Dự thảo hướng dẫn tổng quát việc dạy Giáo lý tại Việt Nam
Trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta tham gia vào công cuộc canh tân Hội Thánh bằng cách lấy truyền giáo làm mục tiêu cho các hoạt động mục vụ của Hội Thánh hay đặt mọi hoạt động mục vụ của Hội Thánh trong nhãn quan truyền giáo. Ngài viết: “Tôi ước mơ một ‘chọn lựa truyền giáo’, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo, có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.”
DỰ THẢO
HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT
VIỆC DẠY GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM
DẪN NHẬP:
1. Trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta tham gia vào công cuộc canh tân Hội Thánh bằng cách lấy truyền giáo làm mục tiêu cho các hoạt động mục vụ của Hội Thánh hay đặt mọi hoạt động mục vụ của Hội Thánh trong nhãn quan truyền giáo. Ngài viết: “Tôi ước mơ một ‘chọn lựa truyền giáo’, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo, có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.”1 Ngài xác quyết: “Nếu chúng ta cố gắng đặt tất cả vào trong một nhãn quan truyền giáo, việc này cũng sẽ ảnh hưởng tới cách chúng ta thông truyền sứ điệp.”2
2. Nhằm hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha, chúng ta, những người đang dấn thân trong lãnh vực huấn giáo tại Việt Nam muốn đặt hoạt động giáo lý trong nhãn quan này, để tìm hiểu xem phải thông truyền sứ điệp Tin Mừng thế nào hầu có thể chuyển đạt được cả nội dung căn bản lẫn vẻ đẹp và hương thơm của nó cho người Việt trong bối cảnh xã hội hiện nay. Theo Đức Thánh Cha, để bước vào công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui, các tín hữu phải đi vào cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ với tình yêu Thiên Chúa được triển nở thành một tình bạn phong phú đồng thời đưa họ vượt qua chính mình để đạt tới sự thật đầy đủ nhất về sự hiện hữu của mình; đây chính là “nguồn mạch và cảm hứng cho mọi nỗ lực Phúc Âm hóa”.3
3. Trong tập sách này, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu thực tại xã hội, giáo hội và việc dạy giáo lý tại Việt Nam, để thấy những thực tại này ảnh hưởng trên đời sống đức tin của người tín hữu như thế nào; từ đó nhận ra những thách đố cho huấn giáo hiện nay (I); kế đến, chúng ta nhìn lại đường hướng của Giáo Hội hoàn vũ cũng như địa phương về huấn giáo (II); cuối cùng, xác định phương hướng cho việc canh tân huấn giáo tại Việt Nam (III).
CHƯƠNG I:
BỐI CẢNH
4. Chúng ta không có ý mô tả chi tiết và phân tích đầy đủ về bối cảnh mà trong đó người kitô hữu Việt Nam đang sống và làm việc nhưng chỉ trình bày vắn tắt một số nhân tố, nhằm khám phá ra những thách đố cho việc sống và loan báo Tin Mừng nói chung và cách riêng cho huấn giáo hiện nay trên quê hương đất nước.
1. Thực tại xã hội Việt Nam
Chúng ta sẽ tìm hiểu hiện trạng xã hội dựa trên hai cấu tố: một gồm các yếu tố về dân số, kinh tế và chính trị; hai gồm các yếu tố xã hội, văn hóa, giáo dục và tôn giáo.
Thực tại dân số – kinh tế và chính trị
Về dân số
5. Theo Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, ngày 01/11/2013 dân số Việt Nam đạt ngưỡng 90 triệu người, cơ cấu dân số vàng mà các quốc gia trên thế giới đều ao ước. Gọi thế là vì cứ 2 người lao động mới có một người phụ thuộc (trẻ em dưới 15 tuổi và người già trên 65 tuổi). Với quy mô dân số này, Việt Nam xếp thứ 14 trong các nước đông dân nhất thế giới, đứng thứ 3 về quy mô dân số ở các nước Đông Nam Á. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nếu mỗi phụ nữ duy trì mức sinh từ 2-2,1 con thì mỗi năm dân số Việt Nam tăng hơn 1 triệu người và năm 2050 dân số khoảng 110 triệu, trong đó người già trên 65 tuổi chiếm 18%, một cơ cấu dân số đẹp vì hài hòa giữa các lứa tuổi và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.4
Tuy nhiên, “Việt Nam đang bị mất cân bằng giới tính ở mức báo động đỏ”. Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh năm 2013 là 113,8 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 112,3 bé trai/100 bé gái của năm 2012.5
Tỷ lệ nạo phá thai gia tăng và ngày một trẻ hóa; trung bình mỗi năm có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là học sinh và sinh viên, Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ năm thế giới. Tỷ lệ vô sinh của Việt Nam ngày càng tăng do viêm nhiễm qua đường sinh sản hay phá thai ở vị thành niên và thanh niên.6
Về kinh tế
6. Việt Nam đã tiến một bước dài trên đường chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường. Sau hai mươi năm chuyển đổi sang kinh tế thị trường (1990-2010), Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất thế giới với thu nhập đầu người khoảng 200-300 đôla một năm đã trở thành một nước có thu nhập trung bình với thu nhập đầu người khoảng 1000-1500 đôla một năm và đang cố gắng đạt tới 1500-3500 đôla một năm. Thành quả này bắt nguồn từ những thay đổi về tư duy hội nhập vào kinh tế thế giới với các hiệp định AFTA,7 hiệp định song phương Việt Mỹ (BTA)8 và gia nhập WTO.9 Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh nhờ “đổi mới” môi trường đầu tư khiến khu vực tư doanh bấy lâu ngủ yên nay sống lại và đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam.
Tuy nhiên, từ năm 2008, kinh tế Việt Nam bắt đầu suy giảm một phần do khủng hoảng kinh tế, phần khác do kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ, bội chi ngân sách, lạm phát gia tăng tới mức trên dưới 20% năm 2011. Hậu quả là một nửa số doanh nghiệp mới thành lập bị phá sản hay đóng cửa. Kinh tế Việt Nam đang ở vào giai đoạn thực sự khó khăn, nhưng phát triển là chuyện khả thi, vì Việt Nam là vùng đất có nhiều tài nguyên, với một dân số đọc thông viết thạo và một tinh thần kinh doanh dám chấp nhận rủi ro. Kinh tế Việt Nam phải cần một chính sách thích hợp cho sự phát triển.10
Về chính trị
7. Từ năm 1975, Việt Nam thống nhất dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hiến pháp khẳng định Đảng “lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng."11 Với sự lãnh đạo thống nhất, công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 giành được nhiều thành quả; kinh tế tăng trưởng, xã hội và văn hóa phát triển, hệ thống chính trị gồm ba phần Đảng, Nhà nước và Mặt trận đổi mới về tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị đó.12
Vì chỉ có một lãnh đạo duy nhất là Đảng nên quyền bính của Nhà Nước là tập trung, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất công và quyền của người dân chưa được tôn trọng.13 Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 đã thừa nhận một số quyền căn bản của con người. Đảng và Nhà nước thì cố gắng lành mạnh hóa đội ngũ cán bộ, gia tăng sự giám sát của dân chúng trong việc lãnh đạo của Đảng cũng như việc quản lý của Nhà nước, để củng cố lòng tin của dân chúng vào hàng ngũ lãnh đạo.
Thực tại xã hội, văn hóa, giáo dục và tôn giáo
Về xã hội
8. Khi chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Việt Nam phải giải quyết một vấn đề xã hội đi kèm sự phát triển; đó là sự bất bình đẳng về thu nhập dẫn đến tình trạng người nghèo không được hưởng thành quả của sự phát triển cũng như sự cách biệt giầu nghèo. Việt Nam đã đạt được những thành tích quan trọng về mặt giảm tỷ lệ người nghèo trong dân chúng từ 50% năm 1990 xuống còn 19% năm 2008. Tuy nhiên, mức chênh lệch thu nhập và mức sống ở Việt Nam mỗi năm một tăng, tạo ra nhiều bất công và tệ nạn trong xã hội, nhiều triệu người phải rời xa gia đình hoặc cả gia đình phải di chuyển đến nơi khác để học hành, làm việc, nhất là đến các đô thị hay thành phố lớn, nhiều gia đình bị tan vỡ, môi trường bị ô nhiễm.14
Về văn hóa
9. Dân tộc Việt N am có truyền thống văn hóa ngàn đời, người Việt luôn tự hào với các giá trị tinh thần và đạo đức như thờ cha kính mẹ, tôn sư trọng đạo, trọng tín nghĩa, khẳng khái, chân thành, thậm chí sẵn sàng chết vì lòng trung nghĩa, đoàn kết hào hùng chống ngoại xâm.
Từ năm 1975 đến nay, người Việt cố gắng xây dựng lại đất nước bằng cách du nhập khoa học kỹ thuật cũng như lối sống của các nước. Người Việt ngày càng thông thạo khoa học nhờ có nhiều phương tiện truyền thông hơn như báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, và cả mạng lưới thông tin toàn cầu (internet).
Trình độ học vấn của người dân được nâng cao, nhưng có những dấu hiệu cho thấy họ đang trải qua một cuộc “khủng hoảng về giá trị” làm nẩy sinh nhiều hiện tượng bi thảm về đạo đức, văn hóa và xã hội: gia đình và xã hội ngày một rạn nứt, giả dối, lừa lọc, tàn nhẫn; giáo dục xuống dốc; tham nhũng thành quốc nạn; đạo lý thành đảo điên ; nhiều người trẻ choáng ngợp trước vẻ quyến rũ của xã hội tiêu thụ nên sống cuồng sống vội, sống buông thả phó mặc.15
Về giáo dục
10. Theo phúc trình của Chính phủ về tình hình giáo dục tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI, giáo dục Việt Nam đã đạt những thành tựu sau: nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn; đạt được một số kết quả quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn; chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu và điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục được tăng cường.
Tuy nhiên, giáo dục còn vướng phải những yếu kém sau: chất lượng còn thấp; phương pháp lạc hậu, chậm đổi mới; các điều kiện bảo đảm phát triển còn nhiều bất cập: con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao; một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết như dạy thêm học thêm, mua bán văn bằng, bệnh thành tích…16
Về tôn giáo
11. Dù chủ nghĩa vô thần là ý thức hệ chính thức trong cả nước từ năm 1975, nhưng Việt Nam vốn là một xã hội đa tôn giáo. Tôn giáo tại Việt Nam mang đặc tính tổng hợp, hội nhập và tiếp biến. Điển hình là sự khai sinh các tôn giáo bản địa như Cao Đài (1926) với 2,4 triệu tín đồ17 và Phật giáo Hòa Hảo (1939) với 1,3 triệu tín đồ.18 Bên cạnh tín ngưỡng dân gian, niềm tin vào Ông Trời và thực hành việc tôn kính Ông Bà tổ tiên, đời sống tâm linh và nhân sinh quan của người Việt mang đậm dấu ấn của truyền thống Tam giáo, đặc biệt là Phật giáo. Theo thống kê của World Population Statistics 2013,19 trong số hơn 90 triệu dân, có 85% nhận mình theo niềm tin Phật giáo (dù chỉ có 8% thực hành đạo thường xuyên), 8% theo Kitô giáo mà đa số là Công giáo (6,7%). Ngoài ra còn có các tín đồ của Islam (64.000)20 và cộng đồng tôn giáo Baha’i (7.400).21
Trong hệ thống giáo dục Nhà Nước, từ giữa thập niên 1990, có một sự chuyển biến trong cách nhìn về tôn giáo: từ sự nhấn mạnh luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (Karl Marx) sang việc nhìn nhận “tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc…”, theo các văn bản pháp quy.22 Trong thực tế, khuynh hướng xem tôn giáo như “văn hóa tâm linh” đang ngày càng phổ biến nơi các phương tiện truyền thông xã hội lẫn một số tôn giáo. Các lễ hội dân gian và nhiều hiện tượng mang tính chất tâm linh, ngoại thường, đang bùng phát khắp nơi, cùng với giai đoạn “mở cửa”, di dân và bùng nổ thông tin. Dù chưa nhìn nhận như pháp nhân, chính phủ không phủ nhận vai trò và giá trị của các tôn giáo đối với thiện ích của cộng đồng, luân lý gia đình và đạo đức-nhân bản cá nhân.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà công cuộc loan báo Tin Mừng trở nên dễ dàng hơn! Thách đố hiện nay đối với các vị chức trách các tôn giáo, không tập trung vào việc đối phó với chủ nghĩa vô thần (như 3 thập niên sau 1975), cho bằng đương đầu với chủ trương thế tục hóa, xu hướng thực dụng, duy hưởng thụ, chủ nghĩa tương đối hóa về chân lý và luân lý cùng những hệ quả của trào lưu toàn cầu hóa.
Nhận định
Bối cảnh trên đây cho thấy xã hội mà chúng ta đang sống và làm việc đã thay đổi rất nhiều, thay đổi một cách mau chóng và thay đổi trên nhiều bình diện khác nhau. Những thay đổi ảnh hưởng nhiều trên con người và đời sống của người tín hữu và đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho đời sống đức tin của người tín hữu, đòi hỏi các hoạt động mục vụ cũng như việc dạy giáo lý của Giáo Hội phải thay đổi để thích nghi với tâm thức và nhu cầu của con người Việt Nam hiện nay, nhưng xem ra các hoạt động của chúng ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách này. Chúng ta phải can đảm trực diện với thực trạng này.
12. Đời sống của người Việt hiện nay được nâng cao, phúc lợi của dân chúng được cải thiện; tuy nhiên, họ vẫn phải sống trong lo âu và sợ hãi: lo âu bởi cuộc sống đầy những bất ổn và xáo trộn; sợ hãi vì xã hội đầy những bất công và bạo lực. Người giàu thay vì giúp đỡ, tôn trọng và thăng tiến lại khai thác và bóc lột người nghèo, tình trạng lạm quyền và tham nhũng âm thầm hủy hoại hệ thống chính trị và xã hội, đạo đức bị coi là mối đe dọa cho các hành vi thao túng và hạ thấp phẩm giá con người, sự thánh thiêng của hôn nhân và sự bền vững gia đình bị tấn công, môi trường bị hủy hoại nặng nề.
Sống trong lo âu và sợ hãi, người Việt trở nên phòng thủ và tự vệ, che đậy và giả hình, thiếu tin tưởng và ít cộng tác với người khác, bất hòa và chia rẽ trong mọi ngành nghề, tổ chức xã hội và cả trong các tổ chức tôn giáo. Tâm tính này tạo ra nhiều bất lợi cho đời sống gia đình vì gia đình là một cộng đồng đòi hỏi sự hiệp thông trọn vẹn, sự cởi mở chân thành, tin tưởng và lo lắng cho nhau. Nó cũng tác hại rất lớn đến xã hội vì xã hội là một cộng đồng lớn hơn đòi hỏi mọi thành viên phải tin tưởng để cùng hợp tác với nhau lo cho công ích.
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp người Việt thoát khỏi ngục tù của lo âu và sợ hãi, của mặc cảm tự ti và tâm lý phòng vệ, đồng thời chữa lành và tái tạo một con người mới đầy niềm vui và hy vọng, lạc quan và tin tưởng, chân thành và cởi mở không?
13. Não trạng thế tục hóa (secularism) đang thấm nhập cách nhẹ nhàng vào cách suy nghĩ và cách sống của người tín hữu. Nó là thách đố lớn cho công cuộc Phúc Âm hóa vì hoàn toàn nghịch lại tinh thần phúc âm, nghịch lại đức tin và luân lý kitô giáo, khi tìm cách loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Gắn với não trạng thế tục hóa là não trạng duy vật (materialism), cá nhân (individualism), tương đối (relativism) và hưởng thụ khoái lạc (hedonism); tất cả đang lan tràn và ảnh hưởng trên cách suy tư và hành động của con người Việt Nam.23
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp người tín hữu khám phá ra sự hiện diện đầy yêu thương và quyền năng của Chúa trong cuộc sống để rồi cộng tác với Ngài trong công cuộc biến đổi cuộc sống của mình và xã hội không?
2. Thực tại Giáo Hội Việt Nam
Chúng ta sẽ tìm hiểu thực tại Giáo Hội tại Việt Nam dựa trên các yếu tố dân số, đời sống và sứ vụ.
Về cơ cấu tổ chức
14. Từ năm 1975, đất nước thống nhất, Giáo Hội tại Việt Nam ở hai miền Nam Bắc được xum họp một nhà. Từ 1980, Đại hội các Giám Mục toàn quốc đã được tiến hành hằng năm và Giáo Hội tại Việt Nam muốn là "Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam, để phục vụ hạnh phúc của đồng bào"24 và “cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống.25
Nhìn chung, Giáo Hội tại Việt Nam không ngừng đổi mới và phát triển. Số tín hữu tăng từ 2 triệu vào năm 1960 đến 5.2 triệu vào năm 2000 và hơn 6 triệu vào năm 2008.26 Số người theo đạo hàng năm khoảng 30 – 40.000 trong những năm gần đây. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2012, Giáo Hội tại Việt Nam có 4.441 linh mục, 4.195 chủng sinh, 2.679 tu sĩ nam, 17.280 tu sĩ nữ, 59.524 giáo lý viên, gần một triệu đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành và 6.560.879 tín hữu giáo dân,27 trên tổng số 88,78 triệu dân.28
Sau 1960, sáu địa phận khác được thành lập là Đà Nẵng (1963), Xuân Lộc (1966), Phú Cường (1966), Ban Mê Thuột (1967) Phan Thiết (1975), và Bà Rịa (2005), nâng tổng số giáo phận Việt Nam hiện nay lên 26 giáo phận (Giáo tỉnh Hà Nội 10, Huế 6, Sài Gòn 10).
Về đời sống đức tin
15. Nhìn từ bên ngoài, người ta thấy Giáo Hội tại Việt Nam còn rất sinh động: đời sống đạo còn sầm uất vì bầu khí các gia đình còn rất tốt, vẫn còn đông đảo ơn gọi linh mục và tu sĩ, giáo dân còn tích cực tham dự thánh lễ và các giờ đạo đức cũng như các công tác chung của giáo xứ và giáo phận.
Thực tế có nhiều dấu hiệu cho thấy số gia đình công giáo ly dị, số người trẻ công giáo phá thai, nghiện ngập, phạm pháp không phải ít. Số ơn gọi ở các thành phố có xu hướng giảm so với ngoại thành hoặc nông thôn; trong số này, nhiều người thiếu động cơ trong sáng. Số giáo dân, nhất là giới trẻ, tham dự thánh lễ, kể cả thánh lễ Chúa Nhật, và các sinh hoạt đạo đức trong giáo xứ đã giảm nhiều. Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ đứng ở ngoài nhà thờ cho có lệ. Cũng có những nơi, những dịp lễ lớn, giới trẻ tham dự còn đông, nhưng “số đông” đó, nếu tính về tỉ lệ thì chỉ là một thiểu số nhỏ của tất cả giới trẻ.29
Về hoạt động truyền giáo
16. Có nhiều cố gắng truyền giáo tại một số giáo phận, nhất là các giáo phận miền Cao nguyên nơi có nhiều anh chị em dân tộc, hoặc những nơi xa xôi như miền Tây.
Tuy nhiên, con số thống kê sau cho thấy tỉ lệ người công giáo trong mấy chục năm qua như giẫm chân tại chỗ:
Năm |
1970 |
1990 |
1993 |
2004 |
2010 |
Dân số |
31.993.143 |
63.286.000 |
70.257.700 |
82.320.147 |
86.927.700 |
Công giáo |
2.679.776 |
4.341.976 |
4.641.677 |
5.667.428 |
6.187.486 |
Tỷ lệ |
8,37% |
6,86% |
6,60% |
6,88% |
7,11% |
Công tác tông đồ tại các giáo xứ và nhiều dòng tu chỉ gói ghém trong công tác mục vụ. Chương trình huấn luyện trong các chủng viện, học viện… thiếu môn truyền giáo hoặc có học mà không có hành, có huấn mà không có luyện. Nhìn chung, ý thức và dấn thân truyền giáo tại Việt nam chắc chắn là có nhưng mới chỉ là tinh thần dấn thân của một số cá nhân hay nhóm các tín hữu chứ chưa phải là tinh thần chung của cả Giáo Hội tại Việt Nam.30
Nhận định
Trước thực tại này, Giáo Hội Việt Nam không ngừng “tự vấn lương tâm trong tư cách cộng đồng cũng như trong tư cách cá nhân, xem chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và thi hành hiệu quả hơn sứ mệnh mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu”.31
17. Nhìn vào đời sống người Kitô hữu hiện nay, chúng ta thấy có một khoảng cách khá lớn giữa điều người ta hiểu và điều người ta sống. Ðời sống đạo tập trung vào các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong. Ở Việt Nam, hơn 60% dân số dưới tuổi 30. Đa số là những người trẻ và những người trẻ này có xu hướng chạy theo cái đẹp qua sự say mê cuồng nhiệt đối với các thần tượng như cầu thủ, diễn viên, người mẫu và sở thích của họ là ham chuộng thời trang, âm nhạc, thể thao như biểu hiện của cái đẹp. Trong khi đó, chúng ta hô hào họ hãy xóa bỏ thần tượng, sống đơn giản, nghèo khó, nhưng lại chưa giới thiệu cho họ một Thiên Chúa là chủ của cái đẹp và chưa giúp họ hiểu tinh thần nghèo khó của Ðức Giêsu thật sự là gì.32
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp người Kitô hữu gặp gỡ và kết hợp với Chúa Giêsu hiện diện trong các hoạt động phụng vụ cũng như trong cuộc sống thường ngày, một trải nghiệm thiêng liêng cho phép họ biến đổi cuộc sống của mình và góp phần biến đổi xã hội không? Liệu cách giảng dạy của chúng ta hiện nay có đáp ứng cách thỏa đáng những nhu cầu mới đang hình thành, có thích hợp với não trạng đang chuyển biến của xã hội, nhất là của giới trẻ không?
18. Phần đông người tín hữu Việt Nam chưa nhận thức và quan tâm đầy đủ về việc truyền giáo. Nhiều người vẫn còn cho rằng truyền giáo là công việc của linh mục và tu sĩ chứ không phải là bổn phận của chính mình. Nhiều vị có trách nhiệm lại cho rằng truyền giáo là mở những lớp giáo lý dự tòng để dạy cho người muốn theo đạo những bài giáo lý soạn sẵn hay học thuộc lòng một số kinh, là lập đạo binh Đức Mẹ để thăm nom và khuyến dụ người ta theo đạo. Mục vụ truyền giáo tại Việt Nam còn thiếu tổ chức, định hướng và liên kết trong một kế hoạch chung.33
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có “mở ra cho sự năng động truyền giáo và làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu biết hiện diện với tư cách là người Kitô hữu trong xã hội, trong đời sống nghề nghiệp, văn hóa và xã hội… hiệp thông một cách có hiệu quả với những người thuộc các tôn giáo khác… biết dung hòa và phân biệt giữa ‘loan báo Đức Kitô’ và ‘đối thoại liên tôn’ không?34
3. Thực tại dạy giáo lý tại Việt Nam
Trước những biến chuyển đang thay đổi bộ mặt của xã hội và ảnh hưởng đến đời sống đạo của Dân Chúa, Giáo Hội tại Việt Nam ra sức giáo dục đức tin cho các tín hữu, chủ yếu qua việc dạy giáo lý. Mặc dù công tác mục vụ này đã gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp, nhưng vẫn còn nhiều giới hạn cần khắc phục.
Về mục tiêu
19. Việc dạy giáo lý nhắm trình bày nội dung đức tin có hệ thống, trung thành với giáo huấn và truyền thống của Giáo Hội, hơn là dẫn đưa người thụ giáo đến gặp gỡ Chúa để khám phá ra khuôn mặt của Chúa Giêsu và cảm thấy nhu cầu phải dâng hiến chính mình cho Chúa hoặc giúp cho họ hiểu và chấp nhận những hệ luận của đức tin cho cuộc sống để tạo nên một nếp sống, phong tục và văn hóa dưới ánh sáng của đức tin.
Về nội dung
20. Giáo lý viên thường quy chiếu vào các nguồn Thánh Kinh và Thánh Truyền được giải thích bởi Huấn quyền, nhưng chưa vận dụng được các chứng từ sống động trong đời sống Giáo Hội, các giá trị hay những nét đẹp trong nền văn hóa Việt Nam vốn đòi hỏi giáo lý viên phải có khả năng giải thích các dấu chỉ thời đại, để khám phá ra sự hiện diện và kế hoạch của Thiên Chúa dưới ánh sáng của Lời.
Về hình thức
21. Việc dạy giáo lý bằng phương pháp hỏi-thưa phát triển song hành với việc dạy giáo lý bằng phương pháp trình bày, theo cách thức “dạy dỗ, bảo ban” hoặc theo cách thức “đối thoại, đồng hành”. Cách thức đầu thường sử dụng quyền lực cứng (biện pháp kỷ luật) còn cách thức sau vận dụng quyền lực mềm (thuyết phục bằng các giá trị). Do quan tâm đến nội dung hơn là người thụ giáo nên “một số nơi, giáo lý vẫn bị xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc dạy giáo lý chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động của người rao truyền”.35
Về chủ thể
22. Phần đông các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo xứ đều coi trọng việc giáo dục đức tin và tích cực tham gia vào việc dạy giáo lý với tinh thần tự nguyện; nhiều giáo lý viên giáo dân phục vụ cho huấn giáo như những thiện nguyện viên trong một thời gian lâu dài.
Tuy nhiên, các linh mục thường giao phó hết việc dạy giáo lý cho tu sĩ và giáo dân nhưng ít quan tâm đến việc bồi dưỡng kiến thức và đời sống đức tin cho họ. Nhiều giáo lý viên giáo dân chưa được huấn luyện đầy đủ, chưa thực sự “dạy điều mình tin và thực hành điều mình dạy” và chưa được hỗ trợ thỏa đáng về vật chất cũng như tinh thần.
Về đối tượng
23. Việc dạy giáo lý chủ yếu dành cho thiếu nhi chuẩn bị xưng tội, rước lễ lần đầu và thêm sức, dự tòng chuẩn bị gia nhập Giáo Hội và các đôi chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn phối. Trong những năm gần đây, anh chị em dân tộc cũng được quan tâm và chăm lo học giáo lý nhiều hơn.
Tuy nhiên, giáo lý dành cho người trẻ và người trưởng thành chưa được phát triển, giáo lý dành trong gia đình cũng như cho những người có hoàn cảnh đặc biệt chưa được quan tâm. Sau khi lãnh nhận các bí tích khai tâm và hôn phối, các tân tòng và các đôi hôn phối hoặc không được tiếp tục quan tâm và nâng đỡ hoặc không thiết tha học hỏi và đào sâu đức tin.
Về môi trường
24. Các gia đình và giáo xứ phần đông còn giữ được tinh thần đạo đức truyền thống, bầu khí thiêng liêng thuận lợi cho việc nuôi dưỡng và phát huy đời sống đức tin của các tín hữu. Các bậc làm cha mẹ khuyến khích và hỗ trợ cho con cái tham gia dạy và học giáo lý.
Việc dạy giáo lý trong gia đình hiện nay dường như là con số không, việc dạy giáo lý trong giáo xứ thường là việc của giáo lý viên hơn là của cộng đoàn. Việc dạy giáo lý còn thu hẹp trong “lớp học”, chưa mở ra cho cộng đoàn và vươn tới mọi người trong xã hội để nhận diện các vấn đề và tìm câu trả lời cách cụ thể, hầu có thể đáp ứng những nhu cầu mới đang hình thành.
Nhận định
25. Trong khi người tín hữu Việt Nam phải chống chọi với não trạng thế tục hóa đang thấm nhiễm dần vào đời sống đức tin, não trạng “muốn gạt bỏ Thiên Chúa, nhưng tận sâu xa, đó lại là một sự trống rỗng to lớn khao khát được lấp đầy bằng chân lý và tình thương của Thiên Chúa. Nhân loại khao khát nước đem lại sự sống, nhưng thế giới lại có quá nhiều nguồn nước đục ô nhiễm (x. Sứ điệp, s.1), mà việc dạy giáo lý lại bị xem là thuyết giáo khô khan với những công thức khô cứng và xa lạ với truyền thống văn hóa thì thách đố lớn nhất của huấn giáo tại Việt Nam là chuyển trọng tâm từ huấn luyện kiến thức sang xây dựng tương quan với Chúa và tha nhân.
Liệu cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có dẫn người tín hữu đến gần Thiên Chúa hơn, Đấng duy nhất có thể lấp đầy khát vọng sâu xa trong lòng họ không?
26. Gắn liền với xã hội tục hóa là xã hội tiêu thụ, trong xã hội này con người bị mê hoặc bởi lối sống hưởng thụ và ích kỷ, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống những giá trị tôn giáo, kết cuộc là đạo đức suy thoái, lương tâm bị coi rẻ và nhân phẩm bị xúc phạm. Sự chuyển biến này đang ảnh hưởng sâu xa đến đời sống đức tin của người tín hữu, thế nhưng chúng ta vẫn dạy giáo lý theo lối cũ, xa rời các thực tại xã hội. Thoát khỏi khuôn khổ của một lớp học để vươn ra đời sống cộng đoàn cũng như vươn tới các vấn đề xã hội cũng là một thách đố không nhỏ đối với huấn giáo tại Việt Nam.
Liệu cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp các tín hữu khám phá ra sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã trỗi dậy từ cõi chết và không ngừng “làm cho mọi sự nên mới” (Kh 21,5), và nghe được lời thách đố của Ngài “có một cái nhìn mới về cuộc sống, sống những giá trị mới và đi vào những tương giao mới với tha nhân như những anh chị em của nhau” không?
27. Trong một đất nước đa phần là người trẻ, những con người say mê khoa học kỹ thuật qua việc tìm tòi và học hỏi, say mê cái đẹp qua việc chạy theo các thần tượng và bị mê hoặc bởi sự chiếm hữu và hưởng thụ, nhưng cách dạy giáo lý của chúng ta hiện nay vẫn chưa thu hút và hấp dẫn được người trẻ. Làm thế nào để dạy giáo lý cách sinh động và hấp dẫn hơn vẫn là một thách đố gay go đối với giáo lý viên chúng ta.
Liệu phương pháp, ngôn ngữ và phương tiện mà chúng ta sử dụng để dạy giáo lý cho người trẻ có mới mẻ và thích hợp với tâm thức của họ không? Lời Chúa có được diễn đạt đúng hơn, rõ hơn, sống động và hợp thời hơn không?
28. Sống trong một đất nước có nhiều dân tộc, nhiều nền văn hoá và nhiều tôn giáo khác nhau, thậm chí vô thần, giáo lý viên không những phải thông thạo về Lời Chúa mà còn phải thấu hiểu các giá trị văn hóa của dân tộc, các chân lý tiềm tàng nơi các tôn giáo và các vấn đề nhân sinh để có thể đồng hành với mọi người trong cuộc lữ hành hướng về một chân lý cứu độ duy nhất.
Liệu cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp cho các tín hữu đối thoại với đồng bào của mình cách khiêm nhu, bao dung và cảm thông hơn là kết án và loại trừ không?
Chúng ta xác tín rằng những thách đố trên có thể trở thành cơ hội thuận tiện cho Giáo Hội tại Việt Nam canh tân việc dạy giáo lý, nhờ đó, Giáo Hội có thể thi hành hiệu quả hơn sứ vụ yêu thương và phục vụ đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu cho đồng bào của mình. Điều này đòi hỏi chúng ta phải duyệt xét lại cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay bằng cách nhìn vào đường hướng chung của Giáo Hội về huấn giáo.
(còn nữa)
(Nguồn: giaolyductin.org)
(25)
Phản hồi gần đây