Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG C

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG C

Lời Chúa: Gr 33, 14-16; 1Tx 3,12–4,2; Lc 21, 25-28. 34-36

MỤC LỤC

1. Hãy ngẩng đầu lên. 3

2. Dọn dẹp bàn ghế. 5

3. Hãy nhìn đường. 7

4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 9

5. Mong chờ một cuộc gặp gỡ – Cố Lm. Hồng Phúc. 12

6. Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên. 15

7. Sống trọn vẹn Mùa Vọng. 19

8. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. 23

9. Đối phó bất ngờ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 26

10. Chờ mong – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm. 29

11. Tỉnh thức và cầu nguyện – Lm. G.B. Trần Văn Hào. 33

12. Sống thánh hôm nay – Lm Phạm Quốc Hưng. 39

13. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. 43

14. Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến. 46

15. Tỉnh thức. 51

16. Đứng thẳng và ngẩng đầu. 54

17. Mở cửa tâm hồn đón Chúa đến. 57

18. Tỉnh thức đợi chờ. 61

19. Ngày đại hoạ. 65

20. Ngày tận thế. 68

21. Để được cứu độ – Lm Nguyễn Nguyên. 71

22. Tỉnh thức và cầu nguyện – R. Veritas. 74

23. Ngày Chúa ngự đến – R. Veritas. 78

24. Sống tâm tình Mùa Vọng. 83

25. Hướng về ngày Chúa đến. 87

26. Tỉnh thức và cầu nguyện – Thiên Phúc. 90

27. Chờ Chúa đến – Lm. John Nguyễn. 93

28. Đứng lên. 96

29. Mở Lòng Chờ Chúa Đến – Anmai 99

30. Mùa tỉnh thức – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 103

31. Hãy coi chừng!. 109

32. Hãy nhìn đường – Gm. Arthur Tonne. 112

33. Chú giải của Noel Quesson. 114

 

1. Hãy ngẩng đầu lên.

Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu hỏ lại để những nguy hiểm không động chạm đến mình. Thế nhưng, trong cơn nguy hiểm tột cùng của ngày tận thế, Chúa lại bảo chúng ta hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Tại sao thế?

Xin thưa sở dĩ chúng ta nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ, con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình, không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của công việc và xác định xem đâu là việc tốt phải làm và đâu là việc xấu phải tránh. Nhất là không còn nhìn thấy tình thương của Chúa luôn ấp ủ, chở che chúng ta.

Bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách cứ chúng ta điều đó, nhưng hãy tin tưởng vì ơn Chúa đủ cho chúng ta. Vì thế, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Trong Phúc Âm, các tông đồ đã có kinh nghiệm về sự sợ hãi, thế nhưng lần nào cũng vậy, Chúa Giêsu đều nhắc nhở các ông: Thầy đây, đừng sợ. Nổi bật nhất là Phêrô, ông có nhiều thứ sợ.

Trước tiên là sợ chết, sợ bị liên luỵ với Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng Tin Mừng kể lại: Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết. Phêrô còn một nỗi sợ đặc biệt khác nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu đuối tội lỗi trước Thiên Chúa chí thánh, nên có lần ông đã phủ phục dưới chân Chúa và thốt lên: Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa đã nhìn ông và nói: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.

Với tình thương, Chúa đã làm được mọi việc ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Phêrô chối Chúa, nhưng Ngài không quở, không la, không phạt. Ngài chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương tha thứ, nên mới xoáy sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông đã ăn năn khóc lóc thảm thiết. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô muốn Chúa xa tránh vì ông cảm thấy không xứng đáng, nhưng Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần bằng cách chọn Phêrô cộng tác với mình và trên Phêrô, Người đã xây dựng Hội Thánh.

Trong mọi cơn gian nan thử thách, Ngài muốn chúng ta đứng vững và ngẩng đầu lên vì Ngài chính là nguồn sức mạnh của chúng ta. Tuy nhiên, muốn đứng vững, muốn ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng bao la, bởi vì Chúa là người cha nhân từ, vừa đầy quyền năng lại vừa đầy lòng thương xót, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài. Đồng thời ngay từ bây giờ chúng ta đã phải đứng vững và ngẩng đầu lên, bởi vì cây nghiêng bên nào sẽ đổ bên ấy.

Từ đó, Chúa đã dạy chúng ta: Hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề. Nặng nề vì bả vinh hoa trói buộc. Nặng nề vì tiền bạc và lợi lộc vật chất có thể làm mờ cặp mắt chúng ta, để rồi chúng ta không còn nhận ra ngày giờ Chúa viếng thăm.

2. Dọn dẹp bàn ghế.

Đêm 15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng sơn, khiến cho con tàu bị chìm và hơn 1500 người bị thiệt mạng. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất của lịch sử từ trước đến nay.

Cách đây vài năm khi thuật lại thảm họa này trong một bài báo, tác giả đã đưa ra một câu hỏi có tính cách châm biến: Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc tàu Titanic đang chìm, thì liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu hay không?

Thoạt nghe câu hỏi này, chúng ta thấy nó khôi hài làm sao, bởi vì khi còi báo động vang lên, thì người còn chút tỉnh tảo, ai lại đi dọn dẹp bàn ghế giữa những tiếng kêu la kinh hoàng và khủng khiếp của những kẻ sắp chết đuối? Tuy nhiên, nếu đọc tiếp bài báo chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên cau hỏi kỳ quặc ấy, để rồi chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu bây giờ cuộc đời tôi, như con tàu, đang chìm dần vào cõi chết, biết đâu tôi lại còn đang mải mê lo dọp dẹp bàn ghế, nghĩa là tôi đang còn mải mê lo những chuyện vật chất đời này mà quên đi những việc đạo đức thiêng liêng của mình, hay là cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chẳng còn biết đến mục đích cuối cùng của đời mình là gì nữa, chẳng còn biết rằng cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị cần thiết cho tương lai vĩnh cửu?

Bởi đó, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ, vào giờ các con không biết.

Và đây cũng chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng ta cũng chính là một Mùa Vọng.

Ước chi trong giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

3. Hãy nhìn đường.

Ít năm trước đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi ba năm trong nghề, bác đã đi được trên một triệu năm trăm cây số mà không gây nên một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao mà bác đạt được kỷ lục ấy, thì bác đã trả lời một cách đơn giản đó là hãy nhìn đường.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cũng đem lại cho chúng ta một lời khuyên tương tự: Hãy tỉnh thức luôn. Ý tưởng này được nhắc đi nhắc lại bằng những hình thức khác nhau: Hãy coi chừng, hãy chú ý, hãy ngẩng đầu lên.

Đó không phải chỉ là một lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là một quy luật cho những sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Đúng thế, chúng ta vốn thường nói: Hãy chú ý, hãy nhìn cho kỹ và hãy đề cao cảnh giác.

Để lái một chiếc xe, chúng ta phải nhìn đường. Một cầu thủ trên sân cỏ, phải lẹ mắt để sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ. Anh phải theo sát trái banh. Trong lớp, các em phải chăm chú lắng nghe những lời thày cô giảng dạy.

Qui luật này cũng được áp dụng trong những công việc bình thường nhất. Một bà mẹ, phải canh chừng đứa con nhỏ, kẻo nó té ngã xuống sông, xuống ao… Phải để ý tới cái nồi, cái chảo trên bếp, kẻo món ăn bị cháy khê cháy khét.

Cuộc sống giống như một chuyến xe mà chúng ta là người tài xế. Chúng ta không phải chỉ có một trách nhiệm đối với bản thân mà còn có cả trách nhiệm đối với người khác.

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần phải nhìn đường, cần phải chú ý để khám phá ra sự hiện diện của Chúa. Thực vậy, Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng kẹt một nỗi, Ngài lại là Đấng thiêng liêng, nên con mắt phàm trần của chúng ta không thể nào nhìn thấy. Tuy nhiên với con mắt đức tin, chúng ta có thể khám phá ra Ngài.

Trước hết, Ngài ngự thật trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế khi tham dự thánh lễ, chúng ta phải tỉnh thức phần xác, không ngủ gà ngủ gật đã đành, mà còn phải tỉnh thức cả phần hồn bằng cách kết hiệp tâm tình của chúng ta vào với những lời kinh, những tiếng hát, nhất là khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp với Chúa, Đấng mà ngày xưa đã sinh ra trong máng cỏ Bêlem.

Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện qua những sự kiện, qua những biến cố xảy đến và bằng một bàn tay uy quyền và yêu thương, Ngài đang hướng dẫn cả lịch sử của nhân loại, điều cần thiết là chúng ta phải tìm biết và thực thi thánh ý Ngài qua những biến cố, những sự kiện, những dấu chỉ của thời đại.

Và sau cùng, với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm Giáng sinh, mà Ngài còn viếng thăm bản thân chúng ta khi chúng ta từ giã cuộc đời, cũng như Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận cùng của trời và đất.

Thế nhưng, chúng ta có biết tỉnh thức và nhất là chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa viếng thăm bản thân chúng ta hay không?

 

4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI

Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.

Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.

Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.

Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?

2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?

3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?

4) Tỉnh thức nghĩa là gì?

5) Tại sao phải cầu nguyện?

5. Mong chờ một cuộc gặp gỡ – Cố Lm. Hồng Phúc

Đây, Mùa Vọng lại đến. Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.

Nhà Tiên tri Giêrêmia loan báo, trong bài đọc I, “ngày Thiên Chúa làm nẩy sinh một chồi công chính” và trên bước đường lịch sử, nhân loại sẽ gặp Đấng Cứu Độ. Mùa Vọng là thời điểm Chúa Kitô, Đấng mà Đavit là tiền ảnh, Đấng đã được tiên báo đến trong thế gian và còn tiếp tục đến.

Phải, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến giữa chúng ta. Nhân loại càng ngày càng thay đổi thì Chúa Kitô, niềm hy vọng thế giới, vẫn tiếp tục đến để đem sự công chính, hoà bình và ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến trong mỗi người chúng ta. Là một con người, ai lại không mong muốn được biết đường đi, xa lánh sự dữ, được khỏi tiêu diệt và khỏi chết. Thì Chúa Kitô chính là Đường, là sự Sống, là sự Thật sẽ đến hướng dẫn chúng ta và cứu chuộc chúng ta.

Thánh Phaolô, trong thánh thư gửi giáo đoàn Thessalonica, dạy chúng ta phải sống tinh thần Mùa Vọng như thế nào. Người tín hữu là kẻ đã được Đức Tin hướng dẫn ngày chịu phép Rửa tội thì phải tiến lên không ngừng, “phải gia tăng và tràn đầy lòng thương yêu nhau”. Phaolô dạy giáo đoàn Thessalonica vẫn đã sốt sắng, phải sốt sắng, phải thánh thiện hơn. Bằng bốn lần, Phaolô khuyên họ và khuyên chúng ta phải kết hợp với Chúa Kitô mật thiết và thương yêu anh em hơn, như Ngài đã thương yêu chúng ta. Đó là chìa khóa sự thánh thiện. Đó là tinh thần Mùa Vọng chân chính, mùa mong đợi Chúa đến.

Vì thế, Giáo Hội thường khuyến cáo tổ chức những buổi tĩnh tâm cấm phòng trong mùa Vọng, không ngoài mục đích thăng tiến lòng đạo đức. Chúng ta hãy sốt sắng tham gia. “Hãy quên đi đoạn đường đã qua và chạy đến cùng đích” (Phi. 3, 14). Cùng đích ấy là Chúa Kitô.

Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.

Bài Phúc âm mở cho chúng ta một cái nhìn bao quát vĩ đại đó. Thời gian từ ngày Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử đến ngày Chúa lại đến trong vinh quang là thời gian của Giáo hội. Và Giáo hội cũng vọng về ngày Chúa đến trong uy quyền. Ngày đó bao giờ đến?

Ngài không nói ra bí mật của Thiên Chúa! Nhưng Ngài cho ta những điềm báo trước: những điềm lạ trên trời, những rung chuyển dưới đất. Những vụ nổ như vụ núi lửa Pinatubo ở Phi luật Tân phun lên đến cao độ 12 miles với sức mạnh của 10 quả bom nguyên tử, tháng 6, 1991, là một tiếng dội xa xôi của ngày Chúa giáng lâm. Những điềm báo đó phải là những điều thức tỉnh, những bài học cho chúng ta.

Ngày nay, có nhiều người sống và tổ chức cuộc sống như rằng thế giới sẽ vô tận, không có một cùng điểm. Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Người tín hữu biết rằng Chúa đã đến và Chúa sẽ đến lại cho cả thế giới và với mỗi người chúng ta, nên phải chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ đó. “Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”.

Vậy chúng ta “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” trong Mùa Vọng này.

Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tôi.

6. Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên

Một năm phụng vụ nữa đang kết thúc. Hôm nay là Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một chu kỳ mới của ơn cứu độ. Tưởng cũng nên nhắc lại, là sống những tâm tình của từng mùa trong năm phụng vụ không phải chúng ta chỉ sống lại những kỷ niệm của một thời đại đã qua, nhưng là sống chính trong nguồn mạch ơn Chúa tươi mát và mới mẻ để nuôi dưỡng con người nơi Giáo Hội trần gian này, trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Điểm quan trọng trong Lời Chúa hôm nay là câu của chính Chúa Giêsu khuyên bảo: “Trong mọi biến chuyển kinh hoàng xảy đến đó, chúng con hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”.

“Đứng dậy, ngẩng đầu”, đòi hỏi con người phải hết lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, yêu mến Người hết lòng, hướng mọi khả năng về Thiên Chúa vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin vững mạnh, hy vọng bao la, yêu mến hết lòng, không ai có thể đứng vững được trong hiểm nguy gian nan thử thách. Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên”. Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm hy vọng.

Nơi bài đọc thứ nhất, qua miệng tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa bảo: “Đã đến ngày Ta thực hiện lời hứa Ta đã hứa cùng Israel và Giuđa. Ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát và Giêrusalem sẽ an lành”. Tiên tri Giêrêmia báo cho dân chúng biết Thiên Chúa là Chúa trung thành, Người sẽ tạo lập một xã hội mới có một vị vua biết yêu thương dân và luôn thi hành công lý. Điểm thời gian mà lời tiên tri đó được thực hiện trong lịch sử chính là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người vừa là Vua vừa là Thượng Tế. Là Vua, chính Người lo cho Giuđa được cứu thoát. Là Thượng Tế, chính Người lo cho thành thánh Giêrusalem sống trong an bình. Thời gian đó là thời gian vui tươi, hy vọng, không còn sợ hãi, người người sẽ hớn hở gọi to tên của Đấng phải đến đó là: “Thiên Chúa Đấng công chính của chúng tôi”. Như thế, bài đọc thứ nhất công bố một niềm hân hoan to lớn.

Sang bài đọc thứ hai, trong thư gởi tín hữu thành Thêsalônica, thánh Phaolô khuyến khích phải làm gì để đón nhận niềm vui trọng đại của ơn cứu thoát mà Thiên Chúa đã hứa? Thánh nhân đã đưa ra ba việc chính yếu phải làm:

Thứ nhất, là phải biết thương yêu nhau.

Thứ hai, là cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Thứ ba, thánh Phaolô bảo: Người van nài là làm sao càng ngày mọi người càng tiến thêm lên trên con đường thánh thiện.

Qua ba điểm, thánh Phaolô mong muốn, chúng ta nhận thấy rõ ràng như đã nêu lên ở trên, những nhân đức nòng cốt mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay mong muốn chúng ta phải sống, đó là một đức tin vững chắc, một niềm hy vọng sâu xa, một tình yêu chân thành và luôn biết hướng mọi khả năng Chúa ban cho mình để phụng sự Chúa là cùng đích tối cao và tối hậu của cuộc đời con người. Trong ba việc làm thánh Phaolô chỉ dạy, cần để ý đến lời khuyên: Cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đó lại là Cha yêu thương chúng ta chớ không phải là quan xét xử, và Cha chúng ta thấu suốt tận tâm can của từng người con một. Tư tưởng, lời nói, việc làm của từng người con, Người đều thấy hiểu và yêu thương ban ơn nâng đỡ, hướng dẫn. Vậy chúng ta hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến và hướng về Chúa.

Trong bài Phúc Âm như chúng ta đã nói, câu đáng lưu ý là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. “Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: “Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria “Hãy đừng sợ”, và cũng đã nói với Giuse “Hãy đừng sợ”. Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: “Hãy đừng sợ”. Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: “Hãy đừng sợ” đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.

Nhưng chúng ta đừng sợ cái gì? Chúng ta đừng sợ sự thật của chính chúng ta. Thánh Phêrô đã sống kinh nghiệm bản thân của sự thật đó khi người nói cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là người tội lỗi”. Không phải chỉ Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều học biết và chúng ta biết rằng sau câu nói đó của Phêrô, Chúa Giêsu bảo: “Hãy đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta”.

Với lời khuyên của Chúa Giêsu và lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đại diện của Ngài nơi trần gian, chúng ta hãy đừng sợ! Dầu cho con người chúng ta yếu đuối, hãy vững tin vào ơn Chúa, sống Mùa Vọng cho sốt sắng để trở thành con người mới, để cùng ca vang với trời đất, với thần thánh trên trời và loài người dưới thế.

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho loài người được Chúa yêu thương”.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi luôn nhớ lời: “Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên” để những lo âu của cuộc sống này không đè bẹp được tôi; để tôi niềm nở tươi vui với tất cả mọi người nhất là những người đang chung sống với tôi cùng một mái nhà; để tôi có một cái nhìn lạc quan vào mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố có vẻ đau thương nhất, vì Chúa dạy tôi: Hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến, và hứa dẫn tôi về với Người.

7. Sống trọn vẹn Mùa Vọng

Với Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta đang bước vào ngày đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Vậy trước nhất mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mình biết sống trọn năm phụng vụ này, biết tận dụng những ơn lành Chúa ban, từng bước, từng bước theo chân Chúa Giêsu để suy niệm và sống lịch sử cứu độ, lịch sử của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Kế đó, khi nghe Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, có lẽ chúng ta đang hình dung ngày tận thế, ngày kinh hoàng và chúng ta sợ. Nhưng không sao, Chúa đã bảo: “Chúng con hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên”.

Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật nhất là các động vật, khi gặp hiểm nguy thì trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan đi để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng trong cơn nguy hiểm tột độ của ngày cánh chung đó, Chúa lại bảo: “Hãy đứng thẳng dậy, đừng khom lưng cúi mọp và hãy hiên ngang ngẩng đầu lên”. Tại sao Chúa bảo một điều nghịch lại với bản tính tự nhiên: Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên trong nguy hiểm? Thưa cúi mọp và nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình. Không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của việc mình làm để nhận định đâu là phải thi hành và đâu là trái để lánh xa. Và nhất là không còn thấy được tình thương yêu che chở của Thiên Chúa.

Trong các phim nổi tiếng của Hoa Kỳ, “The wise of…” đã trở thành cổ điển và làm say mê khán giả nhỏ cũng như lớn trên 50 năm nay. Vào phần cuối, khi cô bé Dorothy muốn tìm đường về nhà và ba anh chàng người nộm, người sư tử và người kim loại muốn xin cho có khối óc, có quả tim, có sự can đảm, cả bốn đã vào một tòa lâu đài để xin lời chỉ bảo của thần minh. Đến trước bàn thờ thần minh, thấy khói lửa và những tiếng nói vang dội, cả bốn đều thất thanh cúi rạp người xuống và nghe theo, làm theo tiếng phán của thần minh đó. Trong khi đó, con chó Titô đi theo họ không sợ chi cả, bình tĩnh chạy vọng quanh. Và chính nó đã khám phá ra một nhà bác học tinh ma qủy quyệt đang núp bên trong, điều khiển tất cả bộ máy khổng lồ, dọa nạt những ai đến đó và sai khiến họ làm những chuyện “đội đá vá trời”.

Bài học hơi mạnh, con chó không biết sợ mưu mô của người đời, đã tình cờ khám phá ra sự thật. Trong khi những con người vì thiếu khối óc, thiếu con tim, thiếu sự can đảm đã sợ run rẩy, khép nép, cúi rạp người, làm theo chỉ thị của phù thủy qủy quyệt, tinh ma. Đó là cái hại của sợ.

Như đã nói, bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách chúng ta điều đó. Nhưng hãy tin tưởng ơn Chúa đủ cho chúng ta: “Hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên”. Trong Tân Ước, các tông đồ của Chúa cũng đã có kinh nghiệm sợ hãi, nhưng mỗi lần Chúa đều thương giúp bằng cách nhắc đi nhắc lại với các ông: “Thầy đây, đừng sợ”. Nỗi bật nhất là Phêrô, ông có đủ thứ sợ. Trước tiên là sợ chết, sợ liên can tới Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng theo thánh Luca kể: “Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết”. Phêrô còn có cái sợ đặc bệt nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu lòng, Phêrô sợ hãi phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và thưa: “Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Nhưng Chúa đã kéo Phêrô đứng dậy, nhìn vào mặt ông, chỉ thẳng vào ông và bảo: “Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ đánh lưới người”. Với tình yêu thương, Chúa đã làm mọi việc ngoài sức tưởng tượng của con người.

Phêrô chối Chúa, Chúa không quở, không la, không phạt. Chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương, tha thứ nên mới xói sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông ăn năn khó lóc thảm thiết suốt đời và sau đó liều chết vì Thầy. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô bảo Chúa tránh xa vì ông không đáng ở trước mặt Chúa. Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần, ngoài dự đoán của Phêrô, bằng cách chọn Phêrô cộng tác với Người đem con người về Nước Trời, và trên Phêrô, Người đã xây Giáo Hội của Người. Vậy trong mọi nguy hiểm, mọi kinh hoàng, Chúa muốn chúng ta đứng vững và hiên ngang ngẩng đầu lên, vì Chúa biết Người là sức mạnh của chúng ta.

Nhưng muốn đứng vững, muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian. Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: “Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: “Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến”.

8. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh.

Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.

Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.

Sức mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.

Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.

Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.

Một Sam-son vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quan quân Phi-li-tinh phải kinh hồn táng đởm giờ đây trở thành một tù nhân mù loà, thành một tên nô lệ ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay!

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Chỉ vì không sáng suốt tỉnh táo trước mưu độc của quân thù, vì thiếu tỉnh thức nên Sam-son đã sa vào cạm bẫy và lãnh lấy hậu quả vô cùng đau thương.

* * *

Có một thực tế đau lòng là so với các loài các vật khác, thì con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Một con thuyền mong manh ọp ẹp cũng thách thức được với sóng gió suốt nhiều năm tháng dài. Một cái bàn, cái tủ được sử dụng cả năm chục năm chưa hư, mà có khi càng lâu năm thì càng lên nước, càng đẹp và càng đáng quý hơn. Trong khi đó, con người là tạo vật thượng đẳng mà sao lại mỏng dòn, dễ thối, dễ hư đến thế!

Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư!

Bài học Sam-son tuy đã xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn mang tính thời sự vì nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình thuật lại vô số cảnh đời sa ngã dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức truỵ lạc khác…

Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn.

Thế nên người ta thường bảo: “khôn ba năm, dại một giờ”, nhưng không những thế, có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!

Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Thật đáng sợ thay!

Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!… hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: “những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” trong nay mai. (I Cr 10,12)

Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.

Con người trở nên cao quý là do phẩm chất cao đẹp của mình. Một người dù nghèo xác nghèo xơ, nhưng có tâm hồn cao thượng, có nhiều phẩm chất cao đẹp… thì vẫn là người có giá trị cao, đáng được mọi người mộ mến. Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm tiêu tan giá trị và phẩm chất cao đẹp của con người.

Mỗi người chúng ta quý giá hơn những viên kim cương đắt giá nhất trần gian, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, biến chất, trở thành như một viên sỏi vô giá trị bất cứ lúc nào.

Vì lúc nào con người cũng mê muội và dễ chìm đắm, thế nên lời nhắn nhủ “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!… Hãy đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề u tối… là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần.

Lạy Chúa, biết đến bao giờ lời Chúa mới cảnh tỉnh được con và lôi con ra khỏi vũng lầy êm ái?

9. Đối phó bất ngờ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người Việt Nam có câu “nước tới chân mới nhảy” thì quá trễ. Người Miền Trung và cao nguyên trung phần Việt Nam đã quá thấm thía câu nói này qua cơn lũ lịch sử vào ngày 11 tháng 10 vừa qua. Bất ngờ đột ngột giông bão và cơn lũ đổ về đã khiến cho hàng trăm người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị xóa sổ, thậm chí cả một xóm Trường ở Phú Yên bị xóa sổ hoàn toàn. Cuộc đời có qúa nhiều cái đột ngột bất ngờ đã lấy đi biết bao tính mạng của con người. Bất ngờ xảy ra đối với con người trong mọi hoàn cảnh như: tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai nạn bởi thiên tai. Với biết bao cái chết đột ngột, bất ngờ khiến chúng ta cảm thấy cuộc đời thật mong manh, kiếp người sao quá mỏng dòn. Cuộc đời đến rồi đi dường như không theo tính toán của con người. Con người dường như bất lực trước định mệnh sống còn của cá nhân mình.

Người ta kể rằng: Có một tai nạn máy bay đã xảy ra và trong đám hành khách bị thiệt mạng, người ta tìm thấy một anh chàng văn sĩ. Anh chàng văn sĩ này, trước đó mấy tiếng đồng hồ, đã ba hoa hăng say nói với một người bạn tại phi trường Rôma về những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Anh chàng văn sĩ ấy nói: “Này bạn, bạn thấy trí óc con người tuyệt diệu đấy chứ… Sáng nay, tôi đã uống cà phê tại Bá Linh. Bây giờ là buổi trưa, tôi với bạn dùng cơm tại Rôma. Và tối nay, tôi sẽ đi nghe nhạc tại Paris”. Nhưng sự thật đã xảy ra khác hẳn. Tối nay chàng văn sĩ ấy đã xuất hiện trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, thay vì đi nghe nhạc tại một nhà hàng nổi tiếng của Paris.

Nhìn vào những gì đang diễn ra chúng ta thấy rằng: trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ “một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”.

Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vi chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưỡi bất thần chụp xuống đầu anh em”. Vì thế, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.

Ngày xưa có một ông cụ già tên là Lót, ông cố cứu kinh thành Sô-đô-ma khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:

– Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!

Ông cụ bình tĩnh đáp:

– Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.

Thái độ của ông Lót phải chăng cũng là thái độ cần có của người ky-tô hữu chúng ta. Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, Aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: “cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài”.

Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.

10. Chờ mong – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.

Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cũng mong chờ con người.

I. Con người mong chờ Thiên Chúa

Ngày xưa dân Do Thái mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai để giải phóng họ khỏi ách người ngoại bang đô hộ. Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập bằng cách dẫn đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa đã sai các thẩm phán giải phóng họ khỏi cảnh đàn áp của những dân xung quanh. Thiên Chúa đã cho họ thoát cảnh lưu đày Babylon qua vị thiên sai ngoại đạo: vua Kyrô. Rồi thời gian đến, khi dân Do Thái đang mong chờ Ngài giải phóng họ khỏi cảnh người Roma đô hộ, thì Thiên Chúa đã sai Con Chí Ái của Ngài giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngày nay, Kitô hữu mong chờ Đức Giêsu đến trong vinh quang để giúp con người hạnh phúc trọn vẹn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Người đã sống lại, cho đến khi NGƯỜI LẠI ĐẾN”.

Con người như có thể làm tất cả mọi chuyện, vậy con người cần chờ mong gì nơi Thiên Chúa nữa không? Dường như con người ngày nay có thể độc lập với Thiên Chúa. Về phương diện y tế, con người tuy dù đối diện với bao bệnh nan y, nhưng vẫn liên tục tìm ra những phương thuốc để khắc phục các bệnh hiểm nghèo. Về giáo dục, người ta chờ mong nơi những thầy cô, những người làm công tác giáo dục để giúp các bậc cha mẹ làm trọn nghĩa vụ làm cha làm mẹ của mình; như vậy, dường như người ta chẳng còn cần gì nơi Thiên Chúa nữa!

Con người, tận thâm sâu lòng mình, đều cảm thấy mình bất lực để làm những điều tốt, cho cả mình và cho người khác. “Điều tốt tôi biết nhưng tôi lại không làm, tôi lại làm điều dở tôi thấy là không nên làm”. Khi chính mỗi người, người mà được người khác trông chờ, cảm thấy mình bất lực, cần Thiên Chúa trợ giúp để vượt thắng chính mình: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì làm sao những người này có thể giúp người khác “trọn hảo” được. Việc giúp đỡ người khác, giúp họ triển nở và hoàn thiện chính mình, là điều Thiên Chúa đang làm qua trung gian những con người. Không có Thiên Chúa, con người không thể hoàn thiện chính mình và triển nở toàn diện được.

II. Thiên Chúa chờ mong

Không phải chỉ có con người chờ mong Thiên Chúa đến, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng luôn chờ mong con người. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã lạc xa điều Thiên Chúa mong ước cho con người: họ đi tìm mình, quy hướng tất cả về mình chứ không về Thiên Chúa. Thiên Chúa mong muốn con người sống triển nở toàn diện và hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc thật sự không?

Dụ ngôn nén vàng (Mt.25, 14-30) gợi cho con người biết mỗi người đã được trao ban những nén vàng, và mỗi người đều được mời gọi để sinh lời. Những nén vàng Thiên Chúa ban cho tôi là gì? Tôi có làm phát triển những nén vàng tài năng Thiên Chúa ban cho tôi không? Thiên Chúa muốn tôi và mọi người sống triển nở và hạnh phúc. Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Ngài giúp người khác sống triển nở và hạnh phúc. Tôi có thực hiện điều Thiên Chúa muốn chưa?

Đức Giêsu, trong những giây phút cuối đời, đã để lại cho những người Ngài thương yêu một lời trối: “Hãy yêu mến nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Đây là một mệnh lệnh khó thực hiện, nhưng đó lại là mong ước của Thiên Chúa, vì điều này sẽ giúp con người được nên giống Thiên Chúa. Chính khi yêu thương, con người được triển nở và hạnh phúc. Có những người tưởng là yêu thương, tưởng là giúp người khác nhưng họ đang trói buộc người khác, họ làm những người này mất tự do bằng những giúp đỡ của họ, làm những người này lệ thuộc vào họ; những người này thật sự không phải là những người yêu thương kẻ khác, không phải là những kẻ giúp người khác thật sự, nhưng là những kẻ biến người khác thành nô lệ họ, bằng sợi dây tưởng rằng nhân nghĩa. Một tình yêu thực, là tình yêu làm con người tự do và phát triển, làm người được yêu cảm nghiệm tự do, triển nở và hạnh phúc.

III. Đức Maria đáp trả niềm chờ mong của Thiên Chúa

Đức Maria được Thiên Chúa chọn để thực hiện ý định cứu độ con người của Ngài. Ngài đã sai sứ thần tới hỏi ý kiến Đức Maria, xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời Mẹ một cách vô điều kiện; cụ thể, Đức Maria có sẵn sàng chọn Thiên Chúa trên tất cả, có sẵn sàng chấp nhận một thai nhi trong dạ mình. Đức Maria được hỏi ý kiến, nghĩa là, Đức Maria có thể nói “không” với sứ thần truyền tin; nhưng Đức Maria đã quảng đại nhận lời, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” bất chấp tất cả.

Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa không chỉ ở biến cố truyền tin, nhưng còn trong suốt đời Mẹ. Với biến cố phải trở về Bêlem để đăng ký nhân khẩu, Mẹ vẫn thưa xin vâng không một lời oán than. Với biến cố sinh con trong chuồng chiên cừu, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa khi chấp nhận biến cố này. Với biến cố Đức Giêsu ở lại đền thờ, Mẹ cũng không oán trách Thiên Chúa; và đặc biệt khi ở dưới chân thập giá, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng dù chẳng hiểu làm sao Lời Thiên Chúa hứa với Mẹ qua sứ thần được thành sự.

Đức Maria, suốt cả cuộc đời, đã đáp trả tuyệt vời hy vọng của Thiên Chúa về con người. Mẹ đã làm chương trình của Thiên Chúa cho con người được hoàn tất. Thiên Chúa hài lòng về Mẹ. Mẹ không chỉ là người nữ tuyệt vời, nhưng còn là con người tuyệt vời nhất của mọi thời đại.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn mong chờ Thiên Chúa điều gì cách đặc biệt?

2. Theo bạn, Thiên Chúa chờ mong gì nơi bạn?

11. Tỉnh thức và cầu nguyện – Lm. G.B. Trần Văn Hào

Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong ngày tết đến về quê xum họp, gặp lại anh em hay bạn bè xưa cũ. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.

Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.

Chờ đợi Đấng sẽ đến

Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ đến. Chúng ta chờ đợi một con người. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.

Chờ đợi trong hi vọng

Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo đặc biệt dựa vào sách tiên tri Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.

Một triết gia đã nói: Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin Cậy Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.

Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Nhưng chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.

Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng

Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế. Lý do Chúa đưa ra, vì ‘anh em sắp được cứu chuộc’. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.

Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ:“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 24 )

Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” ( Lc 21, 34 ). Những gì làm được hôm nay đừng để đến ngày mai.

Kết luận

Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Hãy sống thánh thiện, không gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Chúa chúng ta trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Thes 3, 13 ).

12. Sống thánh hôm nay – Lm Phạm Quốc Hưng

Với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.

Chúa phán: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người trên trái đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Ở đây, chúng ta thấy có hai điều Chúa dạy chúng ta phải thực hiện. Điều thứ nhất là chúng ta phải giữ mình để khỏi bị say mê cuốn hút vào các vui thú và các sinh hoạt trần thế; nghĩa là chúng ta phải biết đề phòng hai kẻ thù của linh hồn chúng ta là những đam mê xác thịt và những quyến rũ của thế gian. Điều thứ hai là chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để luôn được yêu mến kết hợp với Chúa và chiến thắng ma quỷ là kẻ hằng ghen ghét và tìm cách hãm hại chúng ta.

Như để giúp các tín hữu thực hiện lời dạy quý giá này của Chúa Giêsu, trong bài đọc hai trích thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô Tông Đồ ân cần thiết tha nhắn nhủ họ phải ra sức sống thánh thiện để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang: “Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến cùng với tất cả các Thánh. Amen. Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em ” (1Tx 3:12-4:2).

Như vậy, sống đẹp lòng Chúa hay sống thánh thiện phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi tín hữu Chúa Kitô. Chính vì vậy, Thánh Trẻ Đaminh Saviô trong ngày Rước Lễ Lần Đầu đã đặt ra hai quyết tâm đơn sơ nhưng đủ khiến ngài nên thánh. Đó là: “Thà chết chẳng thà phạm tội và hai người tôi phải yêu mến nhất là Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng viết cho một người bạn: “Hãy tin tôi, đừng đợi đến ngày mai mới khởi sự nên thánh…Thế nhưng chúng ta phải làm việc, không phải để trở thành những vị thánh nhưng để làm vui lòng Chúa…một việc nhỏ nhặt nhất cũng quý giá trước mắt Người”.

Năm Phụng Vụ chúng ta bắt đầu hôm nay trùng vào Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI công bố để đánh dấu 50 năm khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Vì vậy, thật thích hợp và hữu ích cho đời sống tâm linh nếu chúng ta biết suy niệm và sống theo “Mười Điều Tâm Niệm cho Hôm Nay” sau đây của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII-Đấng đã được ơn Chúa soi sáng để triệu tập Công Đồng.

1. Hôm nay, tôi sẽ gắng sống suốt ngày một cách tươi vui tích cực mà không ước ao phải giải quyết mọi vấn nạn của đời tôi một lúc.

2. Hôm nay, tôi sẽ hết sức để ý đến dung diện của mình: tôi sẽ ăn mặc đoan trang; tôi sẽ không lớn tiếng; tôi sẽ giữ thái độ lịch duyệt; tôi sẽ không phê phán ai; tôi sẽ không đòi cải thiện hay kỷ luật bất cứ ai trừ bản thân tôi.

3. Hôm nay, tôi sẽ sống hạnh phúc trong sự xác tín rằng tôi được dựng nên để hạnh phúc không phải chỉ trong đời sau nhưng ngay cả trong đời này.

4. Hôm nay, tôi sẽ thích ứng với các hoàn cảnh mà không đòi mọi hoàn cảnh phải thích hợp với các ước muốn của tôi.

5. Hôm nay, tôi sẽ dành ra 10 phút để đọc sách tốt, luôn nhớ rằng như đồ ăn cần cho sự sống thể xác, việc đọc sách tốt cũng cần cho đời sống linh hồn như vậy.

6. Hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và sẽ không nói với bất cứ ai về việc ấy.

7. Hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích; và nếu tôi cảm thấy bị đau đớn điều gì, tôi sẽ cố không để ai nhận thấy.

8. Hôm nay, tôi sẽ xếp chương trình cho chính tôi. Có thể tôi sẽ không theo sát từng chữ, nhưng tôi vẫn phải có chương trình. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: hấp tấp và không quyết định.

9. Hôm nay, tôi sẽ tin chắc rằng dù cuộc sống có thế nào, sự quan phòng tốt lành của Chúa vẫn săn sóc tôi như không có ai khác trên thế giới này.

10. Hôm nay, tôi sẽ không sợ chi. Đặc biệt, tôi sẽ không sợ thưởng thức những gì xinh đẹp và tin vào sự thiện.

Tóm lại, đây là một quyết tâm tổng quát: Tôi muốn ở nhân hậu với mọi người, hôm nay và luôn mãi.”

Ave Maria, xin Mẹ dạy con biết sống đẹp lòng Chúa.

13. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.

(Trích trong Manna năm C – Lm. Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Nhiều kitô hữu tưởng Phục Sinh là dấu chấm hết của Kitô giáo. Thật ra Kitô giáo vẫn đang hy vọng và chờ đợi một biến cố hết sức quan trọng: biến cố Chúa trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Biến cố này hoàn tất lịch sử nhân loại và hoàn tất công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.

Bao lâu Chúa Kitô chưa trở lại người kitô hữu còn phải chờ. Chờ đợi làm nên cuộc sống kitô hữu, cuộc sống Giáo Hội.

Những kitô hữu thời sơ khai đã nôn nao chờ đợi. Họ ngỡ rằng chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ trở lại. Nhưng dần dần người ta nhận ra rằng cần phải chờ đợi một cách tích cực, cần phải chuẩn bị thế giới này đón tiếp Chúa khi Ngài đến, để Ngày Chúa quang lâm thực sự là ngày hội vui của cả địa cầu và cả vũ trụ. Mà ngày Chúa đến vẫn là một bất ngờ như mọi lần.

Ngài đã chào đời bất ngờ như một trẻ thơ quấn tã. Ngài đã sống bất ngờ như một bác thợ mộc vô danh. Ngài đã chết bất ngờ như một kẻ bị đóng đinh vì gây rối. Ngài đã sống lại bất ngờ, hiện ra với hai môn đệ về Emmau. Ngài sẽ trở lại bất ngờ…

Tỉnh thức chờ đợi là thái độ sống của Mùa Vọng.

Tỉnh thức là sẵn sàng đón Chúa với đèn sáng trong tay. Tỉnh thức là trung tín chu toàn cả những điều bé nhỏ. Tỉnh thức là tích cực đầu tư những nén bạc Chúa trao. Tỉnh thức đi đôi với cầu nguyện.

Thế giới hôm nay có nhiều thứ gây ngủ mê.

Cuộc sống quá khó khăn hay quá tiện nghi dễ dãi đều làm chúng ta đánh mất thái độ tỉnh thức chờ đợi.

Chúa đã đến âm thầm, Chúa sẽ đến trong vinh quang.

Chúa đang đến nhẹ nhàng trong thế giới, trong từng người, từng tập thể. Cần tập nghe tiếng bước chân của Chúa…

Mùa vọng là thời gian ta chờ Chúa đến, nhưng đừng quên chính Chúa mới là người chờ ta trước, từ lâu, vì ta không nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài.

Ước gì chúng ta dám can đảm và thành thật nài xin: Marana tha! Lạy Chúa, xin hãy đến.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, con người hôm nay có dễ tỉnh thức không? Cái gì đang làm cho giới trẻ trở nên mê ngủ (ma túy, rượu chè, bạo lực, tình dục…?

Bạn dự tính sống mùa Vọng như thế nào? Bạn sẽ giúp gì cho những bạn khác sống mùa Vọng?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.

Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.

Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa,

Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa.

Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.

14. Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh. Đây là ngày kỷ niệm, vì Chúa đã đến cách đây 2015 năm. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta chờ đợi Chúa đến với từng người trong giờ chết và với toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.

Thật vậy, chết là có thật. Ngày tận thế cũng có thật. Nhưng giờ chết và ngày tận thế sẽ đến một cách thình lình như chiếc lưới chụp xuống trên mặt đất (x. Lc 21,34-35). Ngày đó lại quyết định số phận đời đời của con người. Cho nên, con người muốn được hạnh phúc vĩnh cửu cần phải chờ đợi trong “Tỉnh thức”.

1. Tỉnh thức là biết sống yêu thương (x. 1Tx. 3,12):

Thánh Phaolô mời gọi: Mọi người phải thể hiện tình thương đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết (x. 1Tx 3,12). Thông thường khi biết mình sắp chết, con người sẽ nói những lời yêu thương đối với người thân của mình: Cám ơn, xin lỗi, yêu mến…Nhưng vì cái chết thường xảy đến quá đột ngột nên con người ít có cơ hội để thực hiện điều đó. Chính vì vậy, hãy thể hiện tình yêu thương nhau khi còn có thể. Vợ chồng hãy yêu thương nhau, cha mẹ hãy yêu thương con cái. Con cái hãy yêu mến cha mẹ. Mọi người hãy thể hiện tình yêu thương nhau. Hãy cám ơn, hãy bỏ qua những bất bình, hãy xin lỗi nhau“Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).

2. Tỉnh thức là giữ mình không chè chén say sưa (x. Lc. 21,34):

Các chất có men như bia, rượu tự nó không xấu. Xấu tốt là do con người sử dụng nó. Khi dùng bia rượu quá liều lượng sẽ gây ra biết bao hậu quả khôn lường. Do bia rượu nên gây ra tai nạn giao thông, chính mình chết, người khác thiệt mạng (Khoảng 15% người chết tai nạn giao thông là do bia rượu). Do bia rượu nên nhiều gia đình tan nát: Vợ chồng ly tán; Anh em từ nhau; Làng xóm mất lòng nhau. Do bia rượu người ta chém giét lẫn nhau và biết bao nhiêu tội lỗi khác. Chính vì vậy, tỉnh thức là không chè chén say sưa.

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!” Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.

3. Tỉnh thức là giữ mình, không lo lắng việc đời(x. Lc 21,34):

Dự tiệc Nước trời là công việc quan trọng hàng đầu, nhưng con người vẫn vịn lý do này khác để từ chối. Dụ ngôn khách được mời xin kiếu (x. Lc 14, 15,24) nói lên điều đó. Người thì bảo: “Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác thì nói: “Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Kẻ khác nữa lại vịn lý do: “Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Ngày nay con người vẫn vịn vào những lý do đó và các lý do khác tương tự để từ chối việc giữ đạo, sống đạo. Chẳng hạn: Vì ngày Chúa nhật tôi phải đi làm, phải đi học nên không thể tham dự thánh lễ. Vì bận công việc tối ngày nên tôi không còn thời gian để đọc kinh, cầu nguyện. Vì để thăng quan tiến chức nên tôi phải kết nạp Đảng, phải chấp nhận “Xa Chúa” một thời gian, sau này sẽ tiếp tục trở lại đạo. Vì chuyện gia đình, vì chuyện nghề nghiệp, vì chuyện nọ kia nên chưa có thể xưng tội rước lễ được, khi nào giải quyết xong việc tôi sẽ đi xưng tội…Đó là những hạng người quá lo lắng việc đời.

Nhưng lời Chúa hôm nay lại mời gọi chúng ta “không lo lắng việc đời”. Vì “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6,27). Nghĩa là đừng tìm bảo đảm nơi của cải vật chất mà phải tìm điều chính yếu của cuộc đời đã rồi mọi sự khác Ngài sẽ ban cho. “Trước tiên, hãy tìm kiếm nước Chúa, mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau”(x. Mt 6, 33). Vậy, hãy chọn Chúa và những gì thuộc về Chúa, chọn sự sống đời đời hơn sự sống tạm bợ chóng qua, đừng quá lo lắng việc đời.

4. Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét (x. Gr. 33,15):

Ngày đó, “Chúa sẽ xét xử và thi hành công lý”(Gr. 33,15). Cho nên luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét sẽ giúp con người biết tránh xa tội lỗi, chu toàn bổn phận và sống tỉnh thức hơn. Thánh Louis Gonzaga luôn “Nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời”. Cho nên, Ngài không hề sợ chết, cho dù giờ chết sắp đến.

Một hôm, ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi: “Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì?

Có nhiều câu trả lời khác nhau:

– Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.

– Tôi sẽ dọn mình xưng tội.

– Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng.

– Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi!.

Câu trả lời ấy của cậu Louis Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.

– Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi?

– Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy!

5. Tỉnh thức là luôn cầu nguyện (x. Lc 21,36):

Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không có Ta, các con không thể làm được gì”(Ga 15,5). Vì vậy, để sống tỉnh thức cần phải cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Bao lâu con người không còn cầu nguyện thì giống như linh hồn đã chết. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng”(1 Tx 5,17. Lúc nào ta cũng có thể cầu nguyện: Cầu nguyện hôm sớm; Cầu nguyện trước và sau khi dùng cơm; Cầu nguyện trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy; Cầu nguyện trong khi làm việc; Cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp mọi nơi: Cầu nguyện ở nhà thờ; Cầu nguyện trong gia đình; Cầu nguyện trên đường đi làm việc. Chúng ta có thể biến tất cả mọi thời gian trong ngày thành thời gian cầu nguyện. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Dù ở ngoài chợ hay đang đi dạo một mình, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Ngồi trong tiệm của bạn, hoặc khi mua khi bán, cả khi làm bếp, bạn cũng có thể cầu nguyện”. Làm được như vậy, tức là chúng ta đang tỉnh thức trong cầu nguyện.

Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ “Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta  trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm” (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng. Amen.

15. Tỉnh thức.

Có một bà già nóng tính, đi trên một chuyến tàu lửa. Khi xe đang xuống dốc, bà liền hỏi bác tài công:

– Chúng ta có thể dừng lại được không?

Bác tài công trả lời ngay:

– Được chứ, chúng tôi có chiếc thắng điện mà.

Bà già chưa lấy làm thỏa mãn, nên hỏi tiếp:

– Nhưng nếu chiếc thắng điện không ăn, thì bác có thể dừng lại được không?

Bác tài công vui vẻ trả lời:

– Được chứ, chúng tôi còn chiếc thắng tay nữa.

Bà già liền nói:

– Lỡ chiếc thắng tay cũng không ăn thì sao?

Bác tài công vẫn không mất kiên nhẫn:

– Chúng tôi còn một chiếc thắng đặc biệt dành cho những trường hợp khẩn cấp.

Bà già vẫn không an tâm, nên hỏi:

– Nếu cả chiếc thắng đặc biệt này cũng không ăn, thì số phận chúng ta sẽ ra sao?

Bác tài công tỏ vẻ bực bội:

– Nếu chiếc thắng đặc biệt này mà không ăn, thì một số người trong chúng ta sẽ lên thiên đàng, còn một số người khác sẽ xuống hỏa ngục.

Thực vậy, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với mỗi người rằng: Mỗi ngày qua đi là một bước chúng ta tiến dần đến cái chết, để rồi tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ phải ra trước tòa án tối cao mà tính sổ cuộc đời với Chúa. Liệu mỗi người chúng ta có sẵn sàng cho phiên tòa định mệnh này hay chưa?

Trong ngày trọng đại ấy, Chúa Kitô sẽ lại đến như một tia chớp lóe lên từ đông sang tây, hay như một kẻ trộm viếng thăm vào ngày chúng ta không ngờ, vào giớ chúng ta không biết. Liệu chúng ta có ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng hay không?

Nhiều người trong chúng ta vốn thường nghĩ:

– Tôi không có thời giờ để lo việc linh hồn, bởi vì tôi bận rộn quá nhiều công việc phải làm.

Nếu nghĩ và sống như vậy, họ sẽ có cả một khoảng thời gian đời đời để hối tiếc cho việc đã không làm này. Nhưng bấy giời thì đã quá muộn. Nước đến chân rồi mới nhảy, thì nhảy làm sao cho kịp.

Chúng ta không biết việc phán xét ấy xảy ra như thế nào, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng:Lúc bấy giờ Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta xem có mang hình ảnh của Ngài trong tâm hồn hay không? Nếu linh hồn chúng ta ở trong tình trạng ơn thánh, thì hình ảnh của Ngài sẽ tỏa sáng, bằng không, Ngài sẽ nói:

– Ta không biết các ngươi từ đâu mà đến.

Có một câu chuyện kể lại như sau:

Một linh hồn kia tới trước của thiên đàng, vừa ngơ ngác, lại vừa sợ hãi, nhưng cũng đưa tay ra và gõ. Khi được hỏi là ai, linh hồn ấy đã trả lời:

– Lạy Chúa, con đấy ạ.

Bỗng một tiếp đáp lại: – Nếu ngươi là con, thì ngươi chưa sẵn sàng để vào thiên đàng.

Trở lại trần gian, linh hồn ấy lo ăn chay cầu nguyện, hãm mình phạt xác. Cũng trong thời gian này, linh hồn ấy học hỏi và biết được rằng trong ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi: – Ngươi có mang hình ảnh Ta trong tâm hồn ngươi hay không?

Ngày kia, linh hồn ấy cũng lên tới của thiên đàng và khi nghe tiếng hỏi: – Ai đó?

Linh hồn ấy đã thưa lên: – Chúa đấy.

Lập tức có tiếng vọng lại: – Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào lãnh lấy phần thưởng của ngươi.

Mỗi người chúng ta đều phải chết. Đó là là sự thật thứ nhất. Rồi sau đó, mỗi người chúng ta đều bị phán xét. Đó là sự thật thứ hai. Trót cả cuộc đời, chúng ta phải hướng tới hai sự thật ấy.

Vậy chúng ta đã sẵn sàng cho cuộc phân xử định mệnh này hay chưa? Nếu như chúng ta chưa sẵn sàng, nếu như chúng ta còn vướng mắc quá nhiều những món nợ đối với Chúa và đối với anh em, nếu như chúng ta còn chồng chất tội lỗi, thì ngay từ hôm nay, chúng ta hay thanh toan cho xong bằng tâm tình sám hối của bí tích giải tội, để rồi chúng ta không còn phải lo lắng khi phải tính sổ cuộc đời với Chúa.

16. Đứng thẳng và ngẩng đầu.

(Trích trong Manna năm C – Lm. Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Cuộc sống con người đầy những bất ngờ. Có những điều tôi nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra, thậm chí tin chắc sẽ không thể xảy ra được, vậy mà thực tế chúng lại xảy ra. Có những bất ngờ thú vị làm tôi ngất ngây. Có những bất ngờ đớn đau làm tôi hụt hẫng.

Lắm người đi coi bói để biết trước tương lai, hầu mong tránh được những bất ngờ bi thảm.

Người kitô hữu tin rằng vũ trụ sẽ có ngày cùng tận, lịch sử sẽ kết thúc bằng biến cố Đức Kitô quang lâm. Nhưng khi nào chuyện đó xảy ra, chẳng ai biết được. Nó giống như tấm lưới bất thần chụp xuống trên tất cả dân cư trên mặt đất.

Thiên Chúa có tàn nhẫn không khi cứ thích cái bất ngờ, khi cứ để cho con người sống trong thấp thỏm? Thật ra cái bất ngờ chỉ đáng sợ khi Ngài đến mà đèn chúng ta đã cạn dầu, và những nén bạc Ngài giao vẫn còn bị chôn giấu. Nếu chúng ta luôn thanh thoát, sẵn sàng, thì việc Ngài đến sẽ là một bất ngờ thú vị.

Chúng ta dễ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim chúng ta dễ bị trì trệ, nặng nề, vì ăn nhậu say sưa, vì nuông chiều thân xác, hay vì quá lo lắng cho cuộc sống hiện tại.

Cả những lo lắng chính đáng cũng có thể kéo ta đi xa, và làm ta đánh mất khả năng dừng lại.

Chúng ta bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống mà quên tìm lẽ sống.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những điều kinh khủng những xáo trộn sâu xa trong vũ trụ vào ngày Chúa đến.

Chúng ta không nên hiểu mọi hình ảnh ấy theo nghĩa đen.

Điều quan trọng hơn là những xáo trộn nơi lòng người: lo lắng hoang mang sợ hãi đến hồn xiêu phác lạc… khi Đức Giêsu ngự đến uy nghi như vị Thẩm Phán.

Nhiều người sẽ khiếp sợ rụng rời trước nhan Ngài, nhưng đối với những ai đã tỉnh thức, cầu nguyện, thì đây lại là giây phút được mong đợi từ lâu Đấng họ chỉ thấy trong lòng tin, nay được diện đối diện.

Đây là cuộc hạnh ngộ giữa những người yêu nhau. Chúa nhận ra tôi, tôi nhận ra Chúa, và tôi hiểu rằng chẳng gì có thể chia lìa được chúng tôi.

Tư thế của người biết mình sắp được giải phóng là tư thế đứng, đứng thẳng, đứng vững, đầu ngẩng cao, lòng tràn ngập hy vọng và hân hoan vui sướng trước chiến thắng dứt khoát và trọn vẹn của Vua Giêsu.

Mùa Vọng nhắc ta lần đến đầu tiên của Con Chúa, và nhắc ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Ngài. Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Xin cho tôi luôn đứng thẳng, cao đầu ra đón Ngài, chẳng chịu bỏ lỡ một lần cùng Ngài gặp gỡ.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cuộc sống được đan bằng những bất ngờ. Mỗi ngày là một bất ngờ, nên mỗi ngày có hương vị riêng. Bạn nghĩ gì về những người mê bói toán? Bạn có thích biết trước mọi chuyện tương lai của bạn không?

Nếu ngày mai tận thế thì hôm nay bạn sẽ làm những việc gì?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những người sống không ra người.

Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để chia sẻ lời Chúa.

Chúa hiện diện nơi Giáo hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

17. Mở cửa tâm hồn đón Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Kính thưa cộng đoàn,

Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.

Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?

Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”.

Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.

Mùa Vọng trong Kinh Thánh

Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non…” (x.Is 11, 1-10).

Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)

Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)

Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.

Mùa Vọng

Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:

– Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi… (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )

– Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion… (Này hỡi Dân Sion…)

– Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete… (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)

– Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate… (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính…)

Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng

Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai: “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì  biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.

Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì quân khủng bố IS tại Syria. Nếu như các kitô hữu tại Irắc và Syria kêu la thảm thiết trong những năm qua, thì bây giờ là Nga và Pháp quốc hết sức lo lắng. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác nữa thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?

Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).

Năm Thánh Lòng Thương Xót

Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của Năm Thánh Lòng Thương Xót với khẩu hiệu Thương Xót Như Chúa Cha (x. Lc 6,36) là lời mời gọi sống lòng thương xót theo gương Cha trên trời, dạy chúng ta đừng xét đoán và kết án, nhưng hãy tha thứ và yêu thương vô giới hạn (x. Lc 6,37-38).

Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Đức Phanxicô nói: Người Kitô hữu được khích lệ mở các cửa của mình để cùng Chúa Cứu Thế giáng sinh đi gặp gỡ những ai đang đi trên đường. Sách Khải Huyền viết: “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta: “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.

Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng lòng thương xót với tình nhân loại, và sự cảm thương dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, để bước vào ngưỡng của lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải ý thức mình là người mang lòng từ bi thương xót, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình thương xót, tử tế, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, đau khổ với đồng loại.

Lạy Mẹ Maria, Thân Mẫu của Lòng Thương Xót, Thân Mẫu của Đấng Chịu Đóng Đinh và cũng là Thân Mẫu của Đấng Phục Sinh đã bước vào trong thánh địa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, xin dẫn chúng con bước vào cửa lòng thương xót cả Thiên Chúa. Amen.

18. Tỉnh thức đợi chờ.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế, anh lại xe buýt trên 1.500.000km không gây tai nạn nào. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một lời khuyên tương tự: “Hãy tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”, “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Hãy ngẩng đầu lên”, “Hãy nhìn cho kỹ”. Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.

Tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa dân Do Thái dựa vào lời các tiên tri loan báo, đã sống những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại sao đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.

Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần rõ rệt: Phần thứ nhất là những hiện tượng lạ lùng trong vũ trụ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có thực sự xảy ra như vậy không? Đây là một lối diễn tả theo thể văn Khải huyền. Khó mà giải thích cho được sáng tỏ, khó mà thông hiểu cho rõ ràng. Vũ trụ sẽ thay đổi thế nào, thay đổi lúc nào, xác định việc đó là công việc của khoa học. Còn đối với chúng ta, đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn về vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ. Sự liên đới giữa vũ trụ và con người rất mật thiết. Trước tiên là hỗn độn, hoang vu. Thiên Chúa can thiệp khi tạo dựng đất trời, sắp xếp đâu vào đấy: Thiên Chúa làm cho cảnh hỗn mang nguyên thuỷ biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy, vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thuỷ. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”. Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, huỷ diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó Dân Chúa được hạnh phúc.

Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây, tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng. Đó là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần thứ hai.

Hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc những lời khuyên nhủ này. Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta giữ lòng mình như thế nào? Phải chăng không ít những lần lòng chúng ta trở nên nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ, hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và gây nhiều tác hại cho xã hội. Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày thẩm định số phận của mình. Không ai biết được ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại, ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.

Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.

Anh chị em thân mến,

Một thoáng nhìn về tương lai không phải chỉ để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.

Để sống thực sự chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tuỳ cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết nào.

Cụ thể hơn mà nói: lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới: chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.

19. Ngày đại hoạ.

Ngày chung cuộc sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem và ngày thế mạt.

1. Ngày tàn của Giêrusalem

Khi nào thành phố bị quân đội ngoại bang bao vây, bấy giờ người ta mới ý thức được cái nguy cơ suy vong và huỷ diệt. Có người sẽ lên núi lánh nạn và nếu ai đang ở ngoài đồng sẽ không vào thành vì sự tàn phá thật khủng khiếp. ‘Vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi’. Lúc này dân chúng cảm thấy rất là yên ổn, hãnh diện về thành trì và đền thờ, nhưng một mai họ sẽ thấy cả hai chỉ còn là phế tích và sẽ chứng kiến cảnh tượng quốc gia hấp hối. Ngày đó, thật haĩ hùng. Điềm đó phải là ám hiệu báo động cho con người. Sẽ có ngày vũ trụ cũng tiêu ma như số phận của Giêrusalem.

2. Ngày tàn của thế giới

Bất thần ngày tân diệt sẽ đến, tai ương hoành hành trên trời và lòng người đầy âu lo. Đất bằng rung chuyển, ba đào dồn dập, niềm sợ hãi xâm chiếm mọi người. Lúc đó Con Người sẽ xuất hiện trong ánh huy hoàng. Đó là ngày tận số của thế giới, của các kẻ thù nghịch với Đức Kitô, của những ai quá tin nơi mình và vênh vang về công trạng của mình. Giờ phút hãi hùng ư? Đúng thế. Nhưng hãi hùng đối với những kẻ thù nghịch. Còn đối với các Kitô hữu đang sống trong hy vọng mong chờ Chúa đến. Những người thiết tha mong mỏi và khẩn nài Người trở lại thì đó lại là phút giây giải thoát. ‘Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến’. Hãi hùng sẽ đổi thành hoan lạc cho các Kitô hữu. Họ ý thức rằng cánh chung chính là khởi đầu. Vì đó là sự biến đổi, là sự quy hồi của muôn vật. Đấng Kitô mà lúc này đây ở Giêrusalem, đang bị trao nộp vào tay các kẻ thù và bị họ lên án tử mai ngày sẽ đóng vai thẩm phán uy quyền tuyên án trừng trị kẻ thù. Chúng ta đừng để thế gian lung lạc và lướt thắng…Phải nhớ đến ngày cánh chung và sống sao cho xứng vơí viễn tượng đó… Như thế cánh chung sẽ không còn là biến cố hãi hùng nhưng là bình minh hoan lạc trong tin vui Chúa quang lâm.

3. Dấu chỉ.

Không có dấu gì báo trước hay có thể tính toán chính xác ngày thế mạt. Những dấu chỉ mà Đức Giêsu cho biết nói lên tai hoạ đã bắt đầu. Lúc đó mới chuẩn bị thì đã quá muộn. Đức Kitô đã quả quyết rất rõ: người ta không thể biết ngày giờ xảy ra. Nếu có điềm báo thì chúng chỉ làm vướng víu chứ không ích lợi gì vì người ta cứ lao mình vào cuộc sống cũ và chỉ đổi đời khi nguy cơ hiện ra rõ ràng. Như thế họ sống một cuộc đời bấp bênh trong khi đáng lý họ luôn phải ở trong thế sẵn sàng.

Tuy nhiên cũng còn một dấu chỉ, một dấu chỉ duy nhất mà Đức Kitô sẽ cho thấy. Đó không phải là một thời điểm nhưng là một hiệu lệnh báo động: sự tàn phá Giêrusalem hay nói một cách rộng rãi vận mệnh của dân tộc Israel. Trong lịch sử loài người, Do thái giáo là một điểm thắc mắc to lớn. Ngay cả sự kiện hiện hữu, tính đặc thù của lòng tin, các kinh thư, nền luân lý và nhất là những chặng đường lịch sử diệu kỳ của dân tộc này đều là những hiện tương không thể giải thích theo thường tình. Israel là một vấn đề cao siêu, và xét theo bản chất sâu xa, nó là một vấn đề tôn giáo. Đó là một dân tộc thuộc về Thiên Chúa qua các sự kiện tuyển chọn, khước từ và sau cùng là cứu chuộc. Sự từ bỏ một dân đã chọn là một dấu báo động to lớn. Giêrusalem bị tàn phá và đền thờ bị triệt hạ đối với mọi người và mọi dân tộc, là một dấu chỉ cảnh cáo những kẻ từ bỏ Đức Kitô. Dấu chỉ là ở chỗ đó. Đó là lý do khiến Đức Kitô nối kết hai biến cố tận diệt Giêrusalem và thế mạt lại đến độ trùng hợp với nhau. Đức Giêsu luôn luôn trình bày hai biến cố đó song song với nhau về mặt tôn giáo chứ không phải về thời gian. Với ý nghĩa đó, sự sụp đổ của Giêrusalem là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc mà người ta không thể im im được. Có lẽ nó sẽ giúp cho thế giới tránh khỏi một cuộc tàn phá ghê sợ. Với ngôn ngữ và diễn từ đó, Đức Giêsu chẳng màng tranh chấp với ai nữa. Những ngày còn lại trong đời, người dành để giảng dạy dân chúng. Người không đả phá đối phương và họ cũng để cho Người yên ổn. Không còn tranh chấp nữa và tất cả đều án binh bất động. Thế nên, Thánh Luca khẳng định vắn tắt: ‘ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm thì Người đi nghỉ trên núi Cây Dầu. Và từ sáng sớm, toàn dân đến nghe Người giảng dạy trong đền thờ’. Đồng thời Thánh Luca tiết lộ thêm một chi tiết: ‘các thượng tế và luật sĩ tìm cách giết Chúa Giêsu nhưng họ lại sợ dân chúng’.

20. Ngày tận thế.

Đoạn Tin mừng hôm nay mô tả về ngày tận thế. Sự mô tả này thường làm cho chúng ta lo âu và sợ hãi, để rồi chúng ta thầm mong:

– Ước chi chúng ta đừng sống cho tới ngày ấy.

Tuy nhiên, để thoát khỏi lý đoán công thẳng của ngày ấy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta hãy suy gẫm và thực thi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô, vì ngày mai rất có thể là đã muộn. Lời khuyên nhủ ấy như thế này:

– Giờ đã đến, hãy tỉnh thức, hãy chổi dạy để Đức Kitô soi chiếu.

Phải chăng là chúng ta đang ngủ mê? Đúng thế, đời sống đã được ổn định và chúng ta không muốn một ai đến quấy phá. Thế nhưng, Đức Kitô lại chính là Đấng đã đến để quấy phá chúng ta.

Thực vậy, chúng ta có những thói hư tật xấu, nhưng lại không muốn ai đá động tới. Chúng ta có những quan niệm, những ý tưởng sai quấy, nhưng lại không muốn ai phê bình chỉ trích. Vì thế mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những kẻ tầm thường, nếu không muốn nói là những kẻ xấu xa.

Tôi đọc thấy trong một cuốn sách lời kết án sau đây:

– Kitô hữu là những kẻ ngủ mê, những kẻ nọa lực. Họ ngại dấn thân, họ ngại đổi thay và không đủ sức hoán cải cuộc đời mình cũng như cuộc đời người khác.

Chính vì thế, chúng ta phải chổi dạy, phải lên đường, phải ra khỏi tình trạng nọa lực và bất toại ấy. Thời gian sẽ trôi qua mau hơn chúng ta tưởng, để rồi vào giây phút cuối cùng, chúng ta phải bẽ bàng nhận ra rằng:

– Đôi bàn tay chúng ta thì trống trơn, không một chút công nghiệp và cuộc đời chúng ta chẳng để lại một dấu vết gì cả.

Ngày hôm nay, lời kêu gọi khẩn cấp, lời báo động SOS được gửi đến chúng ta:

– Hãy từ bỏ những công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.

Công việc của tăm tối, đó chính là rượu chè, cờ bạc, trai gái… nếu chúng ta chạy theo bóng đêm, sống buông thả cho những bê tha như thế, chúng ta sẽ trở thành những kẻ thù nghịch với Đức Kitô, vì như lời thánh Phaolô cũng đã nói:

– Ai thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh thân xác mình vào thập giá.

Thế nhưng, có những người đạo đức và thiện chí đã nhủ thầm:

– Tôi không mắc phải thói hư này. Tôi không vướng vào tật xấu kia. Tôi yêu thích sự nghèo khó. Tôi mến chuộng đức trong sạch…

Nghĩ như vậy rồi họ cảm thấy thanh thản và không cần phải cố tắng thêm nữa. Tuy nhiên, nếu hồi tâm xét mình cho kỹ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu khuyết điểm vì con người chúng thì bất toàn, bản thân chúng ta thì yếu đuối. Thánh nhân còn sai lỗi mỗi ngày tới bảy lần, huống nữa là chúng ta. Nào là những sai lỗi về lời nói, về đức công bằng. Nào là những hành động bác ái mình đã không thực hiện và những bổn phận đã quên sót. Nào là những tư tưởng không mấy trong sạch mình đã chiều theo.

Chính vì thế, một lần nữa chúng ta hãy khắc ghi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô:

– Hãy từ bỏ những công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.

Thánh Gioan Chrysostome đã chú giải thêm:

– Với vũ khí của ánh sáng, chúng ta sẽ trở nên chói lòa hơn cả những tia nắng mặt trời.

Tuy nhiên, muốn được như vậy, chúng ta phải kiên trì chiến đấu, không mệt mỏi, không chán nản, không tuyệt vọng vì sống chính là bơi ngược dòng nước. Nếu không cố gắng bơi, thì lập tức sẽ bị dòng nước cuốn trôi.

Dưới sự điều động và hướng dẫn của Đức Kitô, chúng ta hãy can đảm chiến đấu, kiên trì loại trừ tội lỗi, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng.

21. Để được cứu độ – Lm Nguyễn Nguyên

Đối với thể xác của con người, giấc ngủ thật là cần thiết. Theo lời khuyên của các bác sĩ, thì con người phải ngủ mỗi ngày ít là 7 tiếng đồng hồ mới đảm bảo cho sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu giấc ngủ cần thiết cho đời sống thể xác, thì đối với đời sống tâm linh, ngủ lại vô cùng bất lợi. Càng ngủ về mặt tâm linh nhiều bao nhiêu thì càng mau dẫn đến cái chết về mặt tâm linh bấy nhiêu. Hôm nay, chúng ta bắt đầu bước vào MùaVọng. Đây chính là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy ra sức chuẩn bị tâm hồn, đổi mới đời sống để đón nhận hồng ân cứu độ mà Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể ban tặng cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui ơn cứu độ, nếu chúng ta biết làm theo điều Chúa chỉ dạy: là hãy tỉnh thức và cầu nguyện.

Hãy Tỉnh Thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.

Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.

Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.

Cho nên, mùa Vọng nhắc chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh táo hơn. Bởi Kytô hữu không chỉ là con của Đất, mà còn là con của Trời; người Công giáo không chỉ lo lắng ở đời này mà còn biết bận tâm cho đời sau. Và trên mỗi bước hành trình, Thiên Chúa vẫn có đó. Ngài vẫn đang đến, đơn sơ, dung dị. Không trống phách tưng bừng, nhưng âm thầm lặng lẽ. Không uy nghi lẫm liệt như những bậc quân vương, nhưng trong hiền lành khiêm nhường của một người phục vụ. Không như vị quan tòa nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương. Nếu bén nhạy, nếu biết mở lòng ra, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá dung mạo của Thiên Chúa trong cuộc sống. Có thể Ngài đang đến qua những con người hiền lành, bé nhỏ quanh ta; có thể Ngài đang ở bên ta nơi những người anh em khốn khổ túng cùng, nơi những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Ngài có thể đang lẫn vào giữa đám đông vô danh, chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài xã hội, Ngài đang ẩn mình giữa đám người ăn xin lê bước trên đường, đang rét run với cặp mắt ngơ ngác giữa những nạn nhân của thiên tai, khủng bố. Vì thế, phải tỉnh táo lắm mới có thể nhận ra Ngài. Phải tỉnh thức lắm mới có thể gặp được Ngài.

Tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó mà chờ đợi, nhưng là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng, giao cho ta trách nhiệm trông coi gia đình, giáo xứ, quê hương và cả thế giới mình đang sống. Ta được tự do hành động, và có trách nhiệm làm cho môi trường mình đang sống được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức còn là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy Ý Chúa trong những trào lưu của thời đại, là nhận biết Chúa đang hành động trong những tâm hồn thiện chí. Để thay cho đối kháng, hay tranh giành ảnh hưởng, là cộng tác với nhau trong huynh đệ chân thành.

Như thế, mùa Vọng cũng gọi mời chúng ta bước vào cuộc hội ngộ lớn của hồng ân cứu độ, là mùa của dấn thân, nhập cuộc. Nếu ngủ mê vì quá bận rộn với những công việc vật chất, chúng ta sẽ ở bên lề biến cố trọng đại này, và có lẽ sẽ phải hối tiếc khôn nguôi. Cho nên, mùa Vọng mùa của tỉnh thức, và cũng là mùa của lên đường, ra khỏi cái vỏ ốc của ù lì, ươn lười để bước đi trong hân hoan và hy vọng.

Như thế, chúng ta sẽ không ngồi đó mà chờ đợi, hay an phận thủ thường, “ai sao tui vậy – ai làm bậy tui làm theo”. Nhưng sẽ bước vào mùa vọng này với một ngọn nến thật sáng trên tay. Ngọn nến của Bình An, Đổi Mới, ngọn nến của Yêu Thương, Hy Vọng. Để biết đâu, một lúc nào đó, chúng ta chợt nhận ra Chúa đang đến thật gần, chợt nhận ra Ngài đang hiện diện nơi một ai đó trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta?

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.

22. Tỉnh thức và cầu nguyện – R. Veritas.

(Trích trong ‘Mỗi ngày một tin vui’)

Nhìn vào những biến cố đổi thay, những xung đột, những cuộc chiến đẫm máu, những tranh đấu đầy bạo lực xảy ra nơi này, nơi kia trên thế giới, mỗi người chúng ta có thể tự hỏi:Thế giới này đang tiến về đâu? Con người đamh mong muốn điều gì cho mình?

Có thể có nhiều câu trả lời khác nhau và tùy theo câu trả lời này mà mỗi người chúng ta quyết định cho cuộc sống của mình. Nếu bảo rằng, thế giới đang tiến tới sự giàu sang vật chất, càng nhiều càng tốt thì cuộc đời chúng ta phải chăng là để tìm kiếm tiền bạc bằng mọi phương tiện trong tầm tay và cả ngoài tầm tay bằng việc gian lận, hối lộ, mánh mung.

Nếu bảo rằng, thế giới này đang tiến về cùng Thiên Chúa và nước của Ngài, nước công bằng và tình thương, nước của hòa bình và tình liên đới thì mỗi người chúng ta phải cố gắng làm sao để canh tân đời sống của mình theo những lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta trước sau gì cũng phải đặt ra cho mình câu hỏi và quyết định cuộc sống của mình dựa theo câu trả lời; câu hỏi đó là:Tôi có còn tin vào Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ và hướng dẫn đời tôi và lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn, tôi có còn tin hay không? Hay tôi tin vào một quyền năng, một thần tượng nào khác?

Trong lịch sử nhân loại đã có những bộ óc tài ba tin tưởng vào một điều gì khác ngoài Thiên Chúa, và bộ óc tài ba đó đã tạo ra những hệ thống tư tưởng, những ý thức hệ để xây dựng cuộc sống và xã hội con người, nhưng những ý thức hệ, những hệ thống này đã thất bại trước mặt chúng ta. Ngoài Thiên Chúa hay đối nghịch với Thiên Chúa, con người không thể xây dựng hạnh phúc cho cuộc đời mình và cũng không thể xây dựng một xã hội xứng đáng với phẩm giá của con người.

Cử hành thánh lễ Chúa nhật I Mùa vọng, chúng ta nói lên câu trả lời của mình, nói lên quyết định của mình. Câu trả lời của chúng ta là tin vào Thiên Chúa, vào Đấng cứu rỗi nhân loại. Ngài đã đến trong lịch sử nhân loại và đã mạc khải cho con người sự thật cứu rỗi qua việc Ngài đã thực hiện ơn cứu rỗi qua cái chết và sống lại của Ngài. Ngài đã đến, nhưng hằng ngày Ngài còn đang đến và sẽ đến trong vinh quang vào cuối cùng lịch sử của nhân loại. Ngài là khởi đầu và là cùng đích mọi sự, chúng ta đang hành trình tiến về Ngài. Đó là câu trả lời của niềm tin và niềm tin này cần được thực hiện trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần quyết định trở về với Thiên Chúa, canh tân đời sống mình, sẵn sàng đón nhận Chúa đến bất cứ khi nào Ngài muốn.

Vào những giây phút đầu tiên của năm Phụng vụ mới, chúng ta được mời gọi nhìn đến đích điểm sau cùng của cuộc đời là Chúa Giêsu Kitô ở cuối chân trời lịch sử, ở điểm kết thúc cuộc đời chúng ta trên trần gian này. Chúng ta được mời gọi nhìn vào Ngài đang đến và chắc chắn sẽ đến vào lúc chúng ta không ngờ. Nhưng không phải chỉ nhìn vào Ngài rồi án binh bất động, thụ động cam lòng chờ mà thôi, nhưng vừa nhìn đến đích điểm là Chúa đang đến với chúng ta, vừa chuẩn bị xem xét lại cuộc sống hiện tại của mình, tương quan giữa ta và Chúa hiện đang như thế nào?

Chắc chắn chúng ta đã nghe biết và thực hành Lời Chúa dạy: “Tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng việc chúng ta cầu nguyện đó đã có tác dụng như thế nào trong đời sống chúng ta? Chúng ta có trở nên gần gũi, thân thiện với Chúa Giêsu như người bạn thân yêu nhất của mình, đến độ chúng ta không còn lo sợ khi phải đối diện với Chúa và có thể nói:“Lạy Chúa, xin hãy đến, con vui mừng được gặp Chúa diện đối diện. Chúa là người bạn mà con từ lâu mong ước được gặp”. Chúng ta có thể nói như vậy hay chưa? Hay là chúng ta còn cần phải thực tập nhiều hơn nữa điều Chúa nhắc trong đoạn Tin Mừng hôm nay:“Tỉnh thức và cầu nguyện nhiều hơn nữa, thật lòng hơn nữa, đừng giam mình trong cảnh đời hưởng thụ vật chất đến độ quên Chúa”.

Chúng ta cần dốc lòng thực hiện điều mà thánh Phaolô đã nhắc nhở cho cộng đoàn tín hữu Thessalônica là bền vững trên con đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến:“Anh em thân mến! Tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này là anh em được chúng tôi dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa”.

Chúng ta đang tỉnh thức và cầu nguyện, nhưng chưa đủ, còn phải gia tăng sự tỉnh thức để đừng bị ngã quị trước những cám dỗ, những cạm bẫy làm ta xa lìa Chúa. Chúng ta cần kiên trì và gia tăng đời sống cầu nguyện nhiều hơn nữa, để Chúa Giêsu trở thành người bạn mỗi ngày mỗi thân mật hơn, đến độ chúng ta không còn lo sợ trước ngày Chúa đến với chúng ta, dù là một cách bất ngờ.

Lạy Chúa Giêsu, người bạn thân thiết nhất của con. Xin hãy thương giúp con duy trì tình thân mỗi ngày một khắng khít hơn với Chúa, để lời cuối cùng, con có thể thưa cùng Chúa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến. Con vui mừng được nhìn thấy Chúa, diện đối diện”. Chỉ như thế, ơn cứu rỗi mà Chúa đã đến để thực hiện cho mỗi người chúng con trên thập giá sẽ làm cho chúng con không uổng phí vô ích.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hướng dẫn chúng con canh tân đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Xin Ngài giúp chúng con được hiểu biết những sự thật Chúa Giêsu đã mạc khải mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn, để được trưởng thành trong tình yêu Chúa và trong đức tin.

23. Ngày Chúa ngự đến – R. Veritas.

(Trích trong ‘Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày’)

Vào năm 1987, người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: “After day” kể lại tình cảnh của ít người dân một thành phố lớn thuộc miền Bắc, Hoa Kỳ, còn sống sót sau một vụ nổ bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật thuộc nhiều đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc hoang tàn và đổ nát, đau khổ và thất bại của những người đang chờ mình phải chết vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu thức ăn chất uống. Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người sống sót của nhiều khu phố khác nhau đã tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng bất lực và tuyệt vọng.

Các bài đọc Chúa nhật hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là thứ ngày tận thế của chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới, cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Chương 33,14-16, sách Tiên tri Giêrêmia là một lời sấm và là văn bản tìm hiểu cho nền thần học cứu thế của Kinh Thánh Cựu Ước. Điểm nòng cốt của thần học cứu độ là sự chờ đợi ngày Đấng Thiên Sai, ngày Đấng Cứu Thế đến để thiết lập trời mới đất mới trong thế giới loài người. Trong “những ngày đó” hay “vào thời đó” là kiểu nói Kinh Thánh dùng để diễn tả tiến trình hiện thực của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp quan phòng của Ngài, đặc biệt dưới thời điểm và các biến cố của lịch sử mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp mà Thiên Chúa chọn. Trong bối cảnh của chương 34, ngày đó và thời đó có ý ám chỉ tình trạng sống lưu vong, ngày buồn thương của dân Do Thái, thảm cảnh phân rẽ của hai vương quốc Bắc Nam. Nhưng Thiên Chúa sẽ tụ tập dân chúng thuộc hai vương quốc lại với nhau và cho họ được thoát kiếp sống nô lệ, đày ải, để trở về quê cha đất tổ.

Tuy nhiên, lời sấm trên đây của Thiên Chúa vượt xa khỏi khung cảnh lịch sử của dân Do Thái. Bởi vì nó có thể được áp dụng vào cuộc sống của con người thuộc mọi thời đại, ở khắp nơi trên thế giới này. Một con người bị tội lỗi phân rẽ trong chính tâm lòng nó và sống kiếp đày ải xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ngài cống hiến ơn cứu độ cho tất cả mọi người, trong các thời điểm khác nhau, liên tục trong dòng lịch sử. Do đó, vấn đề là chúng ta có nhận ra thời điểm cứu độ đó hay không?

“Mầm giống sự công chính” là tên thường Kinh Thánh dùng để gọi Đấng Cứu Thế. Trong sa mạc nóng bỏng khô cạn của loài người, trên thân cây khô héo khẳng khiu của dòng tộc Đavít, Thiên Chúa khiến cho chồi lộc của niềm hy vọng và của ơn cứu độ nảy mầm tươi tốt. Tên gọi “Mầm giống sự công chính” diễn tả khí thế hành động của Thiên Chúa. Nếu tâm tính loài người thích phô trương, khoe khoang và chọn lựa cái vĩ đại, to tát, thì Thiên Chúa ưa thích kiểu cách hành sự khiêm tốn, kín đáo nghèo hèn, bé nhỏ. Đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế trẻ thơ được sinh ra từ lòng Trinh Nữ Maria. Chính Ngài là mầm giống của sự sống mới mà Thiên Chúa muốn cấy trồng vào giữa lòng lịch sử nhân loại.

Mặc dầu nhân loại tội lỗi, khô cằn và hấp hối, nhưng qua mầm giống sự công chính là Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không ngừng cống hiến nhựa sống thiêng linh của Ngài cho con người. Đấng Cứu Thế sẽ tái lập công bằng và vương quốc tinh thần của Ngài, trong đó, Ngài sẽ được gọi là Thiên Chúa sự công chính của chúng ta.

Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, sự công chính đồng nghĩa với ơn cứu độ toàn vẹn mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nó bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người từ chính trị, kinh tế, cho đến xã hội và tôn giáo. Con đường sự sống, con đường dẫn đến ơn cứu độ là con đường dẫn đến trời mới đất mới. Do đó, thời điểm của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đến trong tâm lòng và cuộc sống cho con người, không phải là ngày tận diệt, mà là ngày giải phóng. Bởi vì nó khai mào cho một cuộc sống mới, cuộc sống theo tinh thần của con cái Thiên Chúa.

Qua văn bản các hình ảnh biểu tượng của nền văn chương Khải Huyền, chương 21 Phúc Âm thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta biết tỉnh thức nhận ra các dấu chỉ của thời điểm cứu độ ấy trong đời mình. Để đường lối cuộc hẹn hò với Thiên Chúa, niềm tin vào ơn cứu độ và giải phóng giúp chúng ta hiên ngang ngẩng đầu lên sống tươi vui, tin tưởng ngay giữa những gian lao thử thách và khổ đau của cuộc đời. Vì thế cho nên, những biến động và tai ương cho dầu có kinh thiên động địa đến đâu đi nữa, cũng đều là các dấu chỉ kêu mời chúng ta hồi tâm suy nghĩ và hoán cải tâm lòng, chớ không được khiến cho chúng ta khiếp sợ, tê liệt, khép kín và chán nản thất vọng.

“Con Người” là tước hiệu Kinh Thánh dùng để diễn tả hoạt động của Chúa Giêsu cứu thế. Trong tư cách là vị quan án tối cao phán xử mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung, Chúa Giêsu đã đến trong dòng lịch sử nhân loại và trong lịch sử Tin Mừng cứu độ, qua cuộc khổ nạn cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu tiếp tục đến qua lời Ngài, qua tin vui cứu độ được Giáo Hội tiếp tục rao giảng và Chúa Giêsu sẽ trở lại trong ngày lịch sử cứu độ thanh toán bản án. Muốn nhận ra sự hiện diện và bước chân của Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống và hành sự theo tinh thần Đức Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu soi đời mình. Đặc biệt trong những bước đi, trên những đoạn đường hầm đen tối của cuộc đời này. Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ, và không để cho tâm lòng của chúng ta bị thế giới vật chất nặng nề cầm chân và nhận chìm cuộc sống thiêng linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu là một mầm giống cần được vun trồng, chăm bón, ấp ủ với hơi ấm của con tim và ánh sáng của niềm hy vọng.

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thêsalônica, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy một bí quyết để vun trồng sự sống thiêng linh ấy cách hữu hiệu, đó là phải có thái độ căn bản muốn sống đẹp lòng người ta, dầu người ta ấy có là ai đi nữa. Nhưng phải làm gì để đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta yêu thương với một tình yêu thương không so đo, tính toán hơn thiệt và không loại trừ chọn lựa, yêu thương hết mọi người và yêu thương tràn đầy chan chứa. Thiên Chúa vui sướng và hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.

Ngoài ra, cần phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm lòng và cuộc đời chúng ta bằng cách sống thánh thiện và kiên vững. Bởi vì nói cho cùng, sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn, yêu thương đến tận hiến chính mạng sống mình cho tha nhân. Càng biết yêu thương tha nhân, tình yêu vô vị lợi cụ thể và cao đẹp bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu thì càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu, và đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và khiến cho Ngài sung sướng nhất, hạnh phúc nhất.

Thế giới và xã hội loài người khổ đau vì loài người không yêu thương nhau đủ, hay không thương yêu nhau theo tinh thần của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thiêng linh và xây dựng trời mới đất mới cụ thể và hữu hiệu.

24. Sống tâm tình Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc rằng: Tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho một Năm Phụng vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu Năm Phụng vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25-12 và trước đó Giáo Hội dành 4 tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một Năm Phụng vụ là Mùa Vọng.

Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Đối với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian 4 năm hay 5 năm ngồi ở giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường. Đối với người Dothái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong lịch sử cứu độ, hành trình của hơn 1.000 năm chờ đợi Đấng Cứu Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian 4 tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong Năm Phụng vụ mà Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi sống tâm tình Mùa Vọng của Năm Phụng vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài, mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.

Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui, hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại. Nói khác đi, Mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho biến cố Giáng Sinh tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và đón chờ Đức Giêsu Kitô là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?

– Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên trong tâm hồn.

“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo đèn, hội tiệc… là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân quý Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thương mại trong mùa này. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày lễ”, bởi vì ngày sinh của Chúa không phải là ngày lễ thường mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được trở nên thánh thiện (A Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc Chúa Giáng Sinh thì làm sao có ngày lễ để mà “happy holidays”? Do đó, khi gửi thiệp, tặng quà cho nhau, chúng ta hãy nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một tấm lòng chân thật, biết ơn người khác” (Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng, “Trông đợi”).

– Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh thức.

Điệp khúc “hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xảy đến bất ngờ cho con người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.

Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người uống rượu… cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởi đó, nhiều lần ta nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến) khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời,…

Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tàu. Dân chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tàu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ. Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết thảm trong trận hồng thuỷ thời bấy giờ.

Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Nếu chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Trời. Amen.

25. Hướng về ngày Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Tôma Nguyễn Văn Hiệp)

Hôm nay Giáo Hội bước vào chu kỳ Năm Phụng vụ mới bắt đầu với Mùa vọng. “Mùa vọng” là danh từ “Nôm”, “vọng” () là chữ mượn Hán, có nghĩa là: hướng đến, trông chờ, mong đợi. “Mùa vọng” tiếng La tinh là “Adventus”, có nghĩa là: đến, hiện diện hay hiển trị. Trong cử hành phụng vụ, Mùa vọng gồm 4 Chúa nhật và chia làm hai giai đoạn: giai đoạn một từ Chúa nhật I Mùa vọng đến hết ngày 16/12 là thời gian hướng tâm hồn người tín hữu đến ngày Quang lâm, ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai trong vinh quang; giai đoạn hai từ ngày 17 – 24/12, là tuần lễ chuẩn bị trực tiếp mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người.

Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn hướng về “Ngày Chúa đến”.

Bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia tuyên sấm về một Đấng Công chính mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để giải thoát muôn dân: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.” (Gr 33,15). Đấng Công chính ấy là Đức Giêsu Kitô giáng trần để ban cho nhân loại Tin Mừng Tình yêu cứu độ.

Bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi dân thành Thêxalônica hãy sống Tin Mừng tình yêu để xứng đáng đón Chúa đến lần thứ hai. “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1Tx 3,12-13).

Bài Tin Mừng, thánh Luca mượn ngôn ngữ khải huyền của Cựu Ước để nói về lần thứ hai Chúa đến, đó là ngày quang lâm. “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 34-36).

Thời gian gần đây (cuối tháng 11/2012) trên mạng lại bắt đầu râm ran tin tức đã gây ồn ào một thuở trước đây là ngày 21/12/2012 sẽ là ngày tận thế theo lịch người Maya cổ đại. Người ta lại nhân danh cả cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA của Mỹ làm vỏ bọc cho sự chính xác, củng cố niềm tin của độc giả. Tin tức này đã được các tờ báo hay các trang mạng lật tẩy sự “nửa vời”, không chính xác và thiếu thành thật. Thế nhưng nó cũng tạo ra một hiệu ứng hoang mang lo lắng cho một số người thiếu sự suy nghĩ chín chắn.

Chính Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã kêu gọi mọi người công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” hôm 18/11/2012 tại Vatican. Từ bài Tin Mừng trong ngày Chúa nhật 33 Thường niên (Mc 13, 24-32), Chúa Giêsu tiên báo về “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”, ngài giải thích: Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt; Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Cuối cùng Ngài khẳng định: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi”.

Giả như ngày tận thế có xảy ra thật vào ngày 21.12.2012 thì cũng chẳng có gì phải lo lắng nếu sống đúng lời dạy trong trang Tin Mừng hôm nay là “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. “Đứng thẳng và ngẩng đầu lên” là sống bác ái, công bằng, thành thật theo Tin Mừng. “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn” là luôn trong tư thế sẵn sàng, lòng qui hướng về Chúa, về đời sống mai sau mà vượt thắng mọi cám dỗ đam mê tội lỗi. Chúng ta chỉ hoang mang lo sợ ngày tận thế khi chúng ta đang ở trong tình trạng nặng nề, chìm đắm, buông thả, chạy theo những sự chóng qua của thế gian.

Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn để mỗi người chúng ta biết thức tỉnh, luôn ý thức mình là con cái Thiên Chúa có quê hương đích thực trên trời mà luôn quảng đại dấn thân sống yêu thương phục vụ theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu và luôn kết hiệp với Người trong mọi phút giây của cuộc sống. Có như thế chúng ta là những tín hữu “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”; là những chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chờ đợi Chúa trong ngày quang lâm chung thẩm. Amen.

26. Tỉnh thức và cầu nguyện – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Đức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Đức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.

Chị y tá nữ tu Dòng Nử Tử Bác Ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.

Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói: – “Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa”.

Viên sĩ quan mỉa mai: – “Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi!”

Chỉ nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục: -“Thú thực với ông, đã mười sáu năm nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa”.

Viên sĩ quan ngạc nhiên: -“Mười sáu năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc phải là ân nhân của nhà Dòng?”

Chị nữ tu trả lời: -“Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Đức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Đã mười sáu năm qua, tôi và cả nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh”.

Người sĩ quan gặng hỏi: -“Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?”

Chị nữ tu vô cùng ngạc nhiên: -“Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?”

Đến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận: -“Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt mười sáu năm qua.

Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.

Họ bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.

Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.

Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.

Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ.

Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.

Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.

Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc. 21, 35). Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Người bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.

Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức

Nếu chúng ta luôn “tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc. 21, 36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc. 21, 25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc. 21, 26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc. 21, 28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.

Lạy Đức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa; nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.

Xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện”, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát, hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen.

27. Chờ Chúa đến – Lm. John Nguyễn

Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại.

Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống. Thế thì, đâu là ý nghĩa của việc chờ đợi và hy vọng của Mùa Vọng?.

Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì gia đình em quá nghèo. Họ không còn tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: “Hôm nay, nhà em không còn tiền và cũng không gì để ăn” Nghe lời chị ta nói, lòng tôi như bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi bị xúc động trước nỗi bất hạnh của em. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Tôi nhìn đôi mắt của em, thì hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Mặt dù, tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.

Cậu bé đã từng có những hy vọng và chờ đợi. Hy vọng một tương lai tốt đẹp. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra để em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng, và em đã kết thúc cuộc đời. Và tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải về những gì mình chưa làm được với một lời hứa. Từ kinh nghiệm này giúp tôi liên tưởng đến ý nghĩa của sự chờ đợi và hy vọng.

Chờ đợi không chỉ là mong đợi những điều tốt có thể sẽ xảy ra trong tương lai, mà là biết nhận ra những ân ban của Thiên Chúa cho ta trong cuộc sống hiện tại này. Giá trị của cuộc sống hiện tại của con người là kết quả cho cuộc sống tương lai tốt đẹp. Chờ đợi không chỉ đón nhận những điều tốt mà thôi, nhưng là còn phải chấp nhận những gì ngoài ý muốn của mình. Hơn nữa, chờ đợi không phải là ngồi đó để than van, trách móc, tủi hờn cho số phận, nhưng phải biết tìm kiếm và im lặng để lắng nghe được tiếng Chúa nói trong ta, và thực hiện bằng việc làm cụ thể.

Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Và ngày đó, Thiên Chúa phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương. Chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người với chúng ta, và Ngài chết cho con người để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại, thì giờ đây Chúa đang ở cùng với chúng ta, và nơi những người anh em. Những người bất hạnh đang bị bỏ rơi, những người già bệnh tật, cô đơn, những trẻ em mồ côi đang cần có tình thương…

Có những mãnh đời đã đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như là một lời nhắc nhớ rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và bác ái trong Mùa Vọng.

28. Đứng lên.

Cùng với Chúa nhật thứ I Mùa vọng, hôm nay chúng ta cử hành ngày đầu năm phụng vụ. Thánh lễ này mời gọi chúng ta lại hướng về Thiên Chúa như hướng về Đấng đang đến, tức là hy vọng, chờ mong và nhận ra Ngài đến ở chúng ta. Vì mùa vọng là những ngày mong đợi Ngài đến.

Để đánh dấu ngày đầu năm phụng vụ, có lẽ phải nhìn lại một chút chu kỳ phụng vụ, để rồi chúng ta lại quay về Đấng mà chúng ta dám hy vọng và khẳng định rằng Ngài đang đến. Nhưng việc Chúa đến và niềm hy vọng Chúa đến nằm trong một chuyển động liên tục, chuyển động của đức tin. Quả thật làm sao chúng ta có thể hy vọng hoặc nhận ra ai đó đang đến nếu chúng ta không tin nơi người ấy, nếu chúng ta không biết người ấy?

Để nhấn mạnh vị trí của mùa vọng trong chuyển động của đức tin, bản văn Tin Mừng hôm nay được chọn không phải ở đầu nhưng ở cuối Tin mừng thánh luca. Bởi vì chúng ta không chỉ đợi chờ ngày Giáng sinh của Đấng Cứu thế – đã xảy ra từ hơn 2000 năm nay, nhưng còn chờ đợi việc Ngài trở lại trong vinh quang, việc này cuối cùng sẽ cho chúng ta nhìn thấy thế giới trong ánh sáng hoàn toàn, “đứng lên trước mặt Con Người”. Vì vấn đề là chúng ta có thể đứng lên trước mặt Chúa Giêsu, vì chính Ngài sẽ đứng trước mặt chúng ta. Kỳ thực, như toàn bộ Tin mừng và đức tin Kitô khẳng định, Ngài đã đứng đó với chúng ta rồi.

Vậy sống mùa vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống mùa vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và xung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.

Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự tháchthức của những dấu lạ đó hoặc tầm thường hóa chúng ta vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến dâng mạng sống mình để cho thế giới được sống.

Mặc dầu danh từ mùa vọng gần với “mạo hiểm” hơn là “chờ đợi” nhưng chúng ta thường đồng hóa mùa vọng với chờ đợi. Tôi nghĩ chúng ta cần phải sống mùa vọng như một cuộc mạo hiểm, cuộc mạo hiểm mà Thiên Chúa thực hiện giữa chúng ta, từ việc Chúa Giêsu ra đời vào ngày Giáng sinh, đến việc Giáo Hội sinh ra ngày lễ ngũ tuần. Cuộc mạo hiểm này, được Tin mừng và toàn bộ Thánh Kinh làm chứng, nhắc nhở chúng ta phải sống, chứ không chỉ chờ đợi mà thôi. Thí dụ chúng ta hãy nghĩ đến những gì đã xảy ra cho chúng ta khi chờ một cú điện thoại của người thân và chúng ta phải thất vọng vì nó không đến. Lúc đó chúng ta đâm ra chán nản vì sự trễ nải hoặc thờ ơ của người kia mà càng lúc chúng ta càng bị lệ thuộc.

Đôi khi chúng ta lại chẳng chờ mong Thiên Chúa như một kinh nghiệm lệ thuộc đó ư? Chỉ mong sao cho Đấng sẽ cứu chúng ta, sẽ phán xét và chỉnh đốn thế giới đến mau cho rồi! Nói cách khác, mong sao cho đấng sẽ sống thay chúng ta cuộc mạo hiểm của đời sống của chúng ta đến mau cho rồi, trong lúc cuộc mạo hiểm đó là của chúng ta dù được sống cùng với Thiên Chúa đi nữa! Tôi nghĩ rằng chúng ta phải cùng với Chúa sống mùa vọng, sống cuộc mạo hiểm hoặc việc Chúa đến phán xét và chỉnh đốn thế giới chúng ta. Đó cũng là việc hoán cải mà mùa vọng mời gọi chúng ta làm.

Lúc đó chúng ta có thể nhận ra vinh quang của đấng mà chúng ta tuyên xưng là Chúa của chúng ta. Lúc đó chúng ta có thể nói cùng với vị ngôn sứ:“Chúa là sự công chính của chúng ta”, và có thể đứng trước mặt Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống tình yêu của Ngài… trong lúc chúng ta chờ mong Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống cuộc mạo hiểm làm người của chúng ta dưới dấu hiệu tình yêu của Ngài, bất chấp mọi nguy hiểm và khó khăn.

29. Mở Lòng Chờ Chúa Đến – Anmai

Có lẽ, hơn ai hết, dân Israel có kinh nghiệm chờ đợi Đấng Thiên Sai.

Thiên Chúa đã thiết lập giao ước tình yêu với dân, Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng thế nhưng mà dân đã không nhận ra tình yêu đó. Nói không nhận ra thì cũng không đúng. Nhận ra đó nhưng nhiều lúc cứng tin và nản lòng nản chí để rồi đi tìm cho mình một thần minh khác ngoài Thiên Chúa. Cứ tưởng là thần minh đó sẽ làm cho cuộc đời mình, làm cho dân tộc mình khá hơn dân tộc khác nhưng đâu có biết rằng dân cứ mãi bước đi trong lầm than.

Đã quá nhiều lần bỏ Chúa để đi thờ thần này, tượng kia. Ít là hơn một lần kinh nghiệm của việc dựng bò vàng lên để thờ hay chạy theo các thần của Baal. Lẽ ra chỉ thờ mình Thiên Chúa vì Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ của đời mình nhưng không, đi tìm thần khác.

Thiên Chúa, Ngài cũng giận đó chứ nhưng Ngài vẫn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Độ dù dân của Ngài cứ phải lòng chai dạ đá với Ngài.

Bằng cách này cách khác, người này người kia, Thiên Chúa, nói to cũng có, nói nhỏ cũng có rằng sẽ có Đấng Cứu Độ đến để giải thoát dân và mang ơn cứu độ cho dân.

Hôm nay, qua lời ngôn sứ Giêrêmia, chúng ta nghe đây lời Chúa phán: Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện tin mừng Ta loan báo về nhà Israel và nhà Giuđa. Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: “Thiên Chúa, Đấng Công Chính của chúng tôi”.

Thế đó, ngày Đấng Công Chính đến sẽ giải thoát cho dân và sẽ cho dân sống một cuộc sống yên ổn, bình an và hạnh phúc.

Và, sau đó một thời gian dài, Đấng Cứu Độ trần gian mà các ngôn sứ đã đến ở giữa trần gian, để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho dân.

Trong hành trình loan báo Ơn Cứu Độ, loan báo Tin Mừng, nhiều và quá nhiều lần Chúa Giêsu nói cho mọi người biết về ngày mà Con Người đến trong vinh quang và quyền năng của Ngài.

Hôm nay, qua trang Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”.

Không chỉ thế, Chúa Giêsu còn dạy thêm cho các môn đệ rằng: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!”

Trong tâm tình đó, nhiều và nhiều lời được khuyên nhủ, được loan báo tư thế của những người đón chờ Đấng Cứu Độ trần gian, đón chờ Chúa đến.

Để đón chờ Chúa đến, chờ Đấng Cứu Độ đến, đời sống của chúng ta cũng phải sống trong tâm tình chờ đợi. Tâm tình chờ đợi đó được Thánh Phaolô tông đồ gửi thư cho giáo đoàn Thessalônica cũng như gửi cho mỗi người chúng ta: Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh.

Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em.

Vâng ! Có lẽ lời mời gọi của thánh Phaolô là một lời mời gọi hết sức thiết thực, hết sức gần gũi với mỗi người chúng ta.

Hãy sống làm sao như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, bình an và hạnh phúc. Tính đi tính lại, cuộc đời chúng ta thật vắn vỏi.

“Ngàn năm Chúa kể là gì,

tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,

khác nào một trống canh thôi!”(c. 4)

Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.

(Tv 89, 10)

“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (c. 2).

Để rồi từ đó, ta mỗi ngày thức dậy ta nguyện xin:

“Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,

để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (c. 14).

Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn hướng về ngày cuối cùng của đời ta và ta luôn sống trong tâm tình chờ đợi Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta.

30. Mùa tỉnh thức – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.

Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.

Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.

1. Mùa Vọng – Mùa loan báo.

Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.

Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.

Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.

Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.

2. Mùa Vọng – Mùa chờ đợi

Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách:

– Chúa đến trong lịch sử nhân loại.

– Chúa đến trong ngày phán xét chung.

– Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.

– Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.

Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.

Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.

Một lần nữa nhiều người lại bàn cãi về ngày tận thế, lần này thì thời điểm sẽ là ngày 21 tháng 12 năm 2012…

Sự ồn ào về ngày tận thế đã không khỏi vang đến tai Đức Giáo Hoàng. Ngày 18/11 vừa qua, Ngài đã lên tiếng kêu gọi chúng ta nên dừng lại “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” mà nên “suy ngẫm một cách sâu sắc hơn và đúng nghiã hơn”.

Đề cập đến đoạn Phúc âm mô tả “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng từ trời xuống”, Đức Giáo Hoàng cho biết Chúa Giêsu đã không mô tả “ngày tận thế” theo như cách chúng ta nghĩ là một “lời tiên tri”, mà thực ra là Chúa muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi những đồn đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt. Chúa “muốn cho chúng ta một chiếc chìa khóa để suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng nghĩa hơn, và chỉ cho chúng ta con đường phải đi để bước vào cuộc sống vĩnh cửu”. (x.Vietcatholic.org, ngày 11/23/2012).

Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.

Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.

Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.

3. Mùa Vọng – Mùa tỉnh thức

Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “ lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.

– Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.

– Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.

Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.

Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình.

Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.

Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.

a. Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:

Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.

b. Dụ ngôn người quản gia trung thành.

Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.

Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.

Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.

Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.

Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.

Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.

Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.

Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.

Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.

31. Hãy coi chừng!

Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta phải đề phòng. Bắt đầu bài Phúc Âm, Chúa Giêsu phán: “Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện.”

Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta phải đề phòng ngày tận thế hoặc là ngày cuối đời của chúng ta, bất cứ cái nào đến trước.

Ngài cảnh cáo chúng ta rằng khi Ngài đến thì có thể sẽ bắt gặp chúng ta đang hững hờ. Lúc Ngài đến có thể là lúc mà chúng ta không chuẩn bị.

Nói một cách khách quan hơn, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta bắt đầu cuộc sống mà chúng ta phải sống. Ngài kêu gọi chúng ta đừng trì hoãn và hãy bắt đầu sống như là tối hôm nay Ngài sẽ đến gặp chúng ta. Ngài nhắc chúng ta hãy đề phòng cuộc sống có thể đưa đẩy làm cho chúng ta không làm những gì mình phải làm.

Chúng ta lấy câu chuyện của Tom Anderson ở Bernardsville, NJ làm ví dụ. Tom mướn một căn phòng tại một bãi biển khi anh đi nghỉ hè. Khi anh lái chiếc xe ra biển với người vợ, anh đã tự làm một lời hứa trịnh trọng rằng trong hai tuần này, anh sẽ cố gắng để làm một người chồng tốt.

Trong hai tuần đó, anh đã không gọi điện thoại về hãng, hãm lại cái lưỡi của anh khi anh muốn nói những lời bực tức. Trong hai tuần đó, Tom là người suy nghĩ chín chắn, dễ thương, và biết quan tâm đến người khác.

Vợ của Tom nhận ra điều khác thường đó nên tối cuối của hai tuần nghỉ, chị nhìn thẳng vào anh một cách âu yếm và gương mặt đượm một nỗi lo âu. Thấy thế, anh hỏi chị: “Em ơi, chuyện gì vậy?”

Nước mắt từ từ trào ra trên má, chị đáp: “Có phải anh biết điều gì đó mà em không biết?”

“Em nói như vậy có nghĩa gì?” anh hỏi lại.

“Thì,” chị trả lời, “tuần trước khi em đi gặp bác sĩ để khám tổng quát. Xin anh hãy nói sự thật cho em biết đi. Có phải ông bác sĩ đã nói với anh là em có chuyện gì phải không? Có phải ông đã nói là em sắp chết? Có phải vì lý do đó mà anh đã đối xử rất tử tế với em?”

Tom đã lăn ra cười. Đặt vòng tay vào lưng vợ, Tom trả lời: “Em ơi, em không chết đâu! Chỉ là vì bây giờ anh mới bắt đầu sống.”

Câu truyện đó diễn tả một cách sống động sứ điệp mà Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay. Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu sống. Ngài khuyến khích chúng ta đừng bỏ qua những điều mình phải làm. Ngài khuyến khích chúng ta hãy đề phòng đừng để cho cuộc sống này qua đi một cách vô ích.

Nói một cách trực tiếp hơn nữa là Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu Mùa Vọng này giống như là Tom đã bắt đầu hai tuần nghỉ của anh.

Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng này để bắt đầu sống cuộc sống mới. Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này để yêu thương tha nhân như là chúng ta phải yêu.

Nói một cách tóm tắt, bài Phúc Âm hôm nay là một sự nhắc nhở của Chúa Giêsu rằng cuộc sống của chúng ta đang từ từ trôi qua mà chúng ta đã không làm điều mà chúng ta phải làm.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Mẹ Têrêsa: “Mỗi người có một sứ mệnh để thi hành, sứ mệnh đó là yêu thương. Khi giờ chết đến, chúng ta sẽ đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ bị phán xét về lòng yêu thương; không phải chúng ta đã làm bao nhiêu, nhưng chúng ta đã biết bỏ bao nhiêu tình yêu vào những công việc của mình.”

32. Hãy nhìn đường – Gm. Arthur Tonne

Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt thuộc bang Oklahoma đạt kỷ lục xuất sắc. Trong 23 năm, anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”

Bài Tin mừng hôm nay cho một lời khuyên tương tự “Hãy tỉnh thức luôn”. Đức Giêsu dùng nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”. “Hãy để ý” “Hãy ngẩng đầu lên”. Đó không phải chỉ là lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là qui luật an toàn cho đời sống thường ngày nữa, chúng ta cũng thường nói: “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Ngẩng đầu lên”, “Nhìn cho kỹ”.

Để lái một chiếc xe hay một chiếc xe buýt, chúng ta “phải nhìn đường”, một lực sỹ thể thao cần phải lẹ mắt anh phải sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ, anh phải theo dõi trái banh.

Muốn đạt kết quả trong trường. Người học sinh phải nhìn thầy, cô giáo, các em phải chăm chú, lắng nghe, phải theo dõi những gì đang diễn tiến, phải lắng nghe những thầy cô giảng.

Qui luật này cũng áp dụng cho công việc thường ngày của chúng ta nữa; một bà mẹ canh chừng con nhỏ, để ý đến cái nồi, cái chảo trên bếp, bà cũng phải chăm chú và cảnh giác.

“Ngước đầu lên” được áp dụng đặc biệt trong phụng tự công chung của gia đình Thiên Chúa- nhất là trong Mùa vọng này. Chúng ta phải tỉnh thức trong thánh lễ, không phải chỉ tỉnh thân xác mà thôi, nhưng thức tỉnh cả tâm trí và linh hồn. “Hãy nhìn đường” có thể đổi là “Hãy nhìn bàn thờ”. Hãy theo dõi những lời cầu nguyện và những câu đối đáp. Hãy mở miệng ca hát. Hãy cố gắng nắm lấy ý nghĩa những gì bạn đọc, bạn hát. Hiểu ý nghĩa của từng lời, từng chữ.

“Hãy ngẩng đầu lên”. Hãy nhìn của Lễ Thánh, nhìn chén Máu Thánh châu báu. Chúng ta đang tiến đến cùng Chúa Kitô trong lúc này. Ít phút nữa chúng ta sẽ gặp Ngài trong Giáng sinh của thánh lễ. Ít tuần nữa chúng ta sẽ mừng Ngài trong giáng sinh của Belem. Ít năm nữa, chúng ta sẽ ở với Ngài trong giáng sinh vô tận trên thiên đàng. Hãy chuẩn bị cho cả ba lễ giáng sinh đó. Nhìn đường, nhìn bàn thờ.

Ý tưởng này lặp đi lặp lại trong bài đáp ca hôm nay: “Ôi lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa”

Xin dạy bảo con lối bước của Chúa… xin hướng dẫn con trong chân lý của Chúa… Chúa chỉ cho con đường lối.. Chúa hướng dẫn người khiêm nhường.. Mọi nẻo đường của Chúa thì thiện hảo và vững bền.

Cuộc sống hàng ngày cũng giống như lái một chiếc xe, nhất là chiếc xe buýt, chúng ta có trách nhiệm thiêng liêng với tha nhân. Chúng ta cần một người chỉ đường và hướng dẫn.

Qua lời cầu nguyện và việc dâng Thánh Lễ, xin Chúa Giêsu giúp chúng ta tỉnh thức, xin Người giúp chúng ta tránh khỏi những gì làm chúng ta vấp ngã. Tránh khỏi những gì làm thiệt hại cho những người chúng ta chịu trách nhiệm. Xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận Người đến trong Thánh Lễ, người đến trong Lễ Giáng Sinh và Người đến trong uy quyền và vinh quang trong phút cuối cuộc hành trình của chúng ta. Amen.

33. Chú giải của Noel Quesson.

Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu nhiệm của Đức Giêsu.

Ngay từ Chúa nhật đầu tiên này, chúng ta được đặt vào một biến cố “sớm hơn”. Thời gian Mùa Vọng là thời gian gợi lại việc Đức Kitô “đến”: Ngài đã đến tại Bêlem ngày Giáng sinh… Ngài đang đến trong mỗi biến cố, trong mỗi bí tích… Ngài sẽ đến vào Ngày cánh chung.

Đức Giêsu nói với các môn đệ biến cố Người quang lâm:

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét….”.

Ở đây chúng ta tiếp cận với lối văn “khải huyền”. Loại văn chương này xuất hiện tại Israel, hai thế kỷ trước Đức Giêsu, và kéo dài sau đó một thế kỷ nữa. Lối văn Kinh thánh này tiếp theo thời kỳ ngôn sứ. Mọi hy vọng của các ngôn sứ đều đã đổ vỡ: dân Israel, thay vì được độc lập lại bị tháp nhập và chịu lệ thuộc các đế quốc ngoại giáo liên tiếp, khiến ta có cảm tưởng là lịch sử đã thoát khỏi bàn tay điều khiển của Thiên Chúa. Đó là một gai chướng, một thử thách cho đức tin. Do đó, trước hết, trào lưu khải huyền muốn phục hồi niềm hy vọng, bằng cách dù gặp thất bại, vẫn lớn tiếng hô lên sứ điệp của các ngôn sứ: Thiên Chúa là chủ tể lịch sử. Ngài sẽ chiến thắng: Chiến thắng trên sự dữ. Vì không ai biết chiến thắng sẽ được thực hiện như thế nào, nên người ta diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ, với những hình ảnh vũ trụ vĩ đại và lộng lẫy.

Theo kiểu nói truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất, biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để “tạo dựng” một thế giới mới. Ta có thể so sánh với Isaia (13,9-10.34, 3-4), trong sách đó tác giả cũng dùng những hình ảnh thảm lại để diễn tả sự sụp đổ của Babylon: đó là một bằng chứng nói lên, ta không được hiểu những hình ảnh đó theo mặt chữ. Các vì sao sẽ “từ trời rơi xuống”, “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa”, là cách nói nhằm diễn tả Thiên Chúa là chủ tể. Cũng đừng quên rằng, phần lớn các dân tôc phương Đông cổ đều thờ các tinh tú như những thần linh ngự trên cao, điều khiển thế giới và quyết định số phận con người. Và ta nghĩ đến khoa tử vi cùng chiêm tinh học hiện nay vẫn còn ăn khách. Nếu “chủ dân”, các “goim”, tôn thờ các tinh tú như các thần linh mới, thì Israel trong truyền thống khải huyền của mình đã tuyên bố rằng, sẽ có ngày những thần linh này bị tiêu tan một cách thê thảm: các vì sao, mặt trời sẽ rớt xuống… không có thần nào khác, ngoài Thiên Chúa!

Chính Luca cũng không ngần ngại sử dụng thứ ngôn ngữ khải huyền này, để ghi lại một cuộc nhật thực vào lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Lc 23,44): đó là cách nhấn mạnh rằng, nhớ biến cố lịch sử tại đồi Golgotha, Thiên Chúa đã dứt khoát can thiệp vào lịch sử loài người: Đức Giêsu sẽ đến trên mây trời! Thế giới cổ xưa qua đi, một thế giới mới đã khai sinh! Thập giá, đó là cuộc chiến thắng, là vinh quang của Ngài, mà buổi sáng Phục sinh sẽ làm bừng dậy cách công khai trước một thái dương mới.

Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.

Hơn thánh Máccô trong đoạn văn tương tự, mà cách đây mười lăm hôm ta đã được nghe, thánh Luca nhấn mạnh đến phản ứng của con người trước những biến cố như dấu chỉ: nghĩa là nhắm đến thảm kịch của con người hơn là một xáo trộn có tính vật chất. Con người thuộc mọi thời đại con người thời nay cũng như con người thời đó, thường có khuynh hướng xóa bỏ “thời gian”, coi thời gian như cái gì không an toàn. Chúng ta không thích “biến cố”, nghĩa là sự kiện bất ngờ, điều không dự kiến được. “Điều gì sẽ xảy ra?”. Những gì ta không biết trước luôn luôn đáng sợ.

Do đó, mới có những khuynh hướng bảo thủ, duy truyền thống, cố làm mọi cách để không gì “xảy đến”, không gì “thay đổi” cả.

Vì thế, toàn bộ Kinh Thánh thường lặp lại cho chúng ta rằng, “biến cố” là cuộc “thần hiện” của Thiên Chúa: Người hiện đến, Người can thiệp qua các biến cố. Chẳng hạn, vì Đức Giêsu đã báo trước, nên việc phá hủy thành Giêrusalem và Đền Thánh, là một biến cố đáng sợ, dễ gây hoảng hốt… tuy nhiên, cũng là “dấu chỉ” báo hiệu Đức Giêsu sẽ “đến trên mây trời” ‘ Như thể ngày nay ta loan báo một cuộc cách mạng sẽ phá hủy Vatican và các vương cung thánh đường trong một cuộc thánh chiến! Hơn nữa, cũng không thiếu những ngôn sứ luôn tuyên sấm giáng họa, đưa tin về những tai ương tương tự hay còn tệ hại hơn: nào là hiểm họa nguyên tử, nào là nạn nhân mãn, ô nhiễm lan tràn… nhiều ý thức hệ hiện nay chỉ nhằm khai thác sự sợ hãi tự nhiên này của nhân loại. Phải chăng Đức Giêsu chỉ là một trong những “ngôn sứ tuyên sấm giáng họa” trên, khi lợi dụng sự sợ hãi để tranh thủ những kẻ ủng hộ mình?

Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy con người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.

Đức Giêsu không khai thác, nhưng giải gỡ cho ta sự sợ hãi đó. Những “biến cố” gây xáo trộn, không kết thúc mọi sự, không chỉ là khởi đầu cho một thế giới khác… chỉ báo trước một cuộc gặp gỡ. Ngược lại với sự sợ hãi của con người, ở đây xuất hiện hình ảnh rực rỡ của Con Người trong chính vinh quang của Thiên Chúa. Ta biết rằng, Đức Giêsu sử dụng “thị kiến của Đa-ni-en” (Đn 7,18-14)… nhưng thay đổi hoàn toàn. Triều đại của Thiên Chúa nhu Đa-ni-en mong đợi, phải chiến thắng các địch thù của Israel bằng một thứ can thiệp mãnh liệt và kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử. “Con người” tượng trưng cho “dân thánh của Đấng Tối Cao”, sẽ đến “từ trên đám mây trời”. Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa với Con Người đó. Nhưng thoạt đầu, Ngài không xuất hiện như một hữu thể từ trời: Ngài là con của Đức Maria. Ta biết rõ xuất xứ của Ngài. Ngài không hiện diện “trong đám mây” Ngài hoàn toàn chia sẻ thân phận con người như mọi người trên trần gian. Và đúng ra, chỉ khi chết trên thập giá, Ngài mới thực sự bước vào trong Thế Giới Mới của Đấng Phục sinh đầy vinh quang và uy quyền… như Ngài đã tiên báo khi bị xét xử trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Lc 22,69). Không xóa bỏ lịch sử, cái chết thảm hại của Đức Giêsu thực sự đã trở nên “điểm xuất phát” của một lịch sử mới. Mùa Vọng là thời gian của một cuộc khởi hành mới. Bản văn trên nhắc nhở chúng ta điều đó.

Khi những biến cố đó bắt đầu xảy ra anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên…

Vậy Khải Huyền (trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là “mạc khải”), đúng là một sứ điệp hy vọng. Chúng ta ghi nhận hai thái độ tương phản. Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ “đứng thẳng” của các tín hữu. “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc… thì anh em hãy ngẩng đầu lên”. Sư tương phản này còn rõ nét hơn trong toàn bản văn, khi ta đọc tới dụ ngôn khá đặc sắc: “cây vả báo hiệu mùa tươi đẹp” (Lc 21,29-30).

Vì anh em sắp được cứu chuộc…

Đối với nhiều người, điều xuất hiện như một thứ hủy hoại sự kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu trên thập giá, kết thúc thành Giêrusalem, kết thúc đời mỗi người qua cái chết, chấm dứt các nền văn minh, chấm dứt thế giới, nghĩa là mọi “biến cố” đều mang tính chết chóc, thì đối với Đức Giêsu và đối với các tín hữu là những kẻ tín thác vào lời Ngài, lại chính là khởi đầu cho công cuộc cứu độ. Đó là khẳng định trọng tâm của Đức tin: Mầu nhiệm Phục sinh… mầu nhiệm chết đi để được sống!

Từ “Cứu chuộc” rất thông dụng trong thư của Thánh Phaolô (1 Cr 1,30 – Rm 3,24-8,23 – Cl 1,14) nhưng trong các Tin Mừng, chỉ thấy dùng ở đây. Ta cũng biết, Luca là đệ tử của Phaolô mà! Từ “Cứu chuộc” được dịch từ “Redemptio” của Latinh. Nhưng nếu để ý đến từ gốc của tiếng Hy Lạp “apolutrosi”, người ta thường dịch là “giải thoát”. Như thế, Mùa Vọng là thời giải thoát đã đến gần. “Anh em sắp được giải thoát! Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!”.

Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa, lo lắng sự đời kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em.

Sau những lời khuyên khơi dậy hy vọng và tin tưởng, bây giờ đến một lời khuyên giúp đề cao cảnh giác. Đừng để Đức Giêsu bất thần hiện đến, nhất là khi Ngài đến lần cuối cùng. Lòng chúng ta có nguy cơ trở nên nặng nề, vì những lo âu và vì đời sống quay cuồng, vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất, Đức Giêsu nói như thế.

“Oi dân của Ta, ngươi đã ra nặng nề. Quá nhiều đồ ăn thức uống làm bụng ngươi trương lên. Quá nhiều đồ vật chi phối ngươi. Quá nhiều an toàn đang trói buộc ngươi. Quá nhiều hư ảo đang xâm chiếm ngươi. Quá nhiều ngu xuẩn đang chất đầy trên ngươi. Quá nhiều ảo ảnh đang làm ngươi bối rối. Ôi dân Ta, ngươi đã quá nặng nề. Hãy trở lên nhẹ nhàng hơn. Hãy sẵn lòng ra đi” (Ch. Singer).

Nên đề ra một chương trình tốt đẹp cho Mùa Vọng: đó là thời gian làm cho mình ra nhẹ! Đó là thời gian “cõi lòng nhẹ nhõm hơn”. Bạn hãy giải thoát mình khỏi lo lắng thái quá về ăn uống! Những lời trên đây có thể được viết cho thời đại chúng ta, cho nền văn minh hưởng thụ chiếm hữu của ta.

Ngày ấy như một chiếc lưới, sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.

Tôi đừng để mình bị “chộp bắt” bất thần, như con thú sa lưới. Hãy “tỉnh thức”, luôn sẵn sàng, luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ “xảy đến”, không thể đặt ta nằm trong trạng thái thụ động biếng trễ, nhưng làm cho ta trở thành những con người “đứng thẳng” trong mọi lúc! Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và cầu nguyện, trong viễn tượng đó, là một thứ “canh phòng”, chứ không phải là một chạy trốn, một biếng trễ: Hỡi người canh gác, bạn nhìn thấy bình minh đến chưa? Bạn có nhận thấy Đức Kitô đến không? Bạn có rình chờ những “dấu chỉ” loan báo Ngài đến? Bạn đừng ngủ mê’! Mỗi khi cử hành Thánh Thể là một chuẩn bị trước cho ngày đó, “cho tới khi Chúa đến”. Maranatha? Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Mùa Vọng là thời gian mong đợi.

[post-views]
Pin It

Gửi phản hồi