CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN – A:
Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Ed 18, 25-28; Pl 2, 1-11; Mt 21, 28-32
——†——
MỤC LỤC
1. Trở lại
2. Thực thi ý Chúa
3. Ngôn hành như nhất – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Cải thiện cuộc sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
5. Dụ ngôn hai người con Chúa
6. Nói và làm – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Hối hận nên lại đi
9. Lời nói đi đôi với việc làm
10. Thái độ vâng phục – R. Veritas
11. Sẵn sàng tin
12. Tuân theo ý Chúa
13. Thánh ý Chúa
14. Nói làm
15. Không và có
16. Không và có
17. Có và không
18. Nó hối hận và đi làm – Lm. Nguyễn Tiến Huân
19. Suy niệm của JKN
20. Tôi khám phá ba điều khác lạ
21. Ngôn hành
22. Ghen tỵ – Lm. Nguyễn Ngọc Long
23. Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long
24. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
25. Suy niệm của Noel Quession
1. Trở lại
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo hai người con của mình đi làm vườn nho. Thực vậy, hình ảnh người cha này chính là hình ảnh Thiên Chúa của Đức Kitô, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Thiên Chúa mà các thượng tế đã giới thiệu cho người Do Thái.
Đúng thế, người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán, khác hẳn với hình ảnh Thiên Chúa do Đức Kitô mạc khải, là một người cha nhân từ và tha thứ. Ngay cả lệnh truyền của Ngài cũng chỉ là một lời mời gọi: Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha.
Thái độ của hai người con cũng trái ngược nhau một cách đặc biệt. Hình ảnh hai người con có lẽ đã diễn tả được tính chất mâu thuẫn của hai quan niệm biết Chúa và sống đạo.
Người con thứ nhất khẳng định tự do của mình bằng tiếng không với cha anh. Nhưng sau đó, anh đã suy nghĩ lại và đã quy thuận, đặt tự do của mình phục vụ lợi ích chung của gia đình qua việc thi hành ý muốn của cha. Có một sự giằng co trong chọn lựa của anh. Để thực thi ý muốn của cha, anh đã phải can đảm từ bỏ cách sử dụng tự do theo tính tự phát của cái tôi ích kỷ, của những sở thích, những dục vọng đi ngược lại với hạnh phúc chung của gia đình xã hội.
Trái lại người con thứ hai từ đầu đến cuối đã tỏ ra bất nhất, vô trách nhiệm đối với ích lợi chung và chỉ biết có mình. Câu trả lời của anh ta: Thưa cha vâng, thật ra chỉ là một câu nói hình thức, dửng dưng, máy móc nhằm mục đích đánh lừa người cha. Anh ta không yêu mến cha mình và do đó cũng tỏ rõ mình là người ích kỷ, không thể yêu thương bất cứ một ai khác. Vì tình yêu không ở trong những điệu bộ khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà phải đi vào hành động đi vào việc làm.
Trong thực tế, phần đông chúng ta đều cảm thấy khó mà thực thi ý Chúa bởi vì nó ngược với sở thích vị kỷ cá nhân của mình. Thái độ tránh né vốn là thái độ thường tình, nhất là khi gặp phải khổ đau và thử tháchy. Phải chấp nhận sự trăn trở, giằng co, chiến đấu với bản thân rồi mới nhìn ra thánh ý Chúa và can đảm thực hành. Giá trị cuộc đời chúng ta chủ yếu là nhờ sự phản tỉnh và quay trở lại cùng Chúa.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy còn đầy dẫy những chuyện bê bối, tiêu cực, chẳng hạn, vấn đề tham nhũng, trộm cắp và những tội phạm hình sự. Có lúc ở rất gần chúng ta, ngay bên trong giáo xứ và biết đâu, ngay bên trong bản thân chúng ta. Thử hỏi chúng ta phải làm gì? khoanh tay lên án theo kiểu Pharisêu hay kiên trì hành động, làm cho tình trạng nói không với Chúa, trở thành tình trạng nói có với Chúa, bằng một lòng xác tín vào tình thương tha thứ của Ngài. Bởi vì Ngài luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Ngài. [Mục Lục]
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do. Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.
Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm. Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh. Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy. Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật. Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vị phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài. Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa. Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy. Họ là những người đã được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống. Họ là người đàn bà xứ Samaria, đã gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu, được Chúa viếng thăm; là bà Maria, đã xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải. Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.
Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó. Chẳng hạn vốn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái đã là chúng ta đã xác tín. Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi. [Mục Lục]
3. Ngôn hành như nhất – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia – Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là "cười ra nước mắt".
Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: "Thương con cho roi cho vọt".
Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.
Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: "Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo". Bà Ar-gut còn viết tiếp:
"Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi".
Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.
Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ.
Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: "Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ". Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng "ngôn hành bất nhất", khiến con cái học đòi tính "nói một đàng làm một lẻo", thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.
Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện "ba phải", dạ vâng rồi lại không làm.
Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo "nhưng tin có Chúa ở trên cao". Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng "Ông Trời có mắt".
Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.
Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo…
Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: "không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết "ngôn hành như nhất" để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen. [Mục Lục]
4. Cải thiện cuộc sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.
Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: "Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha". Nó ương ngạnh trả lời: "Không! Con không đi!". Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: "Con sẽ đi!", nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.
Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông", Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.
Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.
* Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.
Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.
Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?
Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.
Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy. [Mục Lục]
Trích: http://www.tgpsaigon.net
Suy niệm:
Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài trong Chúa Nhật hôm nay vẫn là vườn nho. Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho, nghĩa là nước trời, Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại. Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm, thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi, yếu đuối. Người cha một hôm nói với đứa con cả: "Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé". Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.
Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói "không", nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình. Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha "vâng, con sẽ đi". Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa "vâng" để nhằm mập mờ đánh lận con đen. Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt, con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: "Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa". Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.
Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi. Chúa Giêsu đã nói: "Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những kẻ ốm đau". Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ, kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang, tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bày đặt để bắt buộc người khác làm, thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói: một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Áo thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn… Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn.
- Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là "Vâng" và "Không". Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói "vâng" mà không làm đâu có giá trị bằng nói "không" mà lại làm.
- Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
- Con người chúng ta có thể thay đổi từ "vâng" sang "không" và từ "không" sang "vâng". Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói "không" với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại "xin vâng"; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa "xin vâng" thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành "không".
- Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói "không" với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa "xin vâng". Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn mời gọi chúng con làm vườn nho cho Chúa. Chúa muốn chúng con bước vào mối thân tình với Chúa trong những chia sẻ bổn phận của Cha như của con. Nhưng chúng con hoặc vì chưa cảm nghiệm được sự cao quý, hoặc chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm. Đã nhiều lần chúng con từ chối. Chúng con ngại nói lời xin vâng vì sợ thiệt thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen. [Mục Lục]
6. Nói và làm – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).
Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.
Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.
Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.
Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?
“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).
Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).
Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.
“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).
Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.
“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).
“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy." (Ga 14,6)
Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.
Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!
Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).
Đúng theo “Thánh ý Chúa”.
Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. – “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).
Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta". (Mc.3,31-35).
“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.
Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.
Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…
Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…
Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).
Đừng noi theo những hành vi của họ!
Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).
Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: – “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: – “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng… rất có ý nghĩa!
Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: – “Âu cũng là số phận!”.
Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!
Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ."
“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.
Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.
Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.
Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.
Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.
"Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời" (Mt 7,21).
Lạy Chúa,
Lời Chúa dạy quá cao siêu,
Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!
Xin tha thứ những điều con thiếu,
Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen. [Mục Lục]
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM
Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.
Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.
Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.
Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?
2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?
3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách? [Mục Lục]
8. Hối hận nên lại đi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông."
Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.
Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?
Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.
Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.
Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.
Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.
Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.
Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.
Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.
"Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?"
"Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến"
Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).
Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.
Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.
Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.
Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.
Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).
Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: "Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy" (Mt 7,21).
Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?
Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. [Mục Lục]
9. Lời nói đi đôi với việc làm
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:
Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.
Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.
Thưa anh chị em,
Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.
Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời. [Mục Lục]
10. Thái độ vâng phục – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.
Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về "Cuộc Đời Của Mình", Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:
Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.
Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.
Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.
Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".
Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính. [Mục Lục]
1) Ý nghĩa thứ nhất của dụ ngôn:
Do Thái và lương dân đều có những thái độ khác nhau, giống như thái độ của hai anh em đề cập trong dụ ngôn. Những người trước nài xin vâng rồi bỏ đi, và giờ quyết định họ sẽ bị kết án. Còn lương dân bị gạt bỏ, sau tìm thấy đường về với nước Chúa. Lối giải thích phổ biến này có vẻ hữu lý, nhưng chưa đi vào điểm cốt yếu. Không thể quả quyết về lương dân rằng họ đã từ chối từ nguyên tắc. Nói chung, thái độ của những người đại diện ưu tú của họ chứng tỏ rằng, họ là những người đang tìm hiểu và nhận biết đấng thần linh là lẽ sống của họ. Nhưng theo lời chú giải riêng của Đức Kitô, Ngài đã hướng dụ ngôn này theo một ý nghĩa khác.
Có những nhà chú giải thấy ở đó sự giải thích về tương quan giữa lý thuyết và thực tế. Bản văn tin mừng chỉ có những người trong lý thuyết không chấp nhận, nhưng lại chấp nhận trên thực tế. Song giải thích này cũng bất toàn, vì lời chối từ của người đầu tiên không dựa trên những nhận định lý thuyết mà phát sinh từ một tâm tính cục cằn và bất nhã. Những người khác thấy trong dụ ngôn của Chúa sự đối lập giữa thực tại và vẻ bên ngoài. Người con thứ hai hình như vâng lời, nhưng thực tế lại bất phục. Trong lúc người có một tâm hồn tốt đẹp, nhưng bên ngoài lại khó thương. Lối giải thích này cũng vô ích nếu ta đào sâu bản văn, vì yếu tố cốt yếu không phải là tình trạng cố hữu, cũng không phải là thái độ trung thực núp trong vẻ bên ngoài giả dối. Yếu tố cốt yếu chính là sự hoán cải tình cảm, chính là một ý hướng canh tân, một tình trạng cải hóa của con người: nghĩa là hối hận về một thái độ sai lạc và sau khi đã ý thức, họ ước muốn thay đổi. Đây là điều thấy hiện rõ trong lời Chúa: “Rồi sau anh hối hận và đi làm”.
Theo lời quả quyết của Chúa Giêsu, dụ ngôn này nói về những điểm khác nha giữa những người biệt phái và luật sĩ, những người thu thuế và những kẻ khác, những người lãnh đạo tinh thần của Israel sống mãi trong một thái độ vị kỷ, làm họ xa Thiên Chúa. Chỉ biết chấp nhận lời Chúa, họ trung thành với Môisen, với đức tin, và với những đòi hỏi, như đứa con thứ nhất trung thành với ý cha. Còn khi những giới luật Thiên Chúa không còn đáp ứng với những nguyện vọng cá nhân của họ, họ không còn tha thiết nữa. Qua việc làm của Gioan Tẩy giả xưa, Chúa đòi hỏi việc thống hối, kêu gọi hoán cải tâm hồn và cuộc sống, thì họ không lo gì đến. Còn những người phần thu có lẽ đã lầm lạc, có lẽ hành động trái với thiên ý, nhưng khi họ nghe thấy tiếng gọi của Chúa Giêsu, họ hối cải và đạt tới nước Chúa. Trung thành đích thực nghĩa là sẵn sàng trả lời tiếng gọi của Chúa. Người ta không thể tự khép mình mãi trong một hình thức cuộc sống, vì họ phải thay đổi ngay nếu tiếng gọi từ cao đòi hỏi. “Các ông đã không thống hối để tin vào Gioan tẩy giả”. Đó là lời mắng trách mà Chúa Giêsu nêu ra cho bọn Biệt Phái.
2) Ý nghĩa thứ hai của dụ ngôn.
Những chú giải khác đem tới kết luận khác nhau. Một lối chú giải sai lạc chỉ nêu cao ý nghĩa lịch sử. Dụ ngôn được áp dụng theo dự phóng của thời đại cho thái độ khác nhau của Do Thái và lương dân, biệt phái và phần thu. Lối giải thích lịch sử đó khá xa xôi với đòi hỏi quan trọng nhất. Vì như thế, dụ ngôn chỉ áp dụng cho kẻ khác chứ không cho chính mình.
Dụ ngôn có một ý nghĩa khác nếu ta thấy trong đó có một đòi hỏi phải sẵn sàng tin tưởng. Trong trường hợp này, con người cảm thấy tâm hồn bị khích động rồi nhận ra một đòi hỏi khắt khe rằng: cần phải thuộc về Giáo Hội và phê bình những ai ở ngoài Giáo Hội, rồi sẽ ngoan cố bịt tai không chịu nghe thấy tiếng gọi của Ngài. Vô tình người ta tự cho mình đang đi đúng đường và sống trong tình trạng thiện hảo. Lòng tự tin sai lạc này biến thành cảm giác tự mãn: trong lúc kết án Biệt phái thì người ta lại trở nên giống họ! Ở đây trái lại, Đức Kitô mạnh mẽ mời gọi những ai nghe theo tiếng Ngài phải thống hối, biến đổi, sẵn sàng thay đổi hay hoán cải cuộc sống theo lệnh Thiên Chúa. Thái độ chính đáng duy nhất là tâm hồn sẵn sàng đón nhận đức tin, luôn luôn chú ý nghe và vâng lời, không tự ý điều hòa cuộc sống, nhưng đặt tất cả trong bàn tay Thiên Chúa. Những người có tín ngưỡng giữ đạo theo vẻ bên ngoài, với thời gian sẽ không được chấp nhận vào nước Chúa. Những kẻ khác, bề ngoài có vẻ theo một đường xấu, nhưng trong thâm tâm nhận biết sự sai lạc của tâm hồn mình rồi hoán cải, chính họ sẽ được cứu rỗi. Vậy dụ ngôn này đề phòng chống lại thái độ cứng lòng trong tâm hồn, sự kiêu hãnh tôn giáo, sự an bình giả tạo bên trong và đòi hỏi chúng ta phải nghe Thiên Chúa để theo tiếng gọi của Ngài. Con người phải hoán cải và để cho người ta hoán cải không ngừng, bởi vì từ một thái độ sai lạc, họ sẽ lầm lạc vào đường xấu. Cho dù bên ngoài, tất cả xem ra tốt đẹp. Thật là kỳ cục khi thấy Chúa Giêsu yêu thích những kẻ phần thu hơn những bọn Biệt Phái và Luật sĩ. Hẳn thái độ đó phải là dịp tội cho Do Thái. Nhưng sở dĩ như thế, vì Chúa Giêsu thấu suốt thâm tâm nhân loại. Một tội nhân ý thức về tội tính của mình và hối cải khi được ơn sủng đánh động, còn giá trị hơn một người mộ đạo chỉ muốn sống trong vẻ đạo đức của mình, và vì kiêu ngạo không nghe thấy tiếng gọi siêu nhiên. Hiểu như thế, dụ ngôn bày tỏ sự nghiêm trọng và thái độ cứng rắn đặc biệt đối với những ai ở bên trong. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả trá và thái độ bất mãn ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, thì đó là thái độ đáng thương hại. Vì thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lý. Con người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn sàng hối cải cách trung thực nhất. Đó là điều mà dụ ngôn này bàn tới. [Mục Lục]
Có một ông công chức, khi về hưu, đã mua mấy mẫu đất ở miền quê để làm một thửa vườn rộng. Thế nhưng, ông thấy mình không thể đảm đương hết mọi công việc, nên ông đã đi thuê người giúp việc.
Đầu tiên, một chàng thanh niên tới và ông đã hỏi:
- Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
- Tôi có biết chút ít.
Ông ta chỉ dẫn cho anh:
- Anh hãy lấy những hạt giống này, ngâm vào nước âm ấm cho qua một đêm, rồi mới đem gieo trồng.
Thế nhưng anh đã phản đối và cho rằng đó không phải là một cách thức tốt.
Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác đến xin việc, ông ta cũng hỏi:
- Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
- Tôi không biết nhưng rất vui lòng được học.
Ông ta cũng chỉ cho anh cách ươm cây và anh đã vâng theo làm như vậy. Cuối cùng ông ta cắt nghĩa:
- Đây là giống bạch đàn không dễ gieo trồng. Nếu không ngâm vào nước ấm trong một đêm thì hạt sẽ khó mà nẩy mầm.
Và chàng thanh niên đã thú nhận:
- Tôi không biết lý do nhưng tôi nghĩ rằng ông có kinh nghiệm hơn tôi nên ông bảo sao thì tôi làm như vậy.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Một số người có quyền và có bổn phận bảo cho người khác điều phải làm. Chẳng hạn người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, có quyền và có bổn phận đó. Còn hai người con của ông tiêu biểu cho chúng ta, là những người có bổn phận phải làm, phải thi hành, phải vâng theo.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, luôn có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống. Chẳng hạn như nơi gia đình, trường học, nhà máy, chính quyền và có khi ngay cả nơi Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa.
Riêng với chúng ta, những người có bổn phận phải vâng nghe, chúng ta hãy coi những người ra lệnh hay chỉ dẫn là những người có khả năng và hiểu biết hơn chúng ta. Nhất là đối với cha mẹ trong gia đình.
Như chúng ta cũng đã thấy cha mẹ là những người thay mặt Chúa để nuôi dưỡng giáo dục chúng ta, vì thế dưới một góc độ nào đó, thì vâng lời cha mẹ cũng chính là vâng lời Chúa. Nhờ lời chỉ bảo và hướng dẫn của các ngài, chúng ta sẽ trở nên những con người tốt lành như ca dao đã bảo:
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Qua câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, người con thứ nhất nói là mình không đi làm, nhưng sau anh đã nghĩ lại và đã vâng theo lệnh cha. Còn người con thứ hai nói làmình sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Thật là tuyệt vời nếu như có người con thứ ba nói rằng: Con sẽ làm hay con sẽ cố gắng làm và thực tế là anh đã chu toàn công việc người cha trao phó.
Chính Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta bởi vì Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết chu toàn thánh ý Chúa, nhất là khi thánh ý ấy được biểu lộ qua những lời chỉ dạy và hướng dẫn của cha mẹ, của những người bề trên chúng ta hay không? [Mục Lục]
Với lời mời gọi: Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha, chúng ta cùng nhau xét lại thái độ của chúng ta đối với thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta.
Rất có thể khi nghe biết được lời mời gọi ấy, chúng ta đã mau mắn xin vâng, nhưng rồi sau đó lại chẳng hề làm điều Chúa truyền dạy. Chúng ta chỉ nói mà không làm, chỉ ước muôn mà không dám chấp nhận mạo hiểm và dấn thân. Đó là trường hợp của người con thứ trong dụ ngôn, tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục.
Cũng có thể là khi nghe biết được lời mời gọi của Chúa, chúng ta đã từ chối, nhưng rồi sau đó chúng ta hối hận, nên đã đi làm. Đó là trường hợp của người con trưởng, tượng trưng cho những kẻ thu thuế và gái điếm.
Khi so sánh các thượng tế và kỳ mục cới những kẻ thu thuế và gái điếm, mà chân lý lại thuộc vào hạng người thứ hai này, thì rõ ràng cuộc đấu tranh giữa Chúa Giêsu và giai cấp lãnh đạo tôn giáo thời báy giờ đã đi tới chỗ quyết liệt.
Qua đó chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu rất ghét sự giả hình của những kẻ nói mà không làm: họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hay làm ngược lại những gì mình đã nói: họ nói vậy mà không phải vậy đâu. Đồng thời Ngài luôn yêu thích sự thành thật của những người làm theo ý muốn Chúa Cha..
Đây không phải là lần thứ nhất Chúa Giêsu để cao giá trị của việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ngài cũng đã từng khẳng định:
- Không phải những ai nói rằng lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, chỉ những ai chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời, thì mới được vào mà thôi.
Các thượng tế và kỳ lão đã làm rất nhiều việc, nào là cầu kinh, nào là dâng tiến lễ vật, nào là chăm sóc và hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa, không thể trách cứ họ được điều gì trong việc tuân giữ lề luật. Về phương diện này, họ là những mẫu gương sáng chói.
Thế nhưng, họ có thực sự làm những việc ấy vì Chúa và cho Chúa không? Các việc ấy có giúp họ tìm kiếm và thức thi thánh ý Chúa không? Hay chỉ giúp họ tìm kiếm chính mình, tạo cho họ niềm tin vào công đức của mình mà chểnh mảng với những đòi hỏi của lời Chúa, đó là sám hối và tin vào Phúc Âm, đó là thực thi những lệnh truyền của Tin mừng.
Họ có thể trung thành với mọi hình thức tôn giáo, nhưng lại không làm theo ý muốn của Chúa. Do đó, truớc mặt Chúa, họ chẳng làm được việc gì.
Trái lại, kẻ thu thuế và gái điếm, khi đã tin nhận Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Ngài mà trở về cùng Thiên Chúa, thì họ thực sự là những người đã làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Hậu quả là họ sẽ được vào Nước Trời trước những vị kia.
Với chúng ta thì sao? Ngày hôm nay, Chúa muốn nói gì với tôi và tôi phải làm gì để đáp trả lời mời gọi của Chúa?
Như những người đi rừng phải chú ý tới những tiếng động hết sức nhỏ, nhờ đó biết được sự có mặt của một người hay một vật nào khác. Cũng vậy, tôi phải chú ý tới những tín hiệu rất nhỏ mà Chúa gửi đến qua những người tôi gặp gỡ, qua những biến cố xảy ra chung quanh tôi.
Tôi tìm dấu chân Ngài và tôi lắng nghe tiếng nói của Ngài trong những sự việc rất tần thường của cuộc sống. Tôi không cần phải lìa bỏ thế gian để đi tìm kiến Chúa, bởi vì Ngài có mặt ở đó, ngay giừa lòng cuộc đời chúng ta.
Người không đòi hỏi tôi phải làm những công việc rạng rỡ. Như các thượng tế và kỳ mục, có thể tôi đã làm rất nhiều, nhưng lại bỏ qua một việc chính yếu, đó là thực thi công bằng bác ái.
Như thánh nữ Têrêsa, tôi muốn đi trên con đường nhỏ, tôi muốn làm những công việc tầm thường một cách phi thường vì lòng yêu mến Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở thành những con én, góp phần làm nên mùa xuân của Giáo Hội, hay trở thành những Têrêsa nhỏ, làm mưa hoa hồng xuống cho nhân loại. [Mục Lục]
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pharisêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pharisêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pharisêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi được Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng dựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì lấy gì minh chứng cho sự hiểu biết ấy? Biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗ trợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xã hội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn cần phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là “chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao? [Mục Lục]
Một chàng thanh niên đang đi kiếm mấy món hàng cần dùng trong siêu thị, anh để ý thấy một bà cụ cứ chăm chú nhìn mình. Thoạt tiên, anh phớt lờ, nghĩ rằng chẳng có gì và tiếp tục đi kiếm hàng. Khi anh đến quầy tính tiền, lại gặp bà cụ đang đứng ở đó. Anh lịch sự nhường cho bà đứng xếp hàng phía trước anh. “Xin cậu thứ lỗi”, bà nói, “Tôi thành thật xin lỗi đã nhìn chăm chú vào cậu, vì trông cậu rất giống người con trai của tôi vừa mới qua đời”. Động lòng trước bà cụ đáng thương, chàng thanh niên nói: “Thật đáng tiếc, má à. Con có thể làm được gì để giúp má không”? Bà cụ mỉm cười trả lời: “Cậu biết cái gì làm cho má cảm thấy an ủi hơn không? Con trai của má thường đi sắm đồ chung với má. Khi má ra về, cậu ấy thường nói: “Tạm biệt, Má”, Cậu có thể nói như vậy giống như con trai của má đang đứng ở đây với má thêm một lần nữa được không?” – “Được chứ, con rất vui vẻ nói mà, đâu có sao!” chàng thanh niên đơn sơ trả lời.
Sau khi gom tất cả mọi món đồ từ quầy tính tiền đặt vào bao, bà cụ ra về. Chàng thanh niên lớn tiếng chào, “Tạm biệt, Má!” Bà cụ mỉm cười, quay lại vẫy tay từ biệt. Rồi chàng thanh niên lấy những món đồ đã chọn từ trong giỏ để lên quầy tính tiền. Cô thâu ngân tính toán, rồi đưa hóa đơn cho anh. Tổng cộng là 140 đôla. Chàng thanh niên giật mình: “Xin lỗi cô, cái hoá đơn đâu có đúng. Tôi chỉ mua có vài món hàng. Nó chưa đến 25 đôla”. Cô thâu ngân liền đáp: “Má của anh đã nói với tôi rằng anh sẽ trả cho bà mà”. Chàng thanh niên lịch sự đã không biết đến những khía cạnh phức tạp, đen tối của trái tim con người. Ngay cả những người già cũng có thể lừa đảo bằng những lời gian dối quanh co!
Con người là tạo vật phức tạp. Phức tạp trong trái tim. Phức tạp trong đời sống. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói lên sự phức tạp trong trái tim con người qua dụ ngôn hai người con. Người cha thương lượng với hai anh em về việc đi làm trong vườn nho. Một người từ chối không đi làm, nhưng đã đi. Người kia chấp nhận đi làm, nhưng lại không đi!
Trong cuốn “The Cultural World of Jesus”, John J. Pilch nói rằng một nhà truyền giáo ở Trung Đông đã thường dùng dụ ngôn hai người con để chia sẻ Phúc Âm với những người dân làng nơi ông đến thăm viếng, và hỏi họ: “Người con nào tốt hơn?” Đại đa số đã trả lời người con thứ hai thưa vâng nhưng đã không đi làm vườn nho là người con tốt hơn. Sự trả lời của người con này đã làm vinh danh và kính trọng người cha. Đây là điều người cha muốn được nghe. Đối với người Trung Đông, danh giá là chủ yếu, còn việc người con có đi làm hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc.
John Pilch nói tiếp: “Hãy nhớ rằng đời sống ở Trung Đông là đời sống cộng đồng. Giá trị chủ yếu của nền văn hoá này là danh giá cần phải được công bố công khai. Câu chuyện đối thoại giữa người cha và hai người con trong dụ ngôn này không xảy ra ở nơi riêng tư, nhưng ở nơi công cộng, dưới sự quan sát và lắng nghe của nhiều người trong làng. Giống như con cháu của họ ngày nay, những người dân làng Trung Đông trong dụ ngôn ưa thích người con biết kính trọng người cha mặc dù không vâng lời hơn là người con bất kính nhưng vâng lời”.
Trong nền văn hoá Trung Đông, đối với John Pilch, danh dự của người cha được quần chúng xác nhận qua lời tuyên bố công khai của con cái. Người con thưa vâng đã trả lời một cách kính trọng, và trong sự phán đoán của quần chúng, lệnh của người cha có giá trị, danh dự của ông được bảo vệ. Ngược lại, người con thưa không đã phỉ báng và công khai hạ nhục uy tín của người cha. Nhưng John Pilch cũng xin lưu ý ở điểm này: “Chúa Giêsu đã không hỏi người con nào thể hiện danh giá của người cha? Người hỏi: “Người con nào đã làm theo ý muốn của người cha?” Những người Trung Đông hiện đại cũng chấp nhận phán đoán của khán giả lắng nghe lời Chúa: “Người con thứ nhất”, là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Họ nhìn nhận tầm quan trọng của sự vâng lời, nhưng cũng coi trọng cả danh dự nữa”.
Sự phức tạp trong dụ ngôn này là điều rắc rối trong trái tim của con người. Người con thứ nhất thật lòng không muốn đi, thưa không, nhưng nghĩ lại đã ân hận vì làm sỉ nhục danh giá của cha, đành đổi ý, ra đi làm việc. Còn người con thứ hai chỉ muốn giữ danh giá bề ngoài cho cha, thưa vâng cho qua chuyện, rồi không giữ lời hứa. Hứa bằng lời nói thôi cũng chưa đủ, phải có hành động cụ thể. [Mục Lục]
16. Không và có
Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi”. Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:
1. Thưa không với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm: Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói không với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa.
Thánh Phaolô là một gương sáng. Khi Phaolô mới nghe biết về Chúa Kitô, về Phúc Âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolô hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và huỷ diệt Phúc Âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường đi Damascus. Phaolô đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolô đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.
2. Thưa vâng với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã không đi làm: Theo John Pilch, các thầy thượng tế và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan tẩy giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống.
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus, có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsrerdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng… một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này? Những người liên can đến vụ này là ai?…, Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh?”
3. Nhất quyết thưa không với Thiên Chúa:
Đây là loại người có thái độ cương quyết nói không với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.
4. “Con Người” luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa:
Con Người luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta.
Người đã được thánh Phaolô diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho nước trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “thưa vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời. [Mục Lục]
Một em bé ba tuổi cả ngày nghịch ngợm không ngoan ngoãn nên bà mẹ phạt bé phải đi ngủ sớm. Chú bé bỏ vào phòng không một lời phản đối, nhưng chỉ ít phút sau, chú ta đi ra với một con thú nhồi bông, con heo đất và một ít quần áo… Thằng bé nói: "Con bỏ nhà đi đây". Ba nó hỏi: "Vậy thì con làm gì khi bị đói?" "Con sẽ về nhà để ăn". "Ồ, vậy khi hết tiền rồi con làm gì?" "Thì con về nhà xin thêm". "Vậy quần áo bẩn hết rồi con làm sao?" "Con mang về cho mẹ giặt". Nhiều người cũng vội nói, vội quyết định hoặc nói mà không làm theo đường lối của mình.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn rất dễ hiểu. Đó là câu chuyện hai người con làm vườn nho cho cha. Một người trong họ hứa đi, nhưng thay đổi không đi; còn người kia nói không đi, nhưng thay đổi ý định của mình nên đi làm. Chúa Giêsu hỏi: "Các con nghĩ sao? Ai là người làm theo ý người cha?" (Mt 21,28,31). Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng có thể trả lời được là người con đã thay đổi ý định của mình nói không đi rồi đi làm vườn nho cho người cha.
Những người lãnh tụ tôn giáo là những người Chúa Giêsu đã hỏi họ và họ cũng biết họ khó mà chấp nhận những giáo lý của Chúa Giêsu, vì họ khó thay đổi cõi lòng để làm theo ý Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giêsu đã phải thốt nên: "Thật ta bảo thật cho các ngươi biết những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi." (Mt 21,31) Tại sao? Bởi vì những người lãnh tụ tôn giáo tự cho mình luôn luôn đúng, không sai lầm bao giờ nên họ không cần thay đổi và tin ai khác. Nói cách khác là họ sẽ không bao giờ để Chúa thay đổi họ. Còn những người thu thuế, cao bồi du đãng và gái ăn chơi, họ nhận ra những gì họ cần phải thay đổi để sống tốt hơn trong mỗi ngày sống của họ.
Đây cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta, vì nhiều lúc chúng ta cũng trở nên những người tự mãn. Như tự cho mình là người Kitô hữu ngoan đạo, là người biết những gì Chúa mong đợi. Chúng ta cũng dễ dàng rơi vào tình trạng là Chúa không còn gì để nói với chúng ta nữa. Và rồi chúng ta nhìn thấy mình giống như những người tự cho mình là người công chính, thượng tế và luật sĩ trong bài Phúc Ân hôm nay.
Có người biết tất cả mọi câu trả lời về mọi khía cạnh về thần học. Nhớ hết đoạn nào, câu nào trong Thánh Kinh, và tất cả những bài Thánh Vịnh một cách thuộc lòng và có thể viết lại tất cả những bài nguyện kinh ban sáng, trưa và tối không khó khăn chút nào. Nhưng chưa đủ, họ mới chỉ có nói. Họ cần thi hành Thánh ý Chúa Cha, cần đi làm vườn nho của Ngài. Sự cản trở lớn nhất cho việc Nước Chúa đến là do chính những người chỉ chuyên môn chúc tụng Chúa bằng môi miệng, nhưng không thực hành qua việc làm. Nếu chỉ bằng lời nói có thể cứu được nhân loại thì trần gian này chính là thiên đàng. Rất nhiều Kitô hữu chỉ sống đạo bằng những lời hay, tiếng tốt hơn là thi hành những điều mình nói, hoặc chỉ muốn bàn luận thật hay, nhưng không thấy hành động.
Lời Chúa chỉ có thể ăn sâu trong tâm hồn chúng ta, không phải qua những lời chúng ta nói, nhưng qua những cách thức chúng ta sống hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những gì không tốt chúng ta thường có thói hay kêu lớn tiếng. Có như thế chúng ta mới cảm thấy những gì chúng ta cần thiết để thay đổi để chúng ta có thể đến gần Chúa hơn và xa tránh những gì làm cho chúng ta xa Chúa. Những người cảm thấy mình không cần thay đổi lại chính là những người cần phải sửa đổi nhiều nhất.
Thời đại mà chúng ta đang sống được gọi bằng nhiều tên gọi. -t năm trước đây, một triết gia cho rằng thời đại chúng ta là thời đại "có và không." Triết gia đó viết như sau: "Đây là thời đại của sự lưỡng lự, không quyết định. Vì câu trả lời của chúng ta thường nằm trong lãnh vực giữa có và không. Vả lại, chiều hướng câu trả lời của chúng ta cũng nằm giữa sự khả quyết và không khả quyết.
Trong Chúa Giêsu không có vấn đề "vâng và không". Nhưng trong Ngài luôn luôn là tiếng "xin vâng". Trong đền thánh, lúc 12 tuổi Ngài đã thưa "Vâng": Ta phải thi hành công việc của Cha Ta. Sự cám dỗ trong sa mạc: "Ta phải thực hiện ý muốn mà Đấng đã sai Ta." Giảng dạy tại Nararet: "Ta phải rao giảng sự công chính và tha thứ, cho dù họ muốn giết Ta." Trong vườn Giêtsemani: "Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha." Trên đồi Canvê: "Xin tha cho chúng, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha."
"Vâng" lạy Chúa! Ý Chúa sẽ được thực hiện trên trần gian. Nhưng do ai? Do chúng con chăng? "Vâng," Lạy Chúa; chúng con phải thi hành thánh ý Chúa! "Vâng" lạy Chúa, chúng con phải "đi và làm vườn nho Chúa ngay hôn nay." "Vâng," lạy Chúa, chúng con phải thi hành điều Chúa dạy hơn là chúng con kêu lớn tiếng, để đáp lại điều mà Chúa dạy cho chúng con, nghĩa là chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. [Mục Lục]
18. Nó hối hận và đi làm – Lm. Nguyễn Tiến Huân
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lão Do thái: "Ai trong hai người con đó đã làm theo ý cha mình" và họ đáp "người con thứ nhất" (Mt 21,31).
Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: "Tôi bảo thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là "những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người" (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: "Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha" (Mt 7,21)
Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt, nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đã ca thán: "Tại sao các ngươi kêu với Ta "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?" (Lc 6,46).
Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài thì họ kính nể Gioan bởi nếu không, thì sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong lòng thì không tin ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội lỗi, thì như người con thứ nhất, biêt "hối hận và đi làm" (Mt 21,29)
Thực vậy, khi Gioan rao giảng thì những người thu thuế đã thống hối xin chịu thanh tẩy và còn hỏi cho biết việc phải làm: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" (Lc 3,12) "Họ đã chấp nhận Thiên Chúa công minh, còn Biệt phái và Luật sĩ đã khinh màng ý Chúa" (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, thì ngược hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ "Đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội". (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà "bố thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai thì đền gấp bốn".
Còn những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đã biết thống hối cải thiện đời sống theo ý Chúa muốn: "Họ đã tin Người. Còn các ông (Biệt phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người". (Mt 21,32).
"Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác thì nó phải chết: chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi và thực thi công chính thì nó sẽ được sống" (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo của chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ý Chúa để đáng là đức con hiếu thảo tận tình của Chúa. [Mục Lục]
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi giải quyết những vấn đề quan trọng, việc phân biệt điều chính điều phụ có quan trọng không? Còn trong việc nên thánh, việc giữ đạo, việc vào nước Trời thì sao? Điều nào là điều quan trọng nhất để nên thánh?
2. Đối với Đức Giêsu, thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện và sống yêu thương, việc nào quan trọng nhất? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?
CHIA SẺ
1. Cần phân định chính phụ trong việc sống đạo để nên thánh
Trên đời, biết bao người cùng nhắm một mục đích, nhưng đạt được mục đích lại chẳng mấy người! Lý do: người ta không biết điều nào chính, điều nào phụ. Vì thế, họ cứ làm những cái phụ thuộc, chẳng cần thiết hoặc ích lợi gì cho mục đích. Việc nên thánh, nên hoàn hảo cũng vậy. Biết bao Ki-tô hữu lấy việc nên thánh, nên hoàn hảo làm lý tưởng cho cả cuộc đời mình, nhưng họ chẳng đi tới đâu. Họ có một cuốn Kinh Thánh chỉ cho họ đầy đủ con đường để nên hoàn hảo, nhưng họ lại không chịu đọc để xem cái cốt yếu hầu nên hoàn hảo là gì. Họ chỉ nghe người này nói thế này người kia nói thế nọ để bắt chước. Cuối cùng họ chẳng đạt được gì.
Nên thánh là việc chính yếu và quan trọng nhất của đời sống Ki-tô hữu. Vì thế, thiết tưởng người Ki-tô hữu cần nắm thật vững điều nào chính yếu và điều nào phụ thuộc trong việc sống đạo của mình. Nếu không, họ giống như một người muốn nấu cơm, mà lại cứ dùng cát để nấu: dù có nấu muôn đời cũng chẳng thành.
2. Những người dẫn đường mù quáng
Theo thánh Mát-thêu thì bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với “các thượng tế và kỳ mục trong dân” (Mt 21,23), tức những bậc thầy về tâm linh cho các tín hữu Do Thái giáo. Điều thật bất ngờ đối với chúng ta là Đức Giêsu dám nói thẳng vào mặt họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Những người thu thuế và các cô gái điếm vốn là những người bị những bậc “đạo sư” Do Thái ấy coi thường và loại bỏ ngay từ đầu ra khỏi “Nước Thiên Chúa” theo quan niệm của họ. Lúc nào họ cũng chắc mẩm rằng họ là đối tượng ưu tiên của Nước Trời. Vì thế, câu Đức Giêsu nói làm cho họ bật ngửa. Điều thật mỉa mai là: họ là những bậc thầy chỉ dẫn người ta vào Nước Trời, thế mà chính họ lại được vào đấy sau cả bọn đĩ điếm. Lý do: họ là “những kẻ dẫn đường mù quáng” Mt 23,16), “là những người mù dắt người mù” (Mt 15,14).
Tại sao? Vì họ chuyên quan trọng hóa những điều phụ thuộc, còn những điều chính yếu và quan trọng nhất thì họ không thèm để ý tới. Đức Giêsu nói về họ: “Các người bảo: Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?” (Mt 23,16-22); “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật” (Mt 23,23).
Rút kinh nghiệm quá khứ, thiết tưởng để nên thánh, chúng ta nên đọc kỹ Kinh Thánh để nghe chính Đức Giêsu chỉ dẫn cho những điều cốt yếu, và nên dựa trên những gì mà bản thân chúng ta xét thấy hợp lý. Đừng thuần túy dựa vào ý kiến hay chỉ dẫn của người khác.
3. Đức Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết để nên thánh
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta bí quyết hay điều cốt yếu phải làm để nên thánh qua dụ ngôn hai người con: một người nói mình sẽ làm theo ý cha mình, nhưng lại không làm, còn người kia không nói mà làm. Người không nói mà làm mới là kẻ làm đẹp lòng Cha. Rất nhiều chỗ trong Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết điều chính yếu để nên thánh là thực hiện thánh ý của Thiên Chúa. Thiết tưởng đoạn sau đây là rõ ràng nhất: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng:"Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?" Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: "Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!" Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đa” (Mt 7,21-27).
Tóm lại, điều chính yếu nhất để nên thánh và để vào nước Thiên Chúa chính là vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tức thực hành những điều Đức Giêsu dạy. Vậy, chúng ta cần phải nắm thật vững thánh ý Thiên Chúa là gì, hay Đức Giêsu dạy ta điều gì? Hãy nghiêm túc đặt lại vấn đề này một lần cho cả cuộc đời để đi cho đúng đường, và đạt được mục đích của mình là nên thánh. Nếu không, coi chừng kẻo chúng ta giữ đạo cả cuộc đời mà vẫn “sôi hỏng bỏng không”, hay như “dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”, chỉ vì điều quan trọng nhất thì ta coi thường, còn điều phụ thuộc thì chúng ta lại coi là tối quan trọng.
Đọc toàn bộ Tin Mừng, tôi thấy điều quan trọng nhất mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Ngay câu kế tiếp, Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của nó: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13.35). Ngoài điểm chính ấy, thì tất cả những điều khác, đều là phụ thuộc, và những điều phụ thuộc này dù quan trọng tới đâu thì cũng chỉ là quan trọng hàng thứ yếu. Chính vì thế, vào ngày phán xét, Đức Giêsu chỉ phán xét mọi người về một điều duy nhất: cách họ đối xử với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Chúng ta cần chú ý tới điều mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh, và những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng cũng phải nhấn mạnh giống như Đức Giêsu. Nếu điều quan trọng nhất lại không nhấn mạnh, mà lại nhấn mạnh những điều phụ thuộc, thì họ cũng chỉ giống như những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng trong đạo Do Thái mà thôi.
4. Chúng ta đặt nặng và sống đúng điều quan trọng nhất chưa?
Điều quan trọng nhất trong Ki-tô giáo chính là sống yêu thương: trước tiên là yêu thương những người gần gũi mình nhất (cha mẹ, vợ con, anh chị em…), rồi đến những người xa hơn một chút (bà con, lối xóm, bạn bè, người cùng cộng đoàn…), rồi mới đến những người xa hơn nữa (người quen, người gặp ngoài đường…), để rồi yêu thương không trừ một ai, kể cả kẻ thù của mình (vì họ cũng là con người, là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa). Cần ghi lòng tạc dạ điều quan trọng nhất ấy để thực hành. Tất cả những chuyện khác đều là thứ yếu – không có nghĩa là không quan trọng, mà chỉ là không quan trọng bằng – thường là phương tiện để giúp ta thực hành điều quan trọng nhất ấy.
Chẳng hạn việc thờ phượng Chúa và việc cầu nguyện. Đây là hai việc được coi là rất quan trọng trong Ki-tô giáo mà không một Ki-tô hữu nào được phép coi thường. Nhưng chúng ta không thể coi hai việc này quan trọng hơn điều răn quan trọng nhất là sống yêu thương được. Đọc hết Tin Mừng, tôi không hề thấy có chỗ nào Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc thờ phượng Thiên Chúa hay cầu nguyện bằng hoặc như Ngài đã từng nhấn mạnh bổn phận phải yêu thương cả.
Qua câu “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24), tôi thấy rõ rằng Ngài coi trọng việc thể hiện tình thương đối với đồng loại hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa nữa. Ngôn sứ I-sa-i-a còn cho thấy Thiên Chúa ghê tởm việc thờ phượng và cầu nguyện của những con người đối xử với đồng loại không ra gì: “Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,14-15; nên xem hết cả đoạn Is 1,11-19). Hãy nghe Ngài kết án hết sức nặng nề những việc làm thiếu bác ái: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5,21-22). Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài có vẻ như cay cú với thầy tư tế và lê-vi đã bỏ mặc nạn nhân bị cướp trên đường vì đã coi trọng việc thờ phượng và giữ những chi tiết trong luật Mô-sê hơn bổn phận bác ái là giới răn quan trọng nhất.
Cầu nguyện là để tiếp xúc với Thiên Chúa hầu nhận được sức mạnh của Ngài mà sống yêu thương anh chị em mình. Nó là phương tiện cần thiết để đạt được mục đích là sống yêu thương. Đừng biến phương tiện thành mục đích mà quên mục đích đích thực phải thực hiện. Về việc thờ phượng Thiên Chúa, hãy bắt chước Đức Giêsu: cả đời chỉ thực hiện tình thương đến mức hy sinh cả mạng sống, và cuộc đời đầy yêu thương đó chính là hy tế thờ phượng Thiên Chúa đẹp lòng Ngài nhất.
Đối với điều chính và điều phụ, lập trường của Đức Giêsu là: “Các điều này (điều chính yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (điều phụ thuộc) thì không được bỏ” (Mt 23,23c). Dẫu phải làm cả hai, nhưng vẫn phải phân biệt điều nào chính điều nào phụ để khi không thể làm được cả hai, thì biết phải chọn lựa điều nào.
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Lạ thật! Biết bao người nói rằng họ theo Ta, nhưng những điều Ta khuyên hay yêu cầu họ làm thì họ chẳng thèm làm. Họ cứ tưởng: họ bám theo Ta và lải nhải nịnh nọt Ta suốt ngày thì Ta sẽ hài lòng và như vậy mới là theo Ta. Họ làm như Ta là một bạo chúa chỉ thích nghe những lời nịnh nọt! Ta là Thiên Chúa, Ta có cần họ làm gì cho Ta đâu, thế mà họ lại cứ quan tâm đến Ta, đang khi anh chị em của họ ở ngay bên cạnh họ, rất cần họ yêu thương săn sóc – những người đó chính là hiện thân của Ta ở giữa họ – thì họ chẳng thèm màng tới. Quả thật, họ đang làm những chuyện vô ích mà cứ tưởng là cần thiết”. [Mục Lục]
20. Tôi khám phá ba điều khác lạ
1. Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: "Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng", nhưng: "Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng".
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
2. Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
3. Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
1. Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
2. Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
3. Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau. [Mục Lục]
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
- Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
- Tôi nói đùa nó đấy mà!
Thầy Tăng Tử bảo “
- Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
Chỉ vì một lời hứa bông đùa của người vợ, mà thày Tăng Tử phải quyết định làm thịt lợn cho con ăn.
Kẻ sĩ là như vậy đó! Người có nhân cách là thế đó! Một lời nói không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.
Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người cha sai con đi làm vườn nho. Người con thứ hai nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất từ chối, về sau hối hận nên lại đi. Đức Giêsu muốn ám chỉ các thượng tế và kỳ mục là người con thứ hai. Họ cho mình là chu toàn lề luật, đạo đức hơn người, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không làm. Họ bắt kẻ khác tuân giữ luật lệ nhưng chính họ lại tránh né. Họ chất lên vai dân chúng gánh nặng mà chính họ cũng không thể mang nổi. Tệ hơn nữa, họ đã tự mãn đến độ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Trái lại, người con thứ nhất được ví như các người thu thuế và những cô gái điếm. Họ là những người tội lỗi công khai, bị loại ra khỏi hội đường và bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng họ đã thành tâm hối cải và tin vào Đức Giêsu là cứu Chúa của họ. Vì thế, Người đã tuyên bố một câu đầy kinh ngạc cho các nhà lãnh đạo Do thái giáo:”Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.
Như thế Nước Thiên Chúa là của những kẻ có niềm tin. Tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin vào Người là Con được Cha sai đến. Niềm tin ấy chỉ đáng tin khi nó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê khẳng định:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Đức tin không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn phải chứng minh bằng việc làm. Vì hành động cụ thể thuyết phục hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Đức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của Pharisêu, là thái độ “ngôn hành bất nhất”, vì “họ nói mà không làm”. Người đã từng tuyên bố:”Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Người hằng làm theo thánh ý Cha, và mong muốn chúng ta cũng hãy làm như vậy: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy; Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy”. [Mục Lục]
22. Ghen tỵ – Lm. Nguyễn Ngọc Long
Các con thương,
Các con thường nghe ông bà ta thường nói: “Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”, nghĩa là con người có lầm lỗi to lớn thế nào đi nữa, nếu biết ăn năn hối hận thì được mọi người thương và tha thứ. Hơn nữa, họ còn được có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Trong bài đọc thứ 1 hôm nay, tiên tri Êdêkiel cảnh báo những ai cho rằng mình đã đạo đức, đã tốt rồi không cố gắng sống tốt hơn, coi chừng ngày nào họ phạm tội thì họ cũng phải chết.
Cũng vậy, Ngài khuyến khích những kẻ gian ác hãy bỏ đi con đường tội lỗi và quay về thì sẽ được ơn tha thứ và tiếp tục sống. Nghĩa là Thiên Chúa luôn mở cho con người một tương lai, khuyến khích người xấu và người tốt ngày càng tốt hơn. Thiên Chúa không nhớ quá khứ tội lỗi của người biết hối cải. Người ta nói rằng: Thiên Chúa nhận lấy tội lỗi của chúng ta và quẳng nó xuống hố thật sâu. Người đặt một bản hiệu trên bờ hồ: “Miễn Vớt Lên”
Tục ngữ có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Trong Tin mừng các con vừa nghe, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đời sống đạo đức thực sự, lòng đạo đức được thể hiện qua việc làm cụ thể chứ không do lời nói suông, không qua hình thức bên ngoài.
Cùng một câu nói: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha nhé!”. Thế nhưng có hai câu trả lời khác nhau. – Người anh nói: “Con không đi đâu” nhưng rồi nó hối hận và đi làm; người em trả lời: “Vâng, con đi” nhưng rồi lại không đi.
Các con thương,
Điều giá trị không phải do các con nói hay, nói giỏi cho bằng làm giỏi và làm tốt.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với các con rằng: “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”! Các con sẽ trả lời với Chúa như thế nào? – Chắc các con sẽ hỏi lại: làm vườn nho của Chúa là làm những gì?
Theo Kinh thánh, dân Israel được ví như là vườn nho của Chúa. Chúa Giêsu ví “Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Như vậy, vườn nho của Chúa là những con người: Cha mẹ, gia đình, anh chị, hàng xóm, trường học…
Khi phụ giúp cha mẹ và anh chị lau quét nhà, rửa chén, nấu cơm, giúp bà xỏ kim chỉ may áo… là các con đáp lời mời gọi làm vườn nho gia đình của Chúa.
Ở trường học, các con biết chăm chỉ học tập, vâng lời, quý mến thầy cô giáo, yêu thương giúp bạn học tập… là các con đang làm vườn nho trường học cho Chúa.
Các con đóng góp tiền để giúp nuôi bạn có điều kiện đến trường như mình; khi nuôi heo đất để xây dựng nhà tình thương cho người có hoàn cảnh khó khăn, khi sống những điều răn Chúa dạy ở môi trường hàng xóm… là các con đã tích cực làm vườn nho xã hội cho Chúa.
Đặc biệt, mỗi tuần đến nhà thờ, dự thánh lễ nghiêm trang, siêng năng chầu thánh thể, sốt sắng rước Chúa, hăng say học giáo lý… là các con đang làm vườn nho tâm hồn của Chúa.
Tất cả những công việc đạo đức thánh thiện tốt lành này không phải làm trong thời gian nào đó mà phải khiêm tốn làm trong sự kiên tri bền chí.
Trong thánh lễ hôm nay, các con xin lỗi Chúa vì nhiều lần các con như người em út trong câu chuyện, hứa với Chúa rất nhiều điều mà không thực hiện: không thưa kinh trong thánh lễ, còn nói chuyện trong nhà thờ, không thực hiện quyết tâm hy sinh mà Phong trào thiếu nhi Thánh Thể đề ra…
Xin Chúa giúp các con quyết tâm luôn biết thưa VÂNG với Chúa và kiên trì cho đến cùng.
Xin Chúa giúp các con luôn đồng nhất giữa lời nói và việc làm: “Nói thì phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay”. Amen. [Mục Lục]
23. Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Nhìn vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của Thiên Chúa:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có những người tội lỗi thực sự vì bất phục tùng.
2) Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch sát nhân của người Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nhìn nhận dự tính sát nhân của họ).
3) Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của hai dụ ngôn trước (từ khước vì bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt những kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba bài dụ ngôn này cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái, đến dự tiệc).
Dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đã nêu bật rằng Thiên Chúa không hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ý muốn của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh né.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm ba phần:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-30);
2) Câu hỏi đặt ra cho thính giả (21,31);
3) Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài điểm chú giải
- Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai (28): Đức Giêsu hỏi ý kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người kia” tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần làm nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lãnh của Dân. Cả hai bên đều được gọi là “con” của Thiên Chúa.
- nó hối hận (30): Tác giả Mt không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở Mt 27,3, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có thể có nghĩa đơn giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng ở đây, cũng như ở c. 32 và 27,3, rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có trọng lượng thần học của động từ metanoeô.
- vào Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
- Nước Thiên Chúa (31): Cụm từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không thông dụng trong Mt, nó đến từ truyền thống có trước, nhưng cũng có ý nghĩa như basileia tôn ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn này được đặt trong khung cảnh một cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối trả lời họ về nguồn gốc của “quyền” của Người, Đức Giêsu kể dụ ngôn Hai người con. Dụ ngôn này mở đầu và kết thúc bằng một câu hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ ngôn Hai người con (28-30)
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận” (metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài! (egô kyrie)” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
* Câu hỏi đặt ra cho thính giả (31)
Câu hỏi của Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”, c. 31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà thôi. Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có thể là người con đã đi làm việc trong vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây là một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả lời, họ đã tuyên bố án xử trên chính họ.
Với một câu có từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu lại quay về trực tiếp với các đối thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những người thu thuế và những cô gái điếm là hai nhóm người ở bậc thấp nhất trong hệ thông tôn giáo đương thời và về giá trị luân lý. Họ là những con người bị coi là không có phẩm cách cả về tôn giáo lẫn luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu đặc biệt chiếu cố đến (x. Mc 2,13-17; Lc 18,9-14; 7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các nhà lãnh đạo Israel.
Như thế, khi trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái đã phải tuyên bố chính bản án về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng dụ ngôn vào họ, vì các khác biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao giờ họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà rồi không chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải chăng những người thu thuế và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại bỏ? Lại càng khó áp dụng câu amen (c. 31c) vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan ở cc. 23-27. Dường như cả dụ ngôn lẫn áp dụng ở c. 31c đều không liên hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do đó, trong c. 32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp dụng và xây dựng mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài học kết thúc (32)
Câu kết thúc liên kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và các kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy xuyên qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c. 25). Bây giờ Người mới trả lời cho câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy Giả, và Người nói thẳng vào mặt các đối thủ: Gioan “đã đến với các ông trong đường công chính”, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng lời ông ấy và nhìn nhận quyền bính thần linh của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối hận (oude metemelêthête), và lại còn tệ hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không phải là một công thức Kinh Thánh theo mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc nhớ rằng phải sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu bản văn của chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc giả nhớ đến 3,15, là câu nói về sự công chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, đàng khác, nhớ đến 11,18, là câu nói đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những người thu thuế và các cô gái điếm”, không giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan. Câu này sai niên biểu (anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ nghe nói đến Gioan như là người có quan tâm đặc biệt đến các người thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý tưởng rút ra từ c. 31c là quan trọng: vị trí trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và kỳ mục một bên và các người thu thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo ngược. Điểm khác biệt là ngữ cảnh đã làm cho từ “(đi) trước” tương đối của c. 31c trở thành một phân biệt tuyệt đối. Họ tin – nghĩa là vâng phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì không. Trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những người bị khinh dể đến với đức tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen tức (x. Rm 11,14), nên họ không giống người con thứ nhất, “sau đó (hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã đi đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự hối hận” này vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo những cam kết về lý thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho thấy đáy lòng.
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có thể thấy được là các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng. Người con nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm gì cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có ấn tượng là người cha gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của đứa con cả bằng tình thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những người thu thuế và các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta học nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con người.
2. Dù đã nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của mình.
3. Cần phải đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý muốn của Ngài. Từ khước lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống mình.
4. Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống được như thế chăng? [Mục Lục]
24. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các ông nghĩ sao? Một người có: hai con… ". Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những "người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những "người công chính" hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn bản.
"Hôm nay": Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.
“Về sau": Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.
"Nó hối hận": Nơi đây Matthêu không dùng động từ "thống hối" (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản ‘Bảy Mươi’ theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22; Tv 105, 45; Xh 13,17…). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).
"Vâng, thưa Ngài": Tiếng “Ngài" đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.
"Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa": Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: "Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?", nghĩa là: "Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác" (Targ. Hi 41, 3).
"Theo đàng công chính": Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Matthêu đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thử kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.
KẾT LUẬN
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy may thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.
2. Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.
3. Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.
4. Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái "lợi" (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.
5. Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa. [Mục Lục]
25. Suy niệm của Noel Quession
Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”
Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, "các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những "kẻ cầm quyền" ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 – 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.
Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử" về cuộc khổ nạn.
Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: "Bạn, X, Y,…., bạn nghĩ gì về điều đó?"
Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho". Nó đáp: "Con không muốn đâu!". Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi
Bạn nghĩ gì về điều này?.
Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.
Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, "hoán cải ". Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.
Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta "đông cứng" nhưng "đang trở thành".
Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói' tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.
Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?
Họ trả lời: "Người thứ nhất”
Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.
Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu' nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.
Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: "Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…" mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: "nói" không quan trọng bằng "làm". Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời" (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: "Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm" (1Gioan 3,18).
Đức Giêsu nói với họ: "Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông".
Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. "Tôi bảo thật các ông!". Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.
Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?
Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.
Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.
Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. "Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không "thấm nước". Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì".
Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?
Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. "Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông". Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng "các ông"? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?
Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!
Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.
Trong lúc dụ ngôn "hai người con" nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói" và ‘làm’ ‘giữa nói "có" trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: "Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?" (Mt 21,25).
Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.
Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.
Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: "Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!". Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động" mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi". Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?
Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (lCr 1,19). [Mục Lục]
(42)
Phản hồi gần đây