh vụn.
Những điều đó đáng chúng ta suy nghĩ. Trong Bàn Tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu cảu anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Máu Thịt Ngài, Ngài còn trao cho chúng ta để chia sẻ huống nữa là của cải vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người chúng ta. Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được mười hai thúng bánh dư thừa?
Vì vậy, hôm nay chúng ta phải đi từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em; đi từ chia sẻ Mình Thánh Chúa đến chia sẻ tình hiệp thông bác ái huynh đệ trong việc xây dựng đời sống cụ thể: cơm ăn, áo mặc, nhà ở… cho mọi người. Chắc chắn Giáo Hội ban đầu đã hiểu rằng bàn tiệc của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành Mầu nhiệm Thánh Thể, Giáo Hội cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ đời sống vật chất. Giáo Hội Côrintô đã quên việc hiệp thông huynh đệ trong Bữa Tiệc Thánh Thể, nên Thánh Phaolô đã khiển trách họ nặng nề: “Họ vẫn chia rẽ nhau, vẫn không chia sẻ cho nhau; người giàu thì ăn uống no say, còn người nghèo thì ôm bụng đói meo ngồi chờ” (1Cr 11).
Người ta phải sống với nhau và chia sẻ cho nhau. Chúng ta sốt sắng dự lễ, rước lễ, tôn thờ Thánh Thể, nhưng chúng ta có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để trên thế giới ngày nay không một ai phải thiếu thốn quá, đang khi những người khác thì no đầy; để không còn xảy ra thảm cảnh những người chết vì bội thực bên cạnh những người chết vì không có gì để ăn!
Nơi Bàn Thánh chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống của Chúa. Sự sống mới nầy phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ với anh em. Các bí tích không phải là những phương tiện để chúng ta được cứu sống mà còn để chúng ta thành những người đi cứu hộ kẻ khác nữa. Bởi đó, tất cả những gì làm cho mọi người liên kết, hoà hợp, yêu thương nhau phải thúc đẩy chúng ta không ngừng. Chúa Giêsu đã không chết vì hận thù, nhưng Ngài chết vì tình yêu, thì trong Bữa Tiệc Thánh Thể nầy Chúa Giêsu cũng muốn dạy chúng ta phải biết sống và chết vì tình yêu như Ngài.
23. Thánh Thể
Thánh Kinh đã dùng thật nhiều hình ảnh để diễn tả về bữa tiệc Thánh Thể. Nào là hình ảnh Manna, Bánh bởi trời, nào là hình ảnh chiên vượt qua… Và gần chúng ta hơn hết là hình ảnh của phép lạ bánh hóa nhiều. Tất cả những hình ảnh ấy được thực hiện một cách viên mãn nơi Đức Kitô khi Ngài tuyên bố:
– Ta là bánh hằng sống… Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống.
Chính Chúa Giêsu đã trở nên của ăn cho tâm hồn mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể chính là một sáng kiến tình yêu vĩ đại nhất của Chúa Giêsu. Ngài đã thiết lập mầu nhiệm tình yêu này để thông ban cho con người một hồng ân cao cả, đó là nhờ mình và máu Ngài mà chúng ta được thông hiệp vào sự sống thần linh. Thánh Thể còn là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất được dâng lên cho Thiên Chúa. Qua cái chết và sự Phục sinh, Đức Kitô đã trở nên của lễ hoàn hảo.
Nhưng lễ tế này, giờ đây còn được tái diễn trong thánh lễ. Hy tế ấy vẫn tồn tại và hiện thực, mặc dù biến cố ấy đã xảy ra cách đây hai mươi thế kỷ. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch sự sống, bổ dưỡng cho tâm hồn chúng ta như lời Chúa đã nói: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Dân Chúa đang trên đường lữ thứ trần gian cần phải được bổ dưỡng bằng lương thực thần linh này để đạt tới bờ bến bình an.
Bí tích Thánh Thể còn là nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, sự sống đời đời là gì nếu không phải là ơn cứu độ Chúa dành cho chúng ta. Bí tích Thánh thể còn là sợi dây liên kết mọi người chúng ta lại với nhau như lời thánh Phaolô: Tất cả chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng thông phần một nguồn sức sống thần linh là Đức Kitô.
Tuy nhiên, Bí tích Thánh Thể chính là bí tích của đức tin. Muốn lãnh nhận, chúng ta phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra bộ mặt của Đức Kitô trong Giáo hội. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới nhận ra Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Không có đức tin mọi hành vi phụng vụ đều bị coi là mê tín. Bí tích chỉ có ý nghĩa và tác sinh hiệu quả khi chúng ta có một đức tin sống động, một tình thương chan hòa và ơn sủng Chúa trao ban.
Và sau cùng, Thánh Thể chính là hình ảnh của bữa tiệc cánh chung. Khi tham dự Thánh Thể, được ăn và uống mình máu Thánh Chúa Giêsu, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Được Đức Kitô tan biến và thấm nhập vào tâm hồn chúng ta, được sống bằng chính sức sống của Thiên Chúa. Và như vậy, đời sống vĩnh cửu đang có và triển nở nơi người tín hữu để rồi tiến đến tình trạng viên mãn trong ngày sau hết.
Vì những ý nghĩ cao cả ấy, việc cử hành thánh lễ, phải là trung tâm của mọi hoạt động phượng tự của Giáo hội, cũng như phải là chóp đỉnh của đời sống người tín hữu, như Công đồng Vatican II đã xác quyết: Mọi bí tích, mọi việc tông đồ, mọi chức vụ của Giáo hội đều qui về Bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là khởi nguồn và chóp đỉnh của mọi việc rao giảng Tin Mừng và là dấu chỉ của sự hiệp nhất.
Thế nhưng còn chúng ta, chúng ta đã nghĩ gì về Bí tích Thánh Thể và nhất là chúng ta đã đáp trả tình thương to lớn mà Chúa Giêsu Thánh thể đã dành cho chúng ta như thế nào.
24. Chúa Giêsu là niềm mong đợi của mọi người.
Cuộc gặp gỡ tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta ở trang Tin Mừng này hay Tin Mừng nọ đôi khi là một kế hoạch lớn, một cuộc đối diện khá thân mật với Ngài và đôi khi là một kế hoạch tổng thể trong đó chúng ta chiêm ngưỡng Ngài từ xa hơn. Đó là trường hợp ngày hôm nay.
Không có trần thuật nào quen thuộc với chúng ta hơn là trần thuật bánh hóa nhiều. Có sáu trần thuật như thế trong Tin Mừng! Ngày hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cố gắng đi ngay vào việc suy niệm Thánh Thể, nhưng như thế, sẽ làm hạn hẹp những quan điểm rộng rãi của thánh Luca.
Từ đầu thánh Luca không ngừng loan báo biến cố: ngày hôm nay hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa, ngày hôm nay Đấng Thánh của Chúa đã đến, những việc lạ lùng xảy ra, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.
Đối diện với những kẻ thù địch và những kẻ bỏ rơi Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại lần cuối cùng quang cảnh ở Galilê: Chúa Giêsu và đám đông phấn khởi. Đó là sự suy niệm của chúng ta, nhưng còn mở rộng ra, hết sức rộng: Chúa Giêsu, niềm mong đợi của tất cả mọi người.
Thánh Luca sắp giúp chúng ta thấy Chúa Giêsu như là Đấng quy tụ và làm cho phỉ nguyện. Lời đầu tiên của bài Tin Mừng là: “Dân chúng”, lời cuối cùng: “Tất cả ăn no nê”. Việc hóa bánh thành nhiều về mặt lịch sử đúng là một phép lạ, năm ngàn người được nuôi sống với năm chiếc bánh và hai con cá. Tôi ái ngại cho những người mà điều này làm cho khó chịu. Đức tin của họ thiếu động lực. Nhưng đàng sau phép lạ có dấu chỉ lớn về cơm bánh: Chúa Giêsu làm cho những người đói được no nê.
Ngày quy tụ Dân Chúa, Ngài tổ chức Dân Chúa, nhóm Mười Hai hiện diện trong trần thuật này, nhưng điều được nói đến nhất chính là quyền bính bình lặng và mạnh mẽ, ảnh hưởng của Ngài. “Xin Thầy giải tán dân chúng!”, nhóm Mười Hai lo lắng nói với Ngài. Không, Ngài ở lại thì chúng ta cũng ở lại, không có kẻ nào khác Ngài là người quy tụ ở dưới đất cũng như trên trời.
Ngài nói: Ngài giảng dạy Nước Trời, thánh Luca giải thích như thế. Thánh Luca cho thấy kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa. Chúng ta mất thời giờ khi chúng ta tìm kiếm một ông thầy mặc khải khác.
“Ngài mang lại sức khỏe”. Ở đây nữa, đàng sau các phép lạ, phải thấy dấu chỉ này là việc chữa lành các tâm lòng, sự dứt ra khỏi tội lỗi, sự giải thoát lớn, sức khỏe của con cái Chúa.
“Mọi người đều ăn no nê, và người ta thu lại được mười hai thúng bánh vụn!” dấu hiệu của cơm bánh, chính là thức ăn thần diệu, làm phỉ nguyện và dư dật. Chúa Giêsu nói với những người lầm lẫn về dấu chỉ này: “Cơm bánh, chính là Ta! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói; ai tin Ta sẽ không bao giờ khát” (Ga 6,35)
Chúng ta sẽ đi đến Chúa Giêsu thật ngày mà chúng ta xác tín rằng chỉ có Ngài mới có thể xoa dịu cơn đói chủ yếu của đám đông dân chúng. Cơn đói được sống, được hiểu cuộc sống, được rút ra các mật ngọt từ đó, và đi tới niềm vui tối hậu mà vì đó chúng ta cảm thấy rõ rằng chúng ta đã nhận lãnh sự sống và những đói khát vô bờ bến. Chính Ngài là Sự Sống và là Cơm Bánh.
Cảm thấy những điều đó ở trong đám đông để thoát khỏi nếu cần một sự sùng tín Thánh Thể được sống quá riêng tư với Ngài. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa Giêsu khi chúng ta rất muốn tất cả đều yêu mến Ngài.
25. Thánh Thể
Nhân ngày lễ kính Mình Máu Thánh Đức Kitô hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể. Vậy bí tích Thánh thể là gì?
Trước hết, bí tích Thánh thể là một bữa tiệc huynh đệ.
Thực vậy, không phải tình cờ mà Đức Kitô đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn. Như chúng ta đã biết ăn uống là một việc làm sơ đẳng của con người, là một như cầu cần thiết cho sự sống. Nhưng hơn thế nữa, ăn uống còn biểu lộ một tính cách xã hội nữa.
Đúng thế, mời nhau cùng ngồi vào bàn ăn là muốn diễn tả một tâm tình gắn bó nào đó. Chẳng hạn trong gia đình, khi một người không còn muốn ngồi ăn chung cùng với những người khác,, thì lúc bấy giờ tình cảm đã bị sứt mẻ nặng nề và nghiêm trọng. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn và như một bữa ăn, nhờ đó chúng ta được liên kết, được gắn bó muật thiết với Chúa và với nhau.
Thật là không bình thường khi người ta ngồi vào bàn ăn mà lại chẳng ăn uống gì cả. Đành rằng có khi vì một lý do nào đó chúng ta không thể ăn uống được, nhưng vẫn ngồi vào bàn với anh em bạn bè, để biểu lộ tình cảm của chúng ta. Song đó chỉ là một việc chẳng đặng thì đừng, vạn bất đắc dĩ mà thôi. Cũng thế, bình thường khi tham dự bàn tiệc Thánh thể, chúng ta cần phải rước mình và máu thánh Đức Kitô, trừ khi có những lý do chính đáng, những ngăn trở thực sự.
Lại cũng là một chuyện không bình thường, nếu chúng ta đến tham dự cùng một bàn tiệc Thánh thể mà lại thờ ơ lãnh đạm với nhau, thậm chí còn bất hòa và chia rẽ cùng nhau. Quả là một thiếu sót to lớn khi chúng ta đến tham dự thánh lễ mà lại không để ý, không quan tậm tới người khác, cũng như không muốn chung tiếng chung lòng với nhau để tham dự một cách tích cực và sốt sắng. Thân xác ở đây mà cõi lòng thì lại ở tận những đâu đâu, hay chỉ loay hoay cầu nguyện riêng một mình, hoặc giũ thinh lặng thừ đầu chí cuối. Quả là không bình thường khi bàu khí thánh lễ thiếu vắng tình huynh đệ, thiếu vắng sự hòa hợp, thiếu vắng sự vui tươi. Vậy chúng ta cần phải làm gì để thánh lễ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt trong giáo xứ?
Tiếp đến Thánh thể là bí tích tưởng niệm hy tế thập giá của Đức Kitô.
Đúng thế, thánh Phaolô đã viết: Mỏi lần ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Phụng vụ ngày lễ hôm nay cũng đã dựa vào những tư tưởng trên để cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích huyền diệu để kỷ niệm cuộc khổ nạn Chúa.
Bí tích Thánh thể chính là một đài tưởng niệm sống động cho cuộc thương khó. Trong phòng tiệc ly, Đức Kitô đã phó mình cho chúng ta qua hình bánh và rượu, trước khi phó mình cho chúng ta qua cái chết đẫm máu trên thập giá. Đồng thời khi thiết lập bí tích này, Ngài đã hoàn toàn qui hướng về cái chết: Này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Như vậy, mỗi khi cử hành thánh lễ, Giáo hội diễn lại sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, diễn lại mầu nhiệm ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Vì thế, khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta không phải chỉ tham dự một bữa tiệc, mà còn liên kết chặt chẽ với hy tế thập giá, đồng thời hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha.
Thế nhưng, dù dưới khía cạnh một bữa ăn, hay dưới khía cạnh một hy tế, bí tích Thánh thể vẫn mãi mãi là một bí tích của tình yêu, bởi vì hy tế thập giá chính là cao điểm của tình yêu cứu độ, như lời Đức Kitô đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Bởi đó, sống thánh lễ là phải tiêu diệt tính ích kỷ, sự chia rẽ và tất cả những gì đối nghịch với tình yêu của Đức Kitô và tình yêu của anh em đồng loại.
Sống thánh lễ là phải ràng buộc mình vào trong tình yêu, là phải làm cho đời mình trở nên phù hợp với những đòi hỏi của tình yêu, là phải sống bác ái yêu thương. Hãy biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài bằng những hy sinh cho nhau và vì nhau.
26. Mình Máu Thánh – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – RVA)
Một trong những lễ trọng trong mùa thường niên là lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa, lễ này được cử hành vào thứ năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, nhưng tại nơi nào lễ này không buộc thì Hội đồng Giám mục có thể dịch vào Chúa nhật tiếp sau đó với sự phê chuẩn của Tòa thánh. Hằng ngày Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể qua việc dâng hy tế Thánh Thể, đây là một nghi lễ thường xuyên kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.
Trong ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Phúc âm thuật lại, và đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư được mười hai thúng bánh vụn.
Thánh Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm mười hai trong phép lạ này, vì chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở khi ngày đã bắt đầu tàn. Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm mười hai: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa và được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này, dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng, chữa lành bệnh tật và đã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng, vì ở nơi thanh vắng này dù có tiền cũng không mua được đủ bánh.
Chúa Giêsu cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ theo lệnh của Chúa Giêsu đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ, chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao ban cho đám đông, như thế phép lạ đã xảy ra trên bánh và cá sau khi Chúa chúc lành và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng. Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy bất lực trước những nhu cầu của con người, và nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt khác nhau, hằng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có, nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa tất cả những cố gắng nhỏ bé của mình, nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tác của Thầy Giêsu để phục vụ con người thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Do đó chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa. Chúng ta đọc lại câu 16 của đoạn Tin Mừng hôm nay: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”. Khi kể lại cử chỉ Chúa Giêsu làm khi lập Bí tích Thánh Thể, thánh Marcô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Trong biến cố hai môn đệ trở về làng Emmau, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội sơ khai hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và Bí tích Thánh Thể. Trong tất cả những trường hợp trên, Chúa Giêsu đều dùng một cữ chỉ để mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập Bí tích Thánh Thể đã được khai mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều.
Những chiếc bánh vật chất chỉ làm giảm cơn đói của một số người nhất định và trong một thời gian nhất định. Manna ngày xưa trong sa mạc cũng không mang lại cho người ta sự sống sau cái chết. Bữa Tiệc Ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là Mình Thày sẽ bị nộp vì anh em. Này là chén Máu Thày sẽ đổ ra cho anh em…”Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để thông hiệp vào cái chết và sự Phục sinh của Ngài, vào chính bản thân Ngài.
Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm. Cựu ước đã ghi rằng: “Trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật”. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều, nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Giêsu Phục sinh dưới hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự vào bữa tiệc trên trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong nhà Tiệc Ly đã trở thành tấm thân Người được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy”.
Giáo Hội sơ khai đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành Bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ Bẻ Bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ Bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần. Xin Chúa giúp cho chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ Bánh.
27. Thánh Thể – Lm. John Nguyễn
“Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời” (Ga 6,59). Với niềm tin của người Kitô hữu thì Mình Máu Chúa trở nên lương thực thiêng liêng và là nguồn sống đời đời, nhưng với những người không phải là Công giáo thì họ không thể hiểu được ý nghĩa lớn lao của Bí tích này. Cụ thể, trong Tin mừng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51), thì Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Từ thắc mắc này gợi lên cho chúng ta suy tư về mầu nhiệm Mình Máu Chúa mừng kính hôm nay.
Với cách nhìn của con người, việc ăn thịt người thật là ghê tởm, khủng khiếp quá, người Do thái thời Chúa Giê-su, họ coi máu là sự sống của con người, và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên máu huyết. Cho nên, họ không ăn thịt sống khi có máu. Ngay cả chúng ta cũng khó hiểu, vì chẳng ai ăn thịt và uống máu người bao giờ. Người Do thái có lý để tranh luận với Chúa Giê-su. Và cuộc tranh luận đó càng trở nên sôi nổi và gây gắt, vì họ chỉ hiểu theo cách nhìn của con người, theo nghĩa thông thường, họ chưa thoát khỏi bởi thế giới của xác thịt. Trong khi đó, Chúa Giê-su muốn cho họ nhận ra Người, chính là gắn bó với Người, trở nên một với Người. Đó là đồng hóa bản thân với Người ngay trong thực hữu nhân loại của Người, thực hữu đã được ban tặng cho nhân loại trong cuộc sống và trong cái chết của Người. Như lời Đức Giêsu xác quyết: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”.
Sau trận động đất ngày 17.1.1995 tại Kobe, Nhật bản, người ta phát hiện ra người mẹ và cô con gái bốn tuổi nằm ở dưới đóng gạch vụn. Cả hai mẹ con đã bất tỉnh. Sau đó, những người cứu hộ đưa cả hai mẹ con vào phòng cấp cứu, rất may là họ đã được cứu sống. Khi tỉnh lại, bác sĩ hỏi tại sao bà lại có vết thương và máu ở tay ra? Bà mới kể lại rằng: “Khi thấy con của tôi không còn gì để uống, tôi cũng không còn sữa cho con bú, và tôi cũng không biết tìm đâu ra thức ăn và nước để cho đứa con có thể sống, nên tôi đã lấy thanh sắt, rồi rạch mạch máu ở tay để lấy máu chảy ra cho đứa con uống.” Bác sĩ hỏi thêm rằng, bà có biết làm như vậy là nguy hại đến tính mạng của mình không?. Bà ta trả lời: “Lúc đó, tôi không nghĩ đến tính mạng mình nữa, tôi chỉ mong sao cho con tôi được sống”. Hình ảnh người mẹ hy sinh mạng sống cho đứa con của mình xuất phát từ tình yêu sâu thẳm của tình mẫu tử. Đứa con sống được là nhờ máu của người mẹ.
Câu truyện có nhiều ý nghĩa về tình yêu dâng hiến, và nó cũng có thể minh họa cho chúng ta những điều khó hiểu về mầu nhiệm Mình Máu Chúa mà chúng ta lãnh nhận mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giê-su nói rõ ràng nhất, chính là qua thập giá của Ngài. Cái chết của Chúa Giê-su là bằng chứng sống động và là nguồn ơn cứu độ cho con người. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su cầm bánh dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:” Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy”; và Người cầm lấy chén rượu và đọc:” Đây là máu Thầy, máu giao ước mới sẽ đổ ra cho các con”.
Cho nên, mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ là chúng ta tham dự vào hy tế của Chúa Giê-su được tái diễn lại trên bàn thờ, mà chính Chúa Giê-su đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly trước khi đi vào cuộc khổ nạn.
Cho nên, Bí tích Thánh Thể là trung tâm của đời sống Kitô hữu, và tấm bánh đó được bẻ ra để phân phát cho mọi. Điều đó được diễn tả trong Tin mừng hôm nay. Khi đám đông theo Chúa vào trong hoang địa không có gì để ăn, thì Ngài thấy họ đói thì chạnh lòng thương, và bảo các tông đồ: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này”. Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người”. Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều không chỉ cho chúng ta thấy được quyền năng của Thiên Chúa mà còn là thể hiện tính hiệp nhất, liên đới giữa Thiên Chúa với con người mà Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúa Giê-su nói:” Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.” ( Ga, 6,57-58)
Lạy Chúa, xin cho con biết siêng năng rước mình Thánh Chúa mỗi ngày để làm của ăn lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh của chúng con, và xin cho con trở nên tấm bánh cho những người anh chị em đang sống bên cạnh con. Chỉ có Ngài là sự sống đích thực cho con. Amen.
28. Thánh Thể
Có một bữa ăn của Chúa Giêsu đã được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại và thêm một chỗ thứ năm nữa cũng ghi lại, đó là trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô. Đó là bữa ăn cuối đời Ngài, bữa tiệc ly, lúc Ngài giã từ các môn đệ thân yêu để lên đường chịu khổ nạn và chết. Trong bữa tiệc này, Chúa Giêsu đã làm một việc rất quan trọng: biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài để nuôi linh hồn muôn người. Đây chính là phép Thánh Thể, là Bí tích Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Chúng ta hãy nhìn lại việc cao trọng này. Hôm ấy là ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men, là tuần lễ chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của người Do thái. Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan đến và trao cho hai ông công tác dọn tiệc mừng lễ Vượt Qua. Vâng lời Ngài, hai ông đi vào thành mượn được một căn phòng rộng rãi và chuẩn bị mọi sự cần thiết cho bữa tiệc. Đến chiều ngày thứ năm, Chúa Giêsu cùng đoàn tông đồ tới đó dự tiệc, gồm những tuần rượu, những món ăn cổ truyền, xen lẫn với việc đọc các thánh vịnh. Sau khi nhắn nhủ các môn đệ nhiều điều xoay quanh vấn đề chính là hãy yêu thương nhau, rồi Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói trước mặt các môn đệ rằng: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là mình Thầy”. Chúa trao cho các môn đệ cùng ăn. Rồi Chúa cầm lấy chén rượu và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén máu Thầy”. Chúa trao cho các môn đệ cùng uống. Với những lời nói và những cử chỉ trịnh trọng đó, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quí này để tưởng niệm đến Ngài. Như thế, trong bữa tiệc lịch sử này và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ.
Từ đó trở đi cho đến ngày nay và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là mình Thầy”, “Này là chén máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của lý trí loài người. Bởi vì trước và sau khi đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta không thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một Bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Để củng cố đức tin của chúng ta vào Bí tích kỳ diệu và cực thánh này, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ tỏ tường để minh chứng cho mọi người biết trong Phép Thánh Thể có Chúa Kitô thật sự và hoàn toàn. Sau đây là hai phép lạ điển hình.
Phép lạ xảy ra ở làng Bônsênna nước Ý. Phép lạ này đã lưu lại cho chúng ta lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Có phép lạ này bởi vì Chúa muốn dẹp tan sự băn khoăn, nghi ngờ của nhiều người về sự Chúa Kitô hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Đó là vào năm 1263, một linh mục người Đức cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Christiana đồng trinh tử đạo. Đến khi bẻ bánh thì đột nhiên bánh thánh ấy biến thành Thịt và Máu thật sự, trừ phần nhỏ linh mục cầm trong tay. Những giọt máu ở Bánh thánh chảy loang ra thấm ướt khăn thánh. Linh mục ấy gấp khăn thánh lại, nhưng gấp đến đâu máu chảy ra đến đó và in lại dung mạo Chúa Kitô rõ ràng.
Một phép lạ khác xảy ra với thánh Antôn Pađua. Có một người Do thái, tên là Bônvilô, không tin và thường nhạo báng Phép Thánh Thể. Thánh Antôn nói thế nào ông ta vẫn cứ thế. Một hôm, ngài nói với ông ta như là một cuộc thách thức: “Nếu con lừa ông cưỡi mà quì xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình trong hình bánh thì ông có tin không?” Ông ta cho là một câu nói chơi và nhận lời thách thức. Hai ngày liền, ông ta không cho lừa ăn, rồi dẫn tới chợ để có đông người chứng kiến. Giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Con lừa quên đói, không ngó ngàng gì đến lúa mạch, quay sang thánh Antôn quì xuống gật gật đầu thờ lạy Chúa cho đến khi thánh Antôn kiệu Mình Thánh đi. Mọi người quì xuống thờ lạy Chúa và hoan hô thánh Antôn.
Đối với chúng ta, trên lý thuyết, tất cả chúng ta đều tin Chúa Giêsu hiện diện thật trong Phép Thánh Thể, thì trong thực hành, chúng ta hãy sống đức tin đó. Xin đề nghị hai điều:
- Thứ nhất, mỗi khi bước vào hay bước ra nhà thờ, chúng ta hãy nghiêm trang, cung kính cúi sâu đầu để bái chào và thờ lạy Chúa.
- Thứ hai, mỗi khi đi dâng thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ và chuẩn bị cẩn thận trước khi rước lễ và cám ơn sau rước lễ, vì đó là cách hiệp dâng thánh lễ đầy đủ và tốt đẹp nhất.
29. Thánh Thể
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta long trọng cử hành thánh lễ tôn kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng Chúa Kitô đã và đang trao ban chính Mình Máu Ngài làm lương thực không hư nát để ban sự sống cho chúng ta, tiếp nhận chúng ta vào hiệp thông sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đồng thời thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhớ rằng: chúng ta luôn được Thiên Chúa mời gọi hãy ra công làm việc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng Ngài trao ban sự sống cho người khác bằng đời sống bác ái yêu thương, hy sinh phục vụ.
Chúng ta biết rằng, mọi sinh vật trong đó có con người cần thức ăn vật chất để sống, tồn tại và phát triển thân xác, con người lại còn trổi vượt hơn các loài sinh vật khác nhờ có đời sống lý trí và tinh thần. Chính đời sống lý trí và tinh thần làm cho con người ra con người và sống ngày càng ra người hơn, nhân bản hơn trong mối tương quan với người khác và vũ trụ vạn vật. Đời sống này cũng cần có lương thực phù hợp là tri thức và văn hóa. Không có tri thức và văn hóa, con người sẽ phải sống trong lạc hậu, u mê chẳng hơn con vật là mấy.
Thế nhưng, con người không chỉ có thể xác, lý trí và tinh thần, con người còn có tôn giáo, nghĩa là con người còn có đời sống niềm tin, đời sống giúp con người vươn lên những tương quan cao hơn, lớn hơn, chi phối mọi tâm tư, tình cảm và sinh hoạt đó là đời sống thông hiệp với thần minh hay Thiên Chúa. Đối với chúng ta, những người tin vào Chúa Kitô thì đời sống đức tin giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa tình yêu. Chính đời sống này không những làm cho chúng ta nên hoàn thiện mà còn hoàn thiện tốt lành như Thiên Chúa là Cha Tốt Lành trên trời, và chúng ta đến đón nhận sự sống đời đời của Thiên Chúa.
Lương thực cho đời sống này chính là Đức Kitô. Ngài là bánh bởi trời ban sự sống đời đời: Ai ăn thịt và uống máu Ngài thì có sự sống đời đời. An và uống chính mình máu Ngài sẽ không còn phải đói khát.
Chúng ta cần cơm gạo để sống, cần trau dồi tri thức và văn hóa để làm người thì chúng ta cũng cần phải tiếp nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô để sống đức tin, để nên thánh.
Cũng như mọi lương thực khác, Mình Máu Thánh Chúa tuy là hồng ân Thiên Chúa ban tặng nhưng không, nhưng Ngài vẫn mời gọi sự nỗ lực cộng tác của con người tìm kiếm và tạo tác nên lương thực cho đời sống của mình.
Tin Mừng hôm nay thuật lại, phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều không phải từ không ra có, nhưng từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Cũng vậy, bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu ruộng đất, sản phẩm của cây nho và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa không muốn làm một mình dù Ngài có thể, nhưng Ngài muốn con người chúng ta cộng tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé nhưng hết sức cao quí và sinh hiệu quả được dành riêng cho chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chính từ bánh, từ cá, từ đời sống của chúng ta mà Thiên Chúa đã tháp nhận vào ơn huệ Bí tích thánh Thể, làm nên Thánh Thể Đức Kitô.
Phần đóng góp công sức của chúng ta chẳng đáng là bao so với nguồn lương thực lớn lao này, tuy nhiên, không có phần của chúng ta, Bí tích Thánh Thể sẽ chỉ là ma thuật. Đức Kitô sẽ biến đổi, thánh hiến sự đóng góp nhỏ nhoi, khiêm hạ của chúng ta thành nguồn lương thực dồi dào cho mọi người.
Vì thế, chúng ta hãy nỗ lực góp phần cộng tác với Thiên Chúa. Chúng ta đóng góp không chỉ bằng của cải vật chất, nhưng cần thiết hơn còn bằng chính đời sống lao động khó nhọc để phục vụ người khác; bằng chính việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mỗi người và bằng chính đời sống yêu thương, chia sẻ bác ái.
Chúng ta cộng tác với Thiên Chúa không phải chỉ tìm kiếm lương thực cho riêng mình, nhưng còn cho anh em khác nữa. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, Ngài cũng đồng thời mời gọi chúng ta trao ban cho người khác. Đón nhận lương thực để rồi chuyển hóa thành sự sống tình yêu. Thánh Thể phải được chuyển hóa thành năng lượng tình yêu.
Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chỉ một mình Người có bánh hay chỉ cho các môn đệ thân tín của Ngài, nhưng là cho mọi người. Thánh Thể cũng không chỉ dành cho một ai, một số người nào đó nhưng là cho mọi tín hữu. Không phải chỉ chúng ta no đủ phần hồn phần xác mà còn phải biết chia sẻ cho anh em khác nữa. Chia sẻ ở đây không có nghĩa là đi trao Mình Chúa cho người khác, nhưng là trao chính sự sống của mình. Vì một khi đã đón nhận Thánh Thể chúng ta đón nhận chính Đức Kitô để Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Đời sống Đức Kitô là đời sống của yêu thương và hiến mình cho người khác. Đón nhận Ngài thì cũng chỉ có một đời sống như Ngài mà thôi, đó là sống cho và vì người khác trong yêu thương và phục vụ.
Nếu chỉ biết đón nhận mà không biết trao ban, không triển nở ơn thánh thì coi chừng mắc phải chứng bệnh “béo phì ân sủng”. Ngày nay, người ta sợ hội chứng béo phì vì sẽ làm tăng mỡ máu đưa tới xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, gây khốn khổ cho cuộc đời và nguy hiểm cho sinh mạng. Cho nên, phải giảm ăn thậm chí sợ ăn và tăng cường hoạt động để tiêu bớt mỡ, giảm bớt trọng lượng.
Cũng thế, nếu bị “béo phì ân sủng”sẽ có nguy cơ đưa tới xơ cứng trái tim yêu thương khiến cho không triển nở được tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Và lúc đó, việc tham dự thánh lễ cũng trở nên máy móc, theo thói quen nhàm chán, thậm chí ngại và sợ thánh lễ, đôi khi còn xúc phạm vì ý chẳng ngay lành. Nếu như thế, thì thật khốn cho ai ăn và uống Mình máu Thánh Chúa cách bất xứng. Nói như thánh Phaolô: “An uống như thế là ăn uống án phạt mình”chẳng lợi gì chỉ thêm nguy hại mà thôi.
Do đó, cần phải sống như Chúa: cho đi chính mình, trao ban chính sự sống mình. Lương thực Thánh Thể, nguồn sự sống phải được chuyển hóa tiêu hao thành tình yêu, thành bác ái hy sinh để cuộc sống mỗi người và mọi người luôn được no nê ân sủng, tình yêu và sự sống của Thiên Chúa.
Hãy đón nhận Thánh Thể là nguồn lương thực của đời sống Kitô hữu, là của ăn không hư nát mang lại sự sống đời đời. Hãy lao công khó nhọc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng nhau chia sẻ của ăn ấy trong tình bác ái huynh đệ để thực sự chúng ta được sống và sống dồi dào.
30. Lương thực
Đức Giêsu có ít nhất hai lý do để Người có thể giải tán đám đông. Trước hết, Hêrôđê (người đã giết chết anh họ mình là Gioan) đã lưu tâm đến Người. Vì thế, đây là lúc Người phải giữ sự kín đáo, tránh xuất hiện nhiều. Và lý do thứ hai, các tông đồ cần sự nghỉ ngơi vì mới đi làm sứ vụ trở về.
Nhưng Người đã không giải tán đám đông, Người nhìn họ với lòng trắc ẩn và thấy họ như đàn chiên không người chăn dắt. Vì thế Người đã qui tụ họ lại xung quanh Người. Hình ảnh Đức Giêsu ở giữa năm ngàn người. Họ được lôi cuốn bởi lời Người có sức hấp dẫn và nhân cách Người nồng nàn. Việc đầu tiên Người đã làm là giáo huấn họ về Nước Trời. Kế đến Người chữa lành những bệnh nhân.
Có những lúc, Người kết thúc công việc quá buổi trưa và mọi người đều đói. Các tông đồ thúc giục Người giải tán đám đông. Nhưng Người không nghe theo họ. Người đã thực hiện một phép lạ cả thể là ban lương thực cho họ ăn. Và họ sung sướng biết bao trên con đường trở về nhà mình.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều khi chưa đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các tông đồ phân phát để nuôi sống đám đông là hình ảnh tiên báo sự dồi dào của bánh duy nhất mà Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể.
Vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày Đức Giêsu sống lại, các Kitô hữu tiên khởi gặp nhau và cùng bẻ bánh. Từ ngày đó cho đến nay, việc cử hành Bí tích Thánh Thể đã tiếp tục mỗi ngày, ở bất cứ nơi nào, chúng ta cũng gặp việc cử hành ấy trong Giáo Hội và cùng một cơ cấu nền tảng. Nó duy trì và ở ngay trung tâm của đời sống Giáo Hội.
Chúng ta là dân mới của Thiên Chúa. Đức Giêsu ở giữa chúng ta. Nơi đây chúng ta nghe lời Người khi lắng nghe đọc Kinh Thánh. Lời Người không phải là những lời chết. Đó là những lời hằng sống đem lại cho chúng ta những niềm cảm hứng và thách đố chúng ta.
Kế đến, nơi đây, Đức Giêsu chữa lành những thương tật của tội lỗi và chia rẽ. Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta và chữa lành những thương tích mà tội lỗi để lại. Người cũng chữa lành chúng ta khỏi tính biệt lập. Tất cả chúng ta được chữa lành tính ích kỷ và thái độ thờ ơ đối với người khác. Thánh Thể đào tạo chúng ta giữa một cộng đoàn yêu thương.
Sau cùng, nơi đây, chúng ta được lương thực Thánh Thể nuôi dưỡng. “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. Vào cuối thánh lễ, chúng ta không chỉ giải tán mà được sai đi như những người đem sự sống đến cho những người khác.
Vì thế từ thánh lễ này đến thánh lễ khác, khi công bố mầu nhiệm Đức Giêsu Phục sinh cho tới khi Người lại đến, dân Thiên Chúa tiếp tục tiến lên trong cuộc hành hương dẫn đến bữa tiệc Nước Trời, khi mọi người được tuyển chọn sẽ được ngồi vào bàn tiệc Thiên quốc.
Một phụ nữ đứng tuổi người Pêru không biết đọc và không biết viết, khi được hỏi: “Thánh lễ có ý nghĩa gì với bà?”Bà đã đáp lại rằng: “Thánh lễ nói với tôi rằng tôi là một người quan trọng”.
31. Mình Máu Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để thêm sức cho những người đã theo và nghe Ngài giảng dạy. Phép lạ hoá bánh ra nhiều, là dấu chỉ của bí tích Thánh Thể sau này.
Đức Giêsu như gương mẫu
Các tông đồ nhắc nhở Đức Giêsu: “xin Thầy cho dân chúng về để họ tìm chỗ trọ quanh đây và kiếm thức ăn vì ngày đã tàn”. Dường như dân chúng ham mê nghe Đức Giêsu giảng, và chính Đức Giêsu cũng rất thích giảng dạy dân chúng đến quên cả thời gian.
Điều các tông đồ có thể làm được, là nhắc nhở Đức Giêsu về nhu cầu thể lý của con người. Và Đức Giêsu nói: “Anh em hãy cho họ ăn”. Cho dân chúng ăn, đâu phải là nhiệm vụ của các tông đồ, và cũng vượt khả năng của chính các ông: “chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Hãy bảo họ ngồi thành nhóm khoảng năm mươi người. Và Đức Giêsu đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho dân chúng. Đức Giêsu không chỉ quan tâm đến khát vọng thiêng liêng của dân chúng, nhưng Ngài còn thông cảm và để ý đến cả nhu cầu thể xác của con người nữa.
Đức Giêsu: “cầm lấy, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn…”. Những việc bình thường hằng ngày, ngay cả như “ăn uống”, Đức Giêsu cũng vẫn làm với ý thức sâu xa về Thiên Chúa. Và cũng chính thói quen này giúp hai môn đệ Emmau nhận ra Đức Giêsu. Đây là điều mỗi người cần học nơi Đức Giêsu: đối diện với thực tại, hướng lên Thiên Chúa, chúc tụng và xin Ngài giúp để biết phải làm gì và làm như thế nào trong mọi hoàn cảnh.
Đức Giêsu nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Máu Ngài
Đức Giêsu trong đêm Ngài bị bắt, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: này là mình thầy, hiến tế vì anh em. Đức Giêsu đã bị trao nộp và bị giết vì tội con người, Ngài trở nên của ăn của uống cho con người của mọi thời đại.
Ngày xưa dân Do Thái đi trong hoang địa được nuôi bằng manna, người thời Đức Giêsu được Ngài hoá bánh ra nhiều để nuôi họ, còn ngày nay Ngài nuôi con người bằng chính thịt máu Ngài. Con người ngày nay còn hạnh phúc hơn cả con người ngày xưa và ngay cả con người thời Đức Giêsu nữa. Tuy vậy, mấy ai nhận ra diễm phúc này?
Qua bí tích Thánh Thể, con người nhận ra tình yêu vô cùng của chính Đức Giêsu đối với con người. Ngài sẵn sàng trở thành của nuôi con người, để được tan biến trong con người, để làm con người được thần hoá, được thông phần bản tính Thiên Chúa. Của ăn vật chất con người dùng, trở thành thịt máu con người; còn bí tích Thánh Thể con người dùng, làm con người được “trở nên thịt máu Đức Giêsu”, được “thánh hoá”, được thần hoá, được trở nên con Thiên Chúa.
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu đã dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho con người qua cái chết trên thập giá và được thể hiện trước cách bí tích qua bí tích Thánh Thể. Và qua điều này Ngài mời gọi con người của mọi thời đại trở nên giống Ngài: yêu thương đến quên mình, đến dâng hiến chính mình cho con người.
Trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều người đã anh dũng dâng hiến chính mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ở Việt Nam đã có cả hơn một trăm ngàn người dám chết để làm chứng cho đức tin, cho Thiên Chúa. Các thánh và chân phước tử đạo là nhân chứng hùng hồn cho tình yêu Thiên Chúa và con người.
Những người dâng mình cho Chúa, cũng là những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Ơn gọi không khởi đầu với con người và cũng không được kết thúc bởi con người. Chính Thiên Chúa là sáng kiến của mọi ơn gọi và đặc biệt của ơn gọi dâng hiến; cũng chính Thiên Chúa là Đấng bảo vệ và phát triển ơn gọi dâng hiến. Ơn gọi dâng hiến là ơn gọi của tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Tình yêu không triển nở, sẽ bị chết. Mỗi người sống đời dâng hiến hãy luôn cầu xin, để tình yêu của họ với Thiên Chúa và con người luôn phát triển. “Xin Chúa làm cho con yêu Chúa và yêu con người”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bí tích và phép lạ khác nhau như thế nào?
- Bạn có năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể không? Tại sao?
- Xin bạn chia sẻ tâm tình và kinh nghiệm thiêng liêng của bạn với Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
32. Bữa tối trọng nhất – Gm Arthur Tonne
Trong Bang Georgia, giữa công viên đại học và Fairburn có nhiều vườn cỏ với những đài kỷ niệm danh tiếng. Đài kỷ niệm nổi nhất là bức điêu khắc bữa tối sau cùng bằng cẩm thạch khổng lồ dài 20 Feef, cao 7 Feef khắc vào một tấm cẩm thạch nặng 60 tấn.
Chúa Giêsu và các tông đồ được khắc bằng cỡ người thật, nhà điêu khắc Bern Zuckerman cố diễn tả từng chi tiết như móng tay, gân cổ của các tông đồ và thức ăn trên bàn. Ông mất ba năm để diễn tả những gì xảy ra trong chiều thứ năm Thánh đầu tiên ấy. Bức điêu khắc này lấy mẫu của Bức hoạ lừng danh của Leonard de Vinci Bức hoạ về bữa tiệc ly chúng ta thường thấy trong nhiều nhà thờ, trên tường hay trên kính cửa sổ.
Tại sao chúng ta kính nhớ bữa tiệc ly vào lúc này trong năm? Chúng ta đã chẳng kỷ nịêm bữa tiệc ly vào ngày thứ năm tuần thánh để nhớ bữa tiệc đó xảy ra lúc nào đó sao? Vâng, nhưng ngày thứ năm trong tuần thánh thì trang trọng và u buồn. Gia đình Chúa muốn Tôn kính biến cố rất quan trọng với một ngày lễ đặc biệt và vui mừng vào một ngày chủ nhật để tất cả chúng ta có thể tham dự.
Đêm trước khi Chúa Giêsu chịu chết, Chúa đã nói lời này: “Đây là Mình Ta. Đây là Máu Ta” và lần đầu tiên, con người được rước lễ. Rồi sau đó Chúa Giêsu nói với các tông đồ và tất cả chúng ta rằng chính thân thể ấy sẽ bị treo trên thập giá vào ngày hôm sau, chính Máu đó sẽ chảy ra từ các vết thương. Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta’. Nói cách khác hãy làm để nhớ cái chết của Ta.
Thánh Phaolô viết trong thơ Côrintô… Hãy làm việc này… để nhớ đến Ta. Nên mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa cho tới ngày Người đến”.
Trong thánh lễ, chúng ta những công giáo, làm điều Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, chúng ta diễn tả, chúng ta công bố sự chết của Chúa như người đã truyền dạy, chúng ta thật sự làm sống động bữa ăn tối sau cùng và sự chết của Chúa vào ngày kế tiếp.
Một kỷ niệm là một cái gì đó giúp ta nhớ về một người hay một biến cố nào đó. Nó có thể là một việc làm, một đài kỷ niệm, một lưu bút v..v… ngày Thứ Năm thọ nạn, Chúa Giêsu đã minh nhiên khởi đầu một việc làm để nhắc nhở và lưu niệm sự chết của Người qua mọi thời đại.
Đài kỷ niệm lớn nhất thế giới như ở Georgia, Bức tranh vĩ đại nhất thế giới như của Vinci. Thật sự cũng quá nhỏ bé so với bữa tối trọng nhất mà chúng ta làm sống lại trong thánh lễ này. Đó là chân lý quí giá chúng ta cử hành trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta chính Ngài, vì tình yêu chúng ta tiếp nhận Ngài.
Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.
33. Lương thực trường sinh – AM Trần Bình An
“Tôi muốn con tôi sống” đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng 12 năm 1987.
Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: “Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước”. Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: “Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm”. Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa… Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng: “Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”. (Vietnamese Missionaries in Asia, Tôi Muốn Con Tôi Sống)
Trình thuật Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, ý nghĩa Thánh Thể được diễn tả khái quát, qua sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ, với 5 chiếc bánh và 2 con cá, phục vụ cho 5 ngàn đàn ông, không kể trẻ em và phụ nữ. Mọi người đều ăn, và ai nầy đều no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng. (Lc 9, 17)
Hy tế hằng ngày
Hiện nay, hằng ngày mầu nhiệm Thánh Thể vẫn tiếp tục được tôn vinh và cử hành trong các thánh đường trên toàn thế giới. Tình Yêu Thiên Chúa vẫn tràn đầy, phong phú như sương sa, vẫn dưỡng nuôi các linh hồn đang khao khát, thiếu thốn, mệt nhọc, trên Đường Hy Vọng.
Cuộc hy tế của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, xóa tội trần gian, vẫn còn tiếp tục tái hiện qua Thánh Lễ. Công cuộc cứu độ của Chúa vẫn tiếp diễn cho đến tận thế. Nhưng đáng tiếc, bây giờ khuynh hướng tục hóa lan tràn, khiến cho nhiều con chiên ngoảnh mặt làm ngơ, lầm tưởng mầu nhiệm Thánh Thể chỉ như một nghi thức hoài cổ, kỷ niệm nào đó, chẳng hề liên quan đến họ.
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264) vào ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm nay. (Noel Quesson, Đây là Mình Thầy)
Lương thực trường sinh
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết nhục nhã, đau đớn trên thập giá, Chúa Giêsu đã lập Giao Ước Mới bằng cách hy tế chính thân mình. Người không tế lễ bằng chiên, bò như giao ước cũ. Người hiến tế chính thân mình để gánh tội lỗi trần gian, giải thoát con người khỏi quyền lực ma quỷ, để giao hòa với Thiên Chúa. Như thế, con người mới hy vọng sống muôn đời. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, Chính là thịt tôi đây, Để cho thế gian được sống.” (Ga 6: 51)
Mỗi khi đón rước Thánh Thể, chúng ta được vinh dự đón Chúa Giêsu ngự vào mình. Người thánh hóa bản thân chúng ta, liên kết chúng ta chặt chẽ với Thiên Chúa. Người ban muôn ân sủng, an ủi, dưỡng nuôi linh hồn và thân xác, cùng ban sự sống muôn đời. “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy.”(Ga 6,56 )
Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu rỗi toàn thể nhân loại, khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội.” (Mt 26, 27-28)
Hiệp thông và chia sẻ
Năm chiếc bánh và hai con cá được Chúa Giêsu cầm lên dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân. Tất cả mọi người đều được no đủ và dư thừa.
Nhưng mầu nhiệm Thánh Thể còn cao sang gấp bội. Chính Chúa Giêsu trở nên của ăn thiêng liêng, cho phép chúng ta cùng hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhờ lương thực Thánh Thể, chúng ta trở nên như Người và Người trở nên chúng ta. Như thế, chúng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Đồng thời, tất cả tín hữu Kitô khi đón rước Người đều trở nên anh chị em của nhau
Trước đây, dân chúng được chia sẻ cùng năm chiếc bánh và hai con cá trong tình bằng hữu. Nay được chia sẻ mầu nhiệm Thánh Thể, mọi người cũng đều được ăn uống trong tình huynh đệ, như hai môn đệ Emmaus, đã nhận ra Chúa Phục Sinh chính vào lúc Người: “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).
Trong Anh ngữ, từ “companionship” (tình bằng hữu) có nguồn gốc từ La tinh “Cum Panis,” nghĩa là cùng chia sẻ bánh cho nhau. Chỉ là bạn hữu thân thiết mới chia nhau của ăn. Có lẽ từ đó bắt nguồn từ sự kiện Chúa Phục Sinh, chia sẻ tấm bánh với hai môn đệ Emmaus kể trên.
Cho và đền đáp mới duy trì mối tương quan tốt đẹp. Vậy, chúng ta lấy gì đáp lại Chúa Thánh Thể? Nếu không phải dâng lên những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn, cực nhọc, những vất vả lo toan, ưu tư, hy vọng và cả những tội lỗi, yếu đuối vấp phạm.
Hiến dâng lên tất cả những gì chúng ta có, dù chẳng tốt đẹp, chẳng xứng đáng, mà còn tầm thường, thậm chí bất xứng nữa. Chú bé trong Tin Mừng đã dâng lên Chúa Giêsu tất cả lương thực chú đem theo, gồm 5 tấm bánh và 2 con cá mộc mạc và dân dã. Chúa vẫn hân hoan vui vẻ tiếp nhận và thánh hóa.
Tóm lại, chúng ta dâng lên tất cả những gì chúng ta có trong đời thường, tựa như hy lễ hiến dâng lên Thiên Chúa, như dấu chỉ tình yêu đáp trả Đấng đã yêu thương cứu chuộc chúng ta khỏi sự chết đời đời.
Như thế, chúng ta không thể thờ ơ với Bàn Tiệc Thánh. Bàn tiệc duy nhất cao quý vô cùng trên thế gian. Cố gắng thu xếp, từ bỏ hết các rào cản do công việc, hay thú vui, để hân hoan và nhiệt thành tham dự Thánh Lễ. Nhất là sốt sắng Rước Lễ mỗi khi có thể, đề đến đáp tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Rước Chúa vào lòng là thắt chặt mối liên kết hòa giải với Thiên Chúa, đồng thời hòa giải với anh chị em trong cuộc sống thường nhật mới thật sự có ý nghĩa và chân thành đồng hành với Chúa.
Khi chúng ta hy sinh, tha thứ và bác ái với tha nhân chính là lúc chúng ta nhìn thấy Chúa trong anh chị em, là lúc chúng ta đem mầu nhiệm Thánh Thể vào đời, vào ngay môi trường đang sống.
Mặt khác, những hy sinh, đau khổ chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật chân thật, đơn sơ, mộc mạc của cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban muôn hồng phúc cho các Linh mục, đã hiệp thông tái hiện mầu nhiệm Thánh Thể, để cho đàn chiên được sống, và sống dồi dào. Xin Chúa ban cho con tình yêu nồng nhiệt với Thánh Thể, để con được hòa giải với Thiên Chúa và với tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, con tri ân Mẹ đã “Xin Vâng,” đón nhận, cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng. Nay con cũng được vinh dự đón rước Chúa. Xin dạy con biết cảm tạ, tri ân và tôn vinh Thánh Thể. Nhờ Tiệc Thánh, xin cho con được hiệp nhất với Chúa và với mọi người. Amen.
34. Thánh Thể – Bí Tích tình yêu.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26, 26-29; Lc 22,14-20). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta. Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau. Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa.Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô,Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá.Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần,tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội.Thánh Thể làm nên Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cr 10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể.
Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách”giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép, bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép: “Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”(Kinh Nguyện Thánh Thể II).
“Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con”(Kinh Nguyện Thánh Thể III).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18,20).Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn,Ta khát các ngươi cho uống …”(Mt 25,35-36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.Tặng phẩm Thần Linh, Đức Cha Bùi Văn Đọc)
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một (Ga 3,16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người.Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta sẽ học được rất nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
35. Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Suy niệm về Bí tích Thánh Thể, các bài Tin Mừng của chu kỳ phụng vụ trình bày những góc cạnh khác nhau về việc Chúa Giêsu ban Mình và Máu Thánh Người cho nhân loại. Năm A, với bài Tin Mừng Gioan 6:51-58, ta lắng nghe lời giảng của chính Chúa Giêsu nói về ý nghĩa và hiệu quả của Thánh Thể. Bài Tin Mừng năm B (Mc 14:12-16.22-26) kể lại chính biến cố Chúa lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly. Năm nay (C), bài Tin Mừng Luca kể lại phép lạ Chúa làm cho bánh hóa nhiều nuôi đám đông dân chúng và các Tông đồ giúp Chúa phân phát bánh cho họ. Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của phép lạ này và suy nghĩ về bữa tiệc Thánh Thể của toàn thể Giáo Hội mà ta tham dự.
1) “Dân chúng đi theo Người… Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa”
Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi tập sự loan báo Tin Mừng trong một thời gian. Khi trở về, họ vui vẻ thuật lại cho Người những gì họ đã thực hiện. Nhưng con đường huấn luyện còn dài và các ông còn cần rất nhiều những chỉ bảo dạy dỗ. Do đó, Chúa Giêsu đưa các ông về Bét-xai-đa, tránh xa đám đông dân chúng để các ông có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm tông đồ và học hỏi thêm. Thế mà dân chúng cũng biết được Người đang ở đâu và tìm đến với Người.
Dân chúng đi theo Người vì nhiều lý do. Một đàng Chúa Giêsu có quyền lực thu hút dân chúng. Đàng khác dân chúng có những nhu cầu chỉ có Chúa Giêsu mới có thể giúp họ được thỏa đáng. Giữa Chúa Giêsu và dân chúng đã bắt đầu có một mối quan hệ, quan hệ giữa Mục Tử nhân lành và đoàn chiên. Trong quan hệ ấy, họ cần đôi tay giang rộng của Chúa để tiếp đón họ, lắng nghe những thao thức trăn trở của họ. Họ cần nghe được một giáo lý mới mẻ đem lại cho họ luồng sinh khí mới, chứ không phải mớ luật lệ nặng nề máy móc như họ vẫn thường phải nghe và tuân giữ. Họ có bao nhiêu vết thương cần được chữa lành, vết thương thể xác do bệnh tật hay lam lũ, vết thương tinh thần do mất mát đổ vỡ trong cuộc sống hoặc bị xã hội áp bức bất công. Trong hoàn cảnh ấy, Chúa Giêsu đã cảm thông với họ bằng trái tim của Thiên Chúa. Thánh sử mô tả Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh đối với dân chúng như thế nào: “Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9:11).
Đối với các Tông đồ, các ông vừa thực tập việc tông đồ nên đã bắt đầu biết theo gương Thầy, quan tâm tới người khác. Nhưng các ông chỉ có thể đưa ra những sáng kiến hợp lý và trong tầm mức loài người thôi. Giải pháp tốt nhất các ông đề nghị để giải quyết vấn đề của dân chúng lúc này là “Xin Thầy cho đám đông về” để họ tự lo cho những nhu cầu ăn uống ngủ nghỉ của họ. Tuy nhiên lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng của Chúa và lòng khao khát đón nhận Tin Mừng của dân chúng còn to lớn hơn cả những nhu cầu cấp thiết của họ nữa. Vì thế, Chúa có lối giải quyết của Người.
2) “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá…”
Ta cứ tưởng tượng ra khung cảnh hơn năm ngàn người, chưa kể đàn bà và trẻ em, yên lặng và trang nghiêm ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu. Trước khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, Người không hô hoán phù phép như một ảo thuật gia, cũng không nghênh ngang đắc chí như một người ban phát ân huệ cho đám lê dân. Nhưng Người có những cử chỉ cung kính, trân trọng và cầu nguyện: “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”, đúng như một bữa ăn gia đình Do-thái.
Phong cách ấy được lập lại trong bữa Tiệc Ly khiến ta xác tín phép lạ hóa bánh ra nhiều này là hình bóng báo trước biến cố trọng đại Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Đám đông dân chúng là hình ảnh Giáo Hội, với những người anh chị em có những nhu cầu chỉ Chúa Giêsu mới đáp ứng cho họ. Không chỉ là những nhu cầu “tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”, nhưng là những nhu cầu thiêng liêng, đói khát lời Chúa và tình yêu Thánh Thể của vị Mục Tử nhân lành. Giáo Hội quây quần chung quanh bàn tiệc Thánh Thể, để đón nhận lời Chúa và rước lấy Mình Máu Thánh Chúa làm lương thực. Cũng giống như đám đông dân chúng ngày xưa đi theo Chúa cần đến phép lạ bánh và cá hóa nhiều, thì Giáo Hội mọi thời cũng cần Thánh Thể trong cuộc hành trình theo Chúa đi về nhà Cha. Phép lạ bánh hóa nhiều chỉ xảy ra một hoặc hai lần, nhưng phép lạ bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu thì xảy ra từng giờ từng phút khắp nơi trên mặt đất khi các linh mục dâng Thánh Lễ.
Về phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Luca đã ghi lại sự phong phú dư dật của bữa ăn lạ lùng: “Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng”. Suy nghĩ về sự phong phú của Bí tích Thánh Thể, ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Chúa bao la như thế nào. Sự phong phú này được thể hiện qua mỗi Thánh Lễ, giúp ta nhớ lại lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Tình yêu của Thiên Chúa đầy tràn đến độ không những Người sai Con Một đến ở giữa nhân loại, mà Người Con ấy còn tự nguyện ở lại với họ mọi ngày cho đến tận thế. Cùng với tình yêu của Thiên Chúa, ta cũng nhận ra tình yêu của con người. Đến với Bí tích Thánh Thể và Thánh Lễ, mọi người lãnh nhận tình yêu của Chúa, nhưng cũng sẵn sàng biểu lộ tình yêu thương nhau, để sự phong phú tình yêu được lan tràn theo mọi chiều kích dọc ngang.
3) “Chính anh em hãy cho họ ăn”
Thánh Thể là phương cách biểu lộ tình yêu. Chúa Giêsu muốn ở gần ta nên Người chọn phương cách này để làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa của ta. Người truyền dạy các môn đệ: Chính anh em hãy cho họ ăn. Trong tinh thần chia sẻ “cùng một bánh và một chén”, Bí tích Thánh Thể đưa ta đến hành động. Nếu ta đã được phúc lãnh nhận tình yêu Thiên Chúa, thì đến lượt ta cũng phải chia sẻ tình yêu đó với anh chị em. Dĩ nhiên, vốn liếng tình yêu của ta thật nghèo nàn, giống như các Tông đồ “chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Nhưng Chúa chỉ cần có thế thôi, Người sẽ sử dụng sự nghèo nàn của ta để thực hiện sự phong phú của Bí tích Thánh Thể.
Điều quan trọng khác để ta sống Bí tích Thánh Thể là ta có biết nhận ra sự đói khát của anh chị em hay không. Các Tông đồ đi theo Chúa nên đã học theo gương Chúa lo lắng cho tha nhân. Các ông đã nhận ra được những nhu cầu của dân chúng, dù chỉ là những nhu cầu vật chất. Dần dần, họ nhận ra những nhu cầu tinh thần và thiêng liêng của nhân loại và đã ra đi thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Cũng vậy, nếu ta không uốn nắn con tim và tập nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em, ta sẽ không thể nhận ra được những nhu cầu ấy. Những người đi theo Chúa đâu có kêu ca với các Tông đồ là họ đang đói lắm. Thế mà các ông nhận ra được. Tình yêu đích thực luôn nhìn thấy trước được những nhu cầu người khác chưa nói lên.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thánh Lễ là bữa tiệc của toàn thể Giáo Hội. Nhưng tôi có ý thức tầm quan trọng của Thánh Lễ không? Tôi có sống ngoài vòng liên kết tình yêu của Thánh Thể không?
Thánh Thể liên kết tôi với Chúa và tôi với anh chị em. Vậy sự liên kết ấy đòi tôi phải làm những gì cho Chúa và cho anh chị em?
“Chính anh em hãy cho họ ăn” có phải là một mệnh lệnh quá đáng đối với tôi không? Tôi đã làm được gì để xoa dịu cơn đói tinh thần của anh chị em?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con
dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé,
có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự
giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ,
không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa
đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành
những Nhà tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào
và quê hương chúng con. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 106)
36. Tình yêu hy sinh trao ban chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, dù theo truyền thống văn hóa nào, người ta cũng đều cảm thấy máu của con người có một giá trị thiêng liêng, là phần quan trọng nhất trong cơ thể con người, và nó còn được coi như biểu tựơng của sự sống của con người; những ngày hiến máu nhân đạo được coi như những ngày hội của lòng nhân ái, nhờ những giọt máu của lòng quảng đại ấy mà nhiều người đã được cứu sống. Cũng vậy đối với người Do Thái, máu là thánh thiêng, là biểu tượng của sự sống và thuộc chủ quyền của Thiên Chúa nên không ai được đụng chạm đến máu, vậy mà trong đêm Thứ Năm Tuần Thánh, tại nhà tiệc ly, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc lạ lùng, đó là trao ban cho nhân loại Máu và Thịt, và Ngài còn mời gọi: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy nhận lậy mà uống, máu ấy vừa có sức tẩy rửa tội lỗi, đem lại sự sống và làm của ăn của uống và là quà tặng muôn đời cho nhân loại.
Chúng ta thường xúc động khi đọc những câu chuyện về những người cha tận tụy hy sinh một đời cho con cái, có những người mẹ đã ở tuổi 70 mà vẫn phải vất vả sớm hôm lo cho những đứa con bệnh tật, có những người cha người mẹ mỗi tháng âm thầm đi bán những giọt máu của mình để có tiền nuôi con, và thuốc men cho con cái. Mừng lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta càng xúc động hơn nữa khi chiêm ngăm tình yêu của Thiên Chúa đã hy sinh đổ máu mình ra để cứu chuộc chúng ta và mời gọi chúng ta xác tín vào Bí Tích Diệu Kỳ này, đồng thời mời gọi chúng ta chiêm ngắm, tôn thờ và đón nhận Mình và Máu Chúa làm lương thực và sức sống cho chúng ta.
Những hình ảnh hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ giúp chúng ta dẽ dàng hơn khi suy niệm về tình yêu của một Thiên Chúa yêu thương và hy sinh, kể cả mạng sống cho chúng ta là con cái của Ngài. Đức Giêsu Kitô chính là một vị Thiên Chúa, thế nhưng Ngài không ngự ở trên trời để nhìn xem loài người, nhưng Ngài đã chấp nhận mang lấy thân phận của con người để đến ở với con người và nhất là để có thể yêu thương con người bằng trái tim của một con người. Đó là một Thiên Chúa có tấm lòng chạnh thương trước những nhu cầu và sự đói khổ của nhân loại, Ngài nhìn thấy một nhân loại đang lầm lũi bước đi trong bóng tối của sư chết, Ngài đã đem đến cho họ ánh sánhg của hy vọng và niềm vui của nước trời, Ngài đã chỉ cho họ con đường để đạt đến niềm vui và hạnh phúc đích thực, Ngài còn ra tay cứu chữa những đau khổ thể xác và tâm hồn cho con người. Tin Mừng Maccô còn cho thấy, Chúa Giêsu không chỉ lo lắng cho đời sống thiêng liêng của con người mà Ngài còn chạnh thương cho tình trạng đói nghèo thể xác của họ. Khi thấy đám đông dân chúng đã theo Ngài từ sáng sớm, Ngài không nỡ để họ ra về bụng đói, Ngài đã đề nghị các tông đồ tim kiếm lương thực cho họ, và sau đó Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông hơn năm ngàn người ân no.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no đến dư thừa, Chúa Giêsu còn muốn hướng mọi người đến một thứ lương thực cao quý hơn có thể thỏa mãn tất cả những đói nghèo, đau khổ của con người người, mà Chúa Giêsu sẽ ban tặng sau này, đó là việc Ngài đã không chỉ biến bánh ra nhiều mà còn biến bánh trở nên thịt Ngài và biến rượu trở nên máu Ngài làm của ăn của uống nuôi dưỡng nhân loại chúng ta.
Trong thư Corintô, Thánh Phaolô đã thuật lại biến cố long trọng ấy: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Đây là Mình Thày, hiến dâng vì anh em, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thày. Ngài cũng cầm lấy chén và nói: Đây là Máu Thày, anh em hãy cầm lấy mà uống, anh em hãy làm việc này mà nhớ đên Thày. Việc làm này là một hành động vượt sức tưởng tượng của con người, giống như người cha người mẹ, không hề tiếc với con điều gì, kể cả mạng sống, thì Đức Giêsu cũng yêu thương con người chúng ta như vậy, Ngài trao ban tất cả cho chúng ta, trao ban đến cả mạng sống, chấp nhận trở nên của ăn của uống để có thể ở lại với con người, đi vào trong tâm hồn và nên một với người mình yêu thương.
Bí tích Mình Máu Thánh Chúa, chính là một sáng kiến tuyệt với của tình yêu của Chúa Giêsu, vì yêu, Chúa không muốn lìa xa con người nhưng muốn ở lại, và ở cùng con người để tiếp tục yêu thương và nuôi dưỡng con người cho đến ngày tân thế, Ngài còn chấp nhận lệ thuộc vào các tông đồ khi trao cho các ông quyền: Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã cho các tông đồ lặp lại việc biến bánh và rượu là sản phẩm từ lao công của con người trở thành của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha và biến nó trở thành chính thân thể, máu thịt của Chúa Giêsu.
Thưa quý OBACE, mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cảm tạ về Hông Ân Mình và Máu Thánh mà chúa Giêsu đề lại và trao ban cho chúng ta, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đừng ngại ngần, mà hãy siêng năng đến cầm lấy mà ăn, cầm lấy mà uống vì đây chính là lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin của chúng ta, và là chính Thiên Chúa Tình Yêu đang ở với chúng ta để nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta trên hành trinh theo Chúa.
Thánh lễ mỗi ngày là nơi mà Giáo Hội thi hành lệnh truyền của Chúa: Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày, và cũng là lúc Giáo Hội nhân danh Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha, chính Mình, Máu và cả con người của Chúa Giêsu đã chịu hiến tế, để xin ơn tha thứ và cứu độ cho nhân loại. Vì vây đến tham dư thánh lễ mỗi ngày, là chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và vâng phục của chúng ta trước tình yêu hy sinh trao hiến của Chúa Giêsu, đồng thời mỗi người đón nhân tình yêu và sư tha thứ từ nới Thiên Chúa Cha. Không những thế, trong thánh lễ, tùy theo phận vụ và ơn gọi của mình mỗi người đến đây sẽ đem theo mồ hôi nước mắt, hy sinh vất vả trong ngày để cùng đặt lên dĩa thánh dâng lên Thiên Chúa xin Chúa chấp nhận biến thành Máu Thịt của Chúa Giêsu và ban làm của ăn cũng như ơn cứu độ cho bản thân và gia đinh.
Vì thế đừng bao giờ chúng ta nại vào sự vất vả hay bận rộn, mà bỏ qua việc đến với Thánh lễ mỗi ngày, vì ở nơi đây chúng ta được gặp gỡ với Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, được đón nhận sư nâng đỡ và bổ sức của Ngài, được nuôi dưỡng và an ủi, được thứ tha và được yêu thương vỗ về của Thiên Chúa là Cha và của chính Chúa Giêsu Đấng là Chúa và cũng là bạn hữu là người thân của chúng ta.
Đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta được mời gọi để trở thành của ăn trở thanh tấm bánh cho anh em, chấp nhận hy sinh, chia sẻ và trao tặng cả con người và cuộc đời mình cho gia đình và anh em. Chính anh em hãy cho họ ăn. Đó là lời Chúa muốn nói với chúng ta, dù là bậc cha mẹ hay là con cái, dù là trong gia đình hay với bạn bè, chúng ta đều phải thực hiện lời mời gọi này. Hãy noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải trở thành những con người dám phục vụ anh chi em, dám hy sinh thời giờ sức lực trí tuệ để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho anh chị em, dám mở rộng đôi tay và trái tim và để cho trái tim mình biết rung nhịp trước những đau khổ của anh em để cảm thông để an ủi nâng đỡ; hãy cho vợ chồng, con cái không chỉ lương thực cơm bánh mà hãy cho họ tình yêu thương và sự phục vụ của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi các bạn trẻ hãy siêng năng đón nhận Mình Máu Chúa mỗi ngày, Thánh Thể Chúa sẽ dạy các bạn biết thế nào là một tình yêu thương đích thực, Ngài sẽ cho các bạn nghị lực và niêm vui trong cuộc sống, Ngài sẽ giúp các bạn ra khỏi sư ngại ngần để bước đến với người khác bằng một tâm hồn và trái tim nhiệt thành của tuôi trẻ, để phục vụ để yêu thương. Nhất là đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Ngài sẽ giúp các bạn chiến thắng được con người ù lỳ lười biếng của mình, vượt qua những lôi cuốn của cám dỗ đam mê dục vọng, và sẽ thánh hóa con người và cả cuộc đời các bạn, và đem đên cho các bạn sự sống đời đời. Amen.
37. Bí Tích Thánh Thể – Dấu chỉ Tình Yêu
Khi thương nhau thì người ta sẽ làm mọi cách để biểu lộ tình thương và sự quan tâm của mình. Những món quà, những cuộc điện thoại hay những tin nhắn qua điện thoại… Cử chỉ trao nhẫn cho nhau trong nghi thức của Bí tích Hôn phối cũng nói lên dấu chỉ tình yêu giữa hai người phối ngẫu. Dấu chỉ ấy nói lên từ giây phút đó họ sẽ thuộc trọn về nhau cả xác lẫn hồn.
Tuần trước cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi – mầu nhiệm trung tâm của niềm tin Kitô giáo. Ba Ngôi cùng một bản thể, cùng một uy quyền và cùng hướng về một mục tiêu chung. Đó là cùng đem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Có thể nói Thiên Chúa đã tỏ ra hàng trăm ngàn dấu chỉ để biểu lộ tình thương của Người dành cho con người. Một trong những dấu chỉ quý báu ấy chính là Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể chính là Bí tích quan trọng nhất trong 7 Bí tích. Vì qua Bí tích này chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc.
Như chúng ta biết, trước khi chịu khổ hình Chúa Giêsu biết mình sẽ không còn hiện diện hữu hình ở trần gian này nữa nên Người đã lập Bí tích Thánh Thể. Để rồi qua Bí tích này Người sẽ còn tiếp tục hiện diện với con người. Quan trọng hơn là Người ban cho con người chính bản thân mình qua hình Bánh và hình Rượu.
Ngày nay, mỗi khi tham dự Thánh lễ là chúng ta cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể – Bí tích tình yêu. Và rồi nếu có đầy đủ điều kiện chúng ta sẽ lên rước lấy chính Chúa Giêsu qua hình bánh và hình rượu làm của nuôi cho sự sống đời đời. Thật là cao quý và hạnh phúc cho người tín hữu chúng ta. Mãi mãi chúng ta là những con người được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hãy tin vào Chúa qua dấu chỉ Bí tích Thánh Thể – Bí tích tình yêu này. Và chúng ta đ ược kêu mời hãy siêng năng rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Bởi lẽ, rước lễ thì được những ơn ích này: một là làm cho ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với nhau, hai là xóa bỏ các tội nhẹ và gia tăng ơn thánh hóa, ba là thêm sức cho ta chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ và sửa tính mê nết xấu, bốn là bảo đảm cho ta được sống đời đời.
Trong thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô đã nói: “Khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó không phải là dự phần vào Thân Thể của Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta ta chỉ là một thân thể” (1Cr 10, 16b-17). Cho nên, hiệu quả của Bí tích Thánh Thể là sự hiệp thông với nhau.
Ông bà chúng ta có dạy: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau “. Hay: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Còn ở đây, khi rước lễ là chúng ta được hiệp nhất cùng nhau trong thân thể Chúa Giêsu. Thân thể này không thể bị chia rẻ nhau từng mảnh mà phải được gắn kết với nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chúng ta tin vào dấu chì tình yêu qua Bí tích Thánh thể Người đã lập nên. Thể hiện niềm tin ấy là việc siêng năng rước Chúa và sống hiệp thông với nhau.
38. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu là chia sẻ không những sứ mạng của Người, mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá.
1.- Ngữ cảnh
Truyện này được đặt vào ngay sau phân đoạn nói về việc Đức Giêsu sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng (các ông ra đi: 9,1-6; tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Đức Giêsu: 9,7-9; các tông đồ đã đi rao giảng về tường thuật của Đức Giêsu những việc đã làm: 9,10-11) và trước lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9,18-21) cũng như lời tiên báo Thương Khó lần thứ nhất cùng với các điều kiện của đời môn đệ (9,22-16).
Riêng truyện hóa bánh ra nhiều trong TM Lc (9,12-17) thì tương ứng với Mc 6,30-44 và Mt 14,13-21. Tác phẩm Lc không có bản văn tương ứng với truyện hóa bánh ra nhiều lần hai ở Mc 8,1-10 và Mt 15,32-39; do đó, bề ngoài bản văn Lc giống với Ga bởi vì Ga cũng chỉ có một bài tường thuật về nhân bánh và cá (Ga 6,1-15).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Sứ vụ của Đức Giêsu (9,11b);
2) Các môn đệ nhận định về vấn đề (9,12);
3) Đức Giêsu đáp trả (9,13-16):
- a) lệnh thứ nhất cho Nhóm Mười Hai (c. 13),
- b) lệnh thứ hai cho Nhóm Mười Hai (cc. 14-15),
- c) một hành động của Người (c. 16);
4) Kết quả (9,17).
3.- Vài điểm chú giải
– nói với họ về Nước Thiên Chúa (11): hoặc “tiếp tục nói với họ”, vì động từ ở thì vị-hoàn (imperfect). Tác giả Lc đã sửa Mc 6,34 (“nhiều điều”) thành “về Nước Thiên Chúa”. Rõ ràng Lc muốn nối phép lạ sắp kể với lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
– Nhóm Mười Hai (12): Trong bản văn song song, Mt 14,15 và Mc 6,35 nói đến “các môn đệ” (hoi mathêtai). Đối với Lc, Nhóm Mười Hai tượng trưng sự nối tiếp với Israel. Trong Cv 1, con số mười hai phải được bổ sung sau khi Giuđa chết, để Nhóm Mười Hai đã được tái lập như thế, có thể đón nhận ân huệ đã được Thiên Chúa hứa ban là Thánh Thần và bắt đầu đi làm chứng. Tác giả Lc là tác giả duy nhất nối kết Nhóm Mười Hai với danh hiệu “tông đồ” ở 6,13 (x. Mt 10,2). Đọc Cv 1,21-22, ta thấy Phêrô xác định rằng người thay thế Giuđa phải đã cùng đi với Đức Giêsu kể từ khi Người được Gioan ban phép rửa đền khi Người lên trời, và như thế, trở thành chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Người. Như vậy, đối với Lc, Nhóm Mười Hai trở thành dây liên kết nối tiếp lời loan báo của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa với lời Giáo Hội rao giảng Lời Chúa.
– Chính anh em hãy cho họ ăn (13): Những lời Đức Giêsu nói có thể gợi đến 2 V 4,42-44: ở đây, một người từ Baan Salisa mang đến biếu ngôn sứ Êlisa hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm. Vị ngôn sứ bảo tiểu đồng: “Phát cho người ta ăn”. Tiểu đồng phản đối: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?”; vị ngôn sứ đáp bằng cách nhắc lại lời của Đức Chúa (Yhwh): “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nếu gợi ý này quả thực có trong các Tin Mừng Nhất Lãm, thì hẳn là nó có hàm ý là Đức Giêsu đóng vai trò ngôn sứ khi hóa bánh ra nhiều.
– Đức Giêsu cầm lấy (16): Năm hành động của Đức Giêsu được diễn tả bằng những động từ lấy nguyên văn từ Mc 6,41 (x. Mt 14,18): cầm lấy (labôn), ngước mắt lên trời (anablepsas eis ton ouranon), dâng lời chúc tụng chúng (eulogêsen autous), bẻ ra (kateklasen), trao cho (edidou).
Mt 14,18 cũng nói đến năm hành động ấy nhưng ở những dạng khác. Trong Bữa tối cuối cùng theo Mc 14,22 (x. Mt 26,26), có bốn hành động được nhắc lại: cầm lấy, chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ở Lc 22,19, cũng xuất hiện bốn động từ, nhưng eulogêsas (chúc tụng) được thay thế bằng eucharistêsas (tạ ơn). Ở Lc 24,30, có ba động từ, nhưng edidou được thay thế bằng epedidou (= ban tự ý; ban làm của hồi môn). Trong bài tường thuật cuộc nhân bánh lần hai (Mc 8,6; Mt 15,36; x. 1 Cr 11,24) cũng có những động từ tương tự. Những bản văn dùng eucharistêsas (tạ ơn) phải được coi như là phản ánh một đợt muộn hơn trong truyền thống về Bí tích Thánh Thể (eucharistia). So với Mc 6,41, động từ này đứng một mình, nên rất có thể có nghĩa là “chúc tụng Thiên Chúa”. Khi gắn đại từ “chúng” (= bánh và cá) vào lời chúc tụng và việc bẻ bánh, tác giả cho hiểu rằng hai hành vi này chính là nguyên nhân đưa tới việc hóa bánh ra nhiều.
– ngước mắt lên trời (16): Đây là một thuật ngữ của Cựu Ước, thường có ở trong Bản LXX (St 15,5; Đnl 4,19; G 22,26; 2 Mcb 7,28).
– bẻ ra (16): Các TMNL không bao giờ nói rằng Đức Giêsu đã “nhân” bánh ra nhiều. Ta suy ra phương diện phép lạ từ con số những người ăn và những gì còn sót lại, từ khối lượng nhỏ bé lúc khởi đầu.
– ai nấy được no nê (17): Lc dùng echortasthêsan là động từ của Mc 6,42. Ngài cũng dùng động từ này trong Mối phúc 6,21 (x. 15,16; 16,21). Trong Bản LXX, động từ này thường được dùng để diễn tả lòng nhân lành Thiên Chúa đã hứa để làm no thỏa dân Ngài (x. Tv 37,19; 81,17; 132,15).
– mười hai thúng (17): Con số “mười hai” rõ ràng có một quy chiếu tượng trưng đến “Nhóm Mười Hai” ở c. 12: mỗi ông mang về một thúng đầy và bây giờ có đủ lương thực để nuôi cả những người khác nữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Sứ vụ của Đức Giêsu (11)
Sau khi mười hai tông đồ đi giảng về và sau khi các ông đã tường thuật cho Người các công việc đã làm (Lc 9,10), Đức Giêsu lại chìm vào trong công việc phục vụ đám đông (9,11): Giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Từ đầu Tin Mừng đến đây, tác giả đã liên tục giới thiệu hai khía cạnh này trong hoạt động của Đức Giêsu:4,31-44; 6,18; 8,1-2.
* Các môn đệ nhận định về vấn đề (12)
Lần đầu tiên trong Tin Mừng Lc, Nhóm Mười Hai lấy sáng kiến và quan tâm đến tương quan của Đức Giêsu với đám đông. Vì trời đã xế chiều, các ông đã nêu những nhận định và đề ra phương án giải quyết rất thực tế: đây là nơi hoang vắng, mà người ta thì đông; do đó, tốt nhất nên giải tán đám đông để họ tự giải quyết vấn đề nơi ăn chốn ở. Tác giả Lc nói ở 9,12 về “Nhóm Mười Hai”, trong khi ở 9,14.16, ngài thay đổi từ vựng: Đức Giêsu ngỏ lời với các “môn đệ”. Từ ngữ “môn đệ” này rất có thể cả ở đây cũng chỉ một nhóm đông hơn trong đó chắc chắn có Nhóm Mười Hai. Dù sao, sáng kiến phát xuất từ Nhóm Mười Hai khi họ vừa đi giảng về và lại tháp tùng Đức Giêsu. Qua sáng kiến này, rất có thể tác giả muốn cho thấy là, do chuyến đi truyền giáo vừa qua, các tông đồ đã nhạy cảm hơn với các nhu cầu của dân chúng.
Ở đây, chúng ta sắp gặp lại đề tài quen thuộc trong TM III, đó là “các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với người khác” (x. 4,16–9,6). Nay chúng ta sắp sửa chứng kiến một phương diện mới: qua sứ mạng của Đức Giêsu là rao giảng về Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa đang thực hiện các lời Ngài hứa, là nuôi dưỡng tạo thành đói khát (x. Is 25,5-6).
Cụm từ “nơi hoang vắng” (c. 12) khiến chúng ta nhớ đến đoàn dân Israel đang sống kiếp nô lệ, nay bằng qua sa mạc để tiến dần về tự do, về với một cuộc sống mới.
* Đức Giêsu đáp trả (13-16)
Đức Giêsu trả lời bằng hai lệnh truyền (Lc 9,13.14) và một hành động (9,16).
Do Nhóm Mười Hai đã tỏ ra có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng, Người trao cho một trách nhiệm quan trọng hơn và xác nhận nhiệm vụ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (9,13); chính anh em hãy nuôi dưỡng đoàn dân Israel vừa mới được tái lập. Với cái nhìn thực tế và với trái tim sẵn sàng, các ông nhận thấy tài nguyên của các ông quá nghèo nàn, các ông tình nguyện đi mua thức ăn cho dân chúng. Nhưng Đức Giêsu phản ứng với một lệnh thứ hai: “Bảo họ ngả mình thành từng nhóm năm mươi” (9,14). Các ông đã thi hành chính xác lệnh truyền (9,15). Đức Giêsu không lập một cơ quan phân phối bánh, để mỗi người có thể đến lấy phần của mình. Các môn đệ phải bố trí họ thành những nhóm trật tự (9,14).
Bây giờ đến hành động quyết liệt của Đức Giêsu. Sau khi đã đọc lời chúc tụng và bẻ bánh và cá ra, Người trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho đám đông. Các môn đệ đã vâng theo lệnh thứ hai của Người, nên giờ đây Đức Giêsu làm cho họ cũng có khả năng thực hiện lệnh thứ nhất: cho đám đông ăn (so sánh 9,13 // 9,16). Các từ ngữ được Lc dùng để mô tả hành động Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho) thuộc về bài tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (22,19) và truyện hai môn đệ Emmau (24,30, cũng liên hệ với Bí tích Thánh Thể). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ phải tiếp tục nuôi dưỡng đám đông bằng Bí tích Thánh Thể.
* Kết quả (17)
Đám đông đã được no nê mà các mảnh vụn còn thừa đã được người ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9,17). Trong biến cố này, Nhóm Mười Hai, là những bạn đồng hành của Đức Giêsu, không chỉ chứng kiến việc Người làm, mà còn được đưa vào cộng tác trực tiếp. Các ông đã nhận lệnh cho đám đông ăn (9,13) và các ông đã được Đức Giêsu làm cho có khả năng thực hiện điều đó (9,16). Điều đánh động chúng ta khi đến cuối truyện này là Lc không ghi lại một phản ứng nào của đám đông trước phép lạ (ngược với Ga 6,14-15). Chính Phêrô sẽ làm phát ngôn nhân cho họ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20).
Ta có thể so sánh với 22,19, trong đó cũng Nhóm Mười Hai nhận bánh do Đức Giêsu trao ban, bây giờ với lời giải thích và lệnh truyền: “Đây là Mình Thầy, hiến trao vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Các ông lại nhận và phải cho đi. Về đời sống của cộng đoàn tiên khởi, sách Cv viết: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Như Simôn và các môn đệ đầu tiên vào dịp mẻ cá lạ lùng (5,4-11), Nhóm Mười Hai cũng trải nghiệm trực tiếp về quyền lực của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Khi tỏ mình ra như là chúa tể ban cơm bánh, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra như là chúa tể ban sự sống và khuyến khích Nhóm Mười Hai tin tưởng bẻ ra và phân phát bánh đã nhận trong Bữa Tối cuối cùng. Nhóm Mười Hai đã đề nghị giải tán đám đông và như thế là chấm dứt sự hiện diện và kết hợp của họ với Đức Giêsu. Nhưng dân chúng không bị buộc phải rời bỏ Đức Giêsu mới tìm được các kế sinh nhai. Đức Giêsu có quyền năng duy trì sự hiệp nhất trong tư cách là chúa tể ban cơm bánh và sự sống. Người có thể quy tụ lại và bảo toàn cộng đoàn vĩ đại quanh Người. Cả điều này cũng thuộc về kinh nghiệm mà Nhóm Mười Hai vừa trải nghiệm.
5.- Gợi ý suy niệm
- Bữa tiệc Đức Giêsu vừa chiêu đãi thật vĩ đại. Tuy nhiên, nếu đã có kết quả ấy là bởi vì các môn đệ đã góp phần của mình vào (lương thực: năm chiếc bánh và hai con cá; phục vụ: phân phối đám đông thành nhóm trật tự và phát bánh với cá). Bữa tiệc này gợi đến Thánh Lễ chúng ta dâng. Khi đó, chúng ta cũng phải góp phần nhỏ bé của mình vào để cho tất cả được no nê. Bữa tiệc Thánh Thể lại tiên báo Bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên quốc, mà mỗi người chúng ta hiện đang góp phần để thực hiện, dù là phần khiêm tốn bé nhỏ.
- Quả thật, một Thánh Lễ mà không đưa tới hành vi cụ thể giúp đỡ những người túng cực, để ai nấy được no đủ, thì chỉ là một hành vi dối trá. “Những miếng vụn còn thừa thu lại được mười hai thúng” (c. 17): Bánh Thánh Thể không phải là thứ dành riêng cho những người đạo đức; đây là một quà tặng Đức Kitô ban không bao giờ cạn kiệt. Quà tặng này sẽ tiếp tục được phân phát cho tới ngày bắt đầu bữa tiệc vĩnh cửu, và khi đó lễ mừng sẽ không bao giờ chấm dứt.
- Mối bận tâm đến lương thực hằng ngày là nguyên do khiến con người phân tán, bởi vì mỗi người sẽ phải lo làm công việc của mình, và đôi khi cũng là nguyên nhân đưa đến những mâu thuẫn do đấu tranh để bảo toàn sự sống và cạnh tranh về nghề nghiệp. Đức Giêsu cung cấp một bữa tiệc: Người muốn kiến tạo đời sống cộng đoàn hợp nhất. Các môn đệ hôm nay phải hướng về Đức Giêsu: Người đã chứng tỏ là Người có ý muốn và Người có khả năng làm mục tử chăn dắt đoàn chiên này, quy tụ họ lại trong sự duy nhất và sự hiệp thông, dọn cho họ một bàn tiệc và quy tụ họ lại quanh mình để sống tình hiệp nhất cộng đoàn trong sự bình an và thân tình.
- Khi đi tham dự Lễ Tế Tạ ơn, chúng ta tham dự vào một cộng đoàn huynh đệ được Đức Giêsu nuôi dưỡng. Khi đó, chúng ta hưởng sự tự do được ở với nhau trong tình thương, trong sự an bình và trong niềm vui. Như ngày xưa với đám đông, hôm nay với các tín hữu đến tham dự thánh lễ, không có việc làm nào cả, không có sự mệt nhọc nào cả, không có sự bân tâm nào cả, không có sự phân biệt nào cả: mọi chuyện ấy không còn nữa, khi Đức Giêsu có mặt.
- Hôm nay khi đứng trước những vấn đề nan giải, các tín hữu nhớ rằng Đức Giêsu sẽ giúp họ giải quyết, nhưng họ cũng phải góp phần nhỏ bé vào. Khi đã đạt được kết quả, thì đừng quên rằng họ chỉ là tôi tớ, đã biết vâng theo những lệnh truyền của Đức Giêsu và cộng tác với Người. Nhưng con số mười hai thúng đầy gợi ý là, sau khi đã chia sẻ tiệc Thánh Thể với những anh chị em hiện diện, bây giờ chính chúng ta cũng có thể và phải chia sẻ lương thực cho những anh chị em không có mặt, để họ cũng được liên kết với đoàn dân Chúa.
- Cũng ghi nhận là tác giả Lc nối truyện này trực tiếp vào lời Đức Giêsu tiên báo Thương Khó và với những giáo huấn của Người về việc vác thập giá hằng ngày (9,18-27). Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu (22,19) là chia sẻ không những sứ mạng của Người (9,1-6), mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá (9,18-27).
39. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay là “Lễ Mừng Thiên Chúa”! Từ đó xem ra kỳ lạ, nhưng được tuyển chọn để nói lên mầu nhiệm “Mình và Máu Đức Kitô”, là dấu chi vĩ đại, là bí tích thiêng thánh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Vì thế để gợi lên cho ta thấy bí tích Thánh Thể quan trọng này, Giáo hội đã chọn, để năm nay chúng ta đọc lại một phép lạ liên hệ đến “vật chất”: đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều. Làm như thế có phải là giảm nhẹ mầu nhiệm không? Có lẽ đó là điều gây cho ta nhiều ngỡ ngàng. Với tinh thần duy lý, chúng ta không thường hiểu sai, khi muốn vật chất hóa bánh ra nhiều một cách triệt để, hãy thiêng liêng hóa bữa tiệc Thánh Thể đến cùng sao? Thực sự, chúng ta sẽ nhận ra rằng, hai thứ bánh đó liên kết với nhau. Để nói lên Đức Giêsu cho đám đông dân chúng đói bụng ăn no nê, Luca sử dụng chính những công thức của Bữa Tiệc ly… Nhưng ông cũng sẽ diễn tả Thánh Thể như một bữa ăn huynh đệ, đòi phải phục vụ lên nhau cách cụ thể.
Có lẽ chúng ta cần nhận ra rằng, “bánh của Thiên Chúa” đòi ta phải thương tới anh em mình, tới “bánh của con người”… hoa quả và ruộng đất công lao của con người! Vì lòng thương yêu chúng ta, khi trao nộp Mình và Máu Ngài, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy làm như thế. Làm sao Thánh Lễ của chúng ta lại có thể thoát ra ngoài thế gian được?
Đức Giêsu đã nói với đám đông về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
Ngay những lời mở đầu, Luca đã tiếp tay rất nhanh, để độc giả của ông, những Kitô hữu sống Thánh Thể mỗi Chúa Nhật, hiểu rõ ý nghĩa biểu tượng của trình thuật ông sẽ kể. Cũng như trong thánh lễ, bữa ăn mà Đức Giêsu sắp cống hiến cho đám đông, bắt đầu bằng một “Phụng vụ Lời Chúa”. Cần phải hiện diện tại đó ngay từ đau để được dưỡng nuôi bằng chính Giêsu đó, Đấng “nói về nước Thiên Chúa” và “chữa lành những ai cần được chữa”. Phải, dấu chỉ của bánh che giấu một khuynh hướng biểu tượng sâu sắc mà ta cần phải hiểu ý nghĩa vượt trên thực tại vật chất trực tiếp. Lương thực sắp được trao ban, không chỉ nhằm tới làm dịu cơn đói phần xác, dù rằng trước hết nó đóng vai trò đó. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh! Cơn đói khát của con người không phải chỉ là những lương thực trần gian. Lát nữa họ có nhận ra Đấng sẽ ban cho họ “bánh bởi trời” (Ga 6) không?
Đức Giêsu “nói đến nước Thiên Chúa”. Do đó, đây là Lời giải thoát con người, là Ngôi Lời cứu độ con người, là sứ điệp mở lối cho con người tới Thiên Chúa. Hỡi con người giá như người biết nhu cầu đích thực của ngươi? Giá như ngươi biết rằng, sự “no thỏa” duy nhất và thực sự của người là chính Thiên Chúa. Người được tạo thành để hưởng hạnh phúc vô biên, mà các hạnh phúc trần gian chỉ là một thứ hình ảnh mờ nhạt. Vậy, bạn đừng hài lòng vì những thứ bánh ngọt, món rau đỗ, hay món thịt bò với khoai tây rán…
Đức Giêsu “chữa lành những ai cần được chữa”. Đó là kiểu nói đầy tính mạc khải. Luca biết rằng có lẽ mọi người đều cần đến việc chữa lành như trên, mà Đức Giêsu sẽ mang đến. Nhưng rõ ràng, có quá nhiều người còn đang đóng kín trong tiểu vũ trụ con Người riêng tư của họ, thường không cảm nhận được những giới hạn sâu xa của mình, như tội lỗi và định mệnh phải chết. Họ cứ tưởng mình là “mạnh khỏe”! Thế mà, Đức Giêsu không đến với người mạnh khỏe, những kẻ công chính, nhưng đến với kẻ đau bệnh và tội lỗi (Lc 5, 31). Đó thực là “hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, sắp được biểu trưng trong lương thực mầu nhiệm có sức làm no thỏa và vô cùng phong phú… mà Đức Giêsu (theo tiếng Hê-brơ danh của Ngài có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”) sẽ trao ban cho “những ai cần đến”! phần tôi, tôi có thuộc vào những người đó không?
Ta cũng đã thấy, tại điểm nào mà kiểu giải thích nhằm đơn giản hóa sự việc, muốn tìm hết cách để hợp lý hóa phép lạ, và cố nói lên rằng, Đức Giêsu đã thuyết phục dân chúng để họ đưa ra những đồ dự trữ mà họ cất giấu, do đó gợi lên một thái độ chia sẻ chung. Kiểu giải thích này không nghiêm chỉnh. Nó biến Tin Mừng thành một thứ tiểu thuyết màu mè, dù đã đưa ra được một bài học liên đới khá tốt.
Cũng thật là ấu trĩ khi nghĩ rằng, Chúa là Đấng không ngừng làm cho các đồng bắng trên thế giới đẫy rẫy những mùa gặt từ vài hạt lúa, lại có thể gặp lúng túng khi hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh… Thánh âu Tinh đã phát biểu như thế.Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn. Nếu đó là ơn cứu độ, là sự sống đời đời, thì chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng “Hỡi con người nếu ngươi nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban” (Ga 4, 10). Ôi, hỡi chị phụ nữ xứ Samari, cơn khát khao của chị không phải là cơn khát ở nước giếng này! (Ga 4,15) Còn tôi, tôi có đói khát không?
Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng…”.
Vẫn là nết nhạy bén của Luca. Dừng lại những chi tiết vật chất của cảnh tượng trên, có nghĩa là bỏ quá điều cốt yếu. Làm sao những người quen thuộc Kinh Thánh lại không nhận ra trong thứ bánh được trao ban cho dân chúng “trong hoang địa”: Một nhắc nhở đến phép lạ “man na” kỳ diệu trong Xuất Hành? Đức Giếsu là Môsê mới, “nhà giải phóng” mới, Đấng,”cứu khỏi vùng đất tử thần” hoang địa!
Không phải nhờ đi đến các nông trại làng mạc mà đám đông được cứu sống… nhưng chính là nhờ ở lại với Đức Giêsu! Hỡi các tông đồ, các ông đã nhầm lẫn khi kiếm tìm giải pháp trong phạm vi nhân loại.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn. Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá… trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này”. Quả thực, có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy cho họ ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mười người một”. Các môn đệ làm y như vậy và cho mọi người ngả lưng xuống.
Ta không thể không ngạc nhiên, về những vai trò mà Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ thể hiện: thế nhưng chính Đức Giêsu sắp “ban bánh”… và nhóm Mười Hai sắp phân chia bánh. Trước hết, họ được trao cho trách liệm tổ chức đám đông ô họp thành “cộng đoàn” có cơ cấu. Họ được Đức Giêsu thiết lập như các “thừa tác viên”, nghĩa là những “người phục vụ”. Làm sao các cộng đoàn thời Luca lại không hiểu được ám chỉ đó! Trình thuật mang tính đồng quê trên đây chắc chắn hàm chứa nhiều màu sắc phụng vụ hơn chúng ta tưởng, nếu ta không dừng lại ở vẻ bề ngoài.
Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.
Hiển nhiên là những từ trên được Luca chọn lựa, để nhắc lại nghi thức phẩm trật và phụng tự của Thánh Thể. Diễn tiến bốn cử chỉ Thánh trên đây, cũng sẽ được Luca thuật lại trong bữa tiệc ly thứ Năm Thánh và trong bữa ăn tại làng Em-mau:
Tại hoang địa (Lc 9, 15) Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh…
Ngài chúc lành… bẻ ra… và trao ban…
Tại phòng Tiệc ly (Lc 22,19) Ngài cầm lấy bánh… dâng lời tạ ơn… bẻ ra… và trao ban…
Tại Em-mau (Lc 2430) Ngài cầm lấy bánh… dâng lời chúc tụng… bẻ ra… và trao cho họ…
Những lời trên không chắc chắn buộc chúng ta phải dừng lại trên lối giải thích, các Kitô hữu đầu tiên đã làm trước việc hóa bánh ra nhiều nổi tiếng mà các Tin Mừng không tường thuật cho ta ít hơn sáu câu đối chiếu (Mt 14, 13.21 và 15, 32.39 Mc 6, 30.40 và 8, 1.10 Lc 9, 10.17 Ga 6, 1,15). Khi linh mục, thừa tác viên phục vụ của Đức Giêsu lặp lại giữa chúng ta, trong cộng đoàn, bốn cử chỉ trên đây của Đức Giêsu, thì chính Người đang thực sự làm lại và: hiện diện giữa chúng ta. Thánh lễ có thể giúp ta, trong Đức tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, Đấng chiến thắng sự dữ và tử thần, do đó là Đấng cứu chuộc con người. Bánh được bẻ ra và trao ban, đó là dấu chỉ mà “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. “Bánh đó chính là bản thân của Đức Giêsu được trao ban cho ta… là chính con người nhiệm mầu, như hai đoạn văn liền kể trước sau với trình thuật hóa bánh ra nhiều gợi lên cho ta: “ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện lạ như thế? Hêrôđê tự hỏi (Lc 9, 7.9)… “Anh em bảo Thầy là ai?”. Đức Giêsu hỏi các bạn hữu, ngay khi Người làm phép lạ trên đây (Lc 9, 18.27). Nếu chúng ta không trả lời câu hỏi về căn tính của Đức Giêsu trên đây, thì “dấu chỉ bánh” vẫn còn giữ vẻ hời hợt bên ngoài.
Như thế có phải là các Kitô không cần quan tâm đến sự đói khát vật chất của mình không? Cộng đồng chủng người trẻ của Taizé trả lời rằng việc phụng thờ và công cuộc phát triển liên kết với nhau. Việc bạn chia sẻ cơm bánh, thái độ dấn thân để thay đổi xã hội, cử chỉ cho kẻ đói ăn, hành động phục vụ kẻ khác… những việc làm như thế rất quan trọng. Trước hết bạn hãy thực hiện những công tác đó! Nhưng bạn cũng đừng quên tôn thờ, gặp gỡ con người của Đức Giêsu Đấng cứu độ… Nếu không, bạn có thể làm thất vọng anh em mình về điều họ đang cần nhất. Họ là làm no thỏa cái bụng, họ cần sự thỏa mãn mà Thiên Chúa sẽ mang đến nếu bạn biết trao cho họ. Bởi vì, bánh hằng ngày của con người (không có gì tầm thường hơn là bánh!), cần phải trở nên Minh Thánh Đức Kitô. Không được phung phí bánh của con người. Một mầu nhiệm đang ẩn giấu ở đó.
Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
Không được vứt đi một mảnh nào của đời người, một miếng nào của tầm thường, một giây nào của mỗi ngày… từ khi Thiên Chúa đã nhập thể vào đó! Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn – chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Chúa để bánh này trở nên bánh tràng sinh nuôi dưỡng chúng con!
Nhưng chúng ta cũng biết rằng, lúc đó đám đông chưa hiểu gì. Họ muốn tôn Ngài làm vua, gán cho Người vai trò của Đấng Mêsia, theo quan điểm chính trị, đóng khung Người trong phạm vi nhân loại! Người đã không nhận. Người “lánh mặt đi lên núi” (Ga 6, 15) và “Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia” (Mc 6, 45).
Xin ban cho chúng con lương thực hằng ngày… lương thực này và lương thực kia!
[post-views]