SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – A

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Is. 45, 1.4-6; 1Tx. 1,1-5b; Mt. 22, 15-21

MỤC LỤC

1. Nộp thuế. 2

2. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà. 4

3. Trả nợ cuộc đời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 8

4. Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn. 11

5. Của César 15

6. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 17

7. Trả về Thiên Chúa. 20

8. Nên nộp thuế chăng?. 23

9. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An. 25

10. Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn Thanh Phong. 29

11. Tôn giáo và chính trị 33

12. Hình ai đây?. 35

13. César 38

14. Trả về. 40

15. Trả về. 43

16. Viễn vọng kính. 46

17. Nộp thuế cho Xê-da – JKN. 48

18. Nên giống Chúa. 53

19. Xin Thầy cho biết ý kiến. 55

20. Nộp thuế cho Xêda – Lm PX. Vũ Phan Long. 58

21. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. 66

22. Chú giải của Noel Quesson. 72

1. Nộp thuế

Thời bấy giờ, dân Do Thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác với đế quốc, thì ủng hộ việc nộp thuế. Nhưng cũng có những người muốn lật đổ ách thống trị, thì chống đối việc nộp thuế, bởi vì làm như thế chẳng khác nào nối giáo cho giặc.

 

Trong một bối cảnh như vậy, câu hỏi có nên nộp thuế cho César hay không, quả là một cái bẫy. Trả lời là có thì mất lòng dân. Còn trả lời là không thì sẽ bị kết án là chống đối nhà nước. Trước hết Chúa Giêsu bảo họ đưa cho mình xem đồng tiền La mã. Hành động này đẩy họ vào cái thế phải trả lời cho chính câu hỏi đã nêu ra, bởi vì mang trong người đồng bạc La mã là chấp nhận những sự ràng buộc của La mã. Tiếp đến hình và chữ ký trên đồng tiền này đã đem lại cho Chúa Giêsu một câu trả lời đầy lý tưởng: Của César hay trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.

 

Với câu trả lời này, Chúa Giêsu không nề nhằm mục đích đưa ra nền tảng cho một học thuyết chính trị, cũng không hề có ý định tách biệt thế giới làm hai. Một thuộc về César, một thuộc vê Thiên Chúa. Ngài để việc này tuỳ cá nhân quyết định vì mỗi người phải giải quyết về những đối nghịch giữa Thiên Chúa và trần gian.

 

Là người Kitô hữu, chúng ta có hai quyền công dân đi đôi với nhau, sở dĩ như vậy vì chúng ta là công dân của hai thế giới, đó là thế giới trần gian và thế giới thiên quốc. Như vậy, chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc của mỗi bên. Chính vì thế mà trong bức thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Hãy vâng phục các vị cầm quyền, hãy nộp cho họ những gì chúng ta mắc nợ. Mong rằng giữa hai quyền công dân này không bao giờ xảy ra những xung đột, nhưng luôn đi song song và bổ túc cho nhau, vì đạo chỉ đẹp khi ở trong đời và đời chỉ tốt khi ở trong đạo.

Còn nếu chẳng may xảy ra xung đột thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết: Vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục loài người. Đó là cách thức đã từng được người Kitô hữu giải quyết trong dòng lịch sử, mỗi khi có những cấm cách và bách hại xảy đến.

 

Vua Henri VIII nước Anh đã kết hôn hợp pháp, nhưng rồi ông xin Đức Giáo Hoàng huỷ bỏ cuộc hôn nhân hợp pháp ấy. Vì không có nền tảng chính đáng, Đức Giáo Hoàng đã từ chối. Và thế là ông ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một bản tuyên bố đồng ý chấp nhận hành động của ông. Nhiều người đã ký, nhưng Thomas More thì từ chối. Nhà vua yêu cầu Thomas More ý vào nếu không sẽ bị tống giam và khép vào tội phản loạn, nhưng Thomas More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận. Một đối với Thiên Chúa và một đối với nhà vua. Và khi chúng chống đối nhau, ngài không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc trung thành với lề luật của Thiên Chúa.

 

Bởi vì, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất, phải chiếm địa vị số một trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta.

 

2. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA; CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA

Những người biệt phái và những người thuộc phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu. Khởi đầu, họ đưa ra những lời mật ngọt để dụ Người đi vào cạm bẫy: "chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai…" rồi tiếp đó, xô Chúa Giêsu vào tròng: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?"

 

Trả lời đằng nào cũng mắc nạn. Nếu bảo rằng: được phép, thì người Do-Thái sẽ vin vào đó mà kết án Chúa Giêsu là người ủng hộ đế quốc Rô-ma, phản bội đồng bào; nếu bảo không thì họ sẽ tố giác Người với chính quyền Rô-ma với tội danh là xúi dân đừng nộp thuế.

 

Chúa Giêsu biết ngay mưu đồ thâm độc của họ, Người lách khỏi cạm bẫy cách tài tình khi đề nghị họ cho Người xem đồng tiền nộp thuế và yêu cầu họ trả lời hình và hiệu trên đồng tiền đó là của ai. Họ trả lời: "của Xê-da". Chúa Giêsu mượn cơ hội đó để nêu lên cho mọi người một nhận định đáng quan tâm suy nghĩ: "của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".

ÙÙÙ

1. Mọi sự đều là của Chúa, nếu Người lấy đi, ta chẳng còn gì

Mọi thứ chúng ta có đều là của Chúa ban. Nếu Chúa cất đi những gì Chúa ban, thử hỏi chúng ta còn lại được gì?

 

Chúng ta hãy nghe lại chuyện ông Gióp để hình dung xem khi Chúa lấy lại những gì Chúa trao thì con người còn lại những gì.

"Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông…

Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác.

Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!

Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.

Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho ông Gióp rằng:

- Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:

- Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.

Người nầy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:

- Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:

- Con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.

Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).

 

Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa tạm ứng cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa đòi lại thì chúng ta không khác gì ông Gióp: trần trụi, chơ vơ, chẳng còn gì!

 

Nhờ đôi mắt Chúa ban, chúng ta được nhìn thấy vẻ huy hoàng của thế giới; nếu Chúa lấy đi, chúng ta thành kẻ mù loà. Đôi chân nầy cũng là ân huệ Chúa ban, nhờ đó chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi đâu mình muốn; nếu Chúa lấy đi, chúng ta trở thành người tàn phế. Nhờ hơi thở Chúa ban, chúng ta còn tồn tại đến hôm nay; nếu Chúa cất đi, chúng ta tắt hơi sau năm phút. Nhờ ánh sáng mặt trời Chúa ban, chúng ta được sưởi ấm và được sống; nếu Chúa lấy đi, chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh sau nửa tiếng đồng hồ… Chúa ban cho chúng ta tất cả, chúng ta là những kẻ mắc nợ Ngài trong tất cả những gì chúng ta có.

 

Ngoài những món quà vật chất còn có vô số ân huệ thiêng liêng, mà ân huệ lớn nhất là Thiên Chúa Cha đã trao ban cho ta ngay cả Con Một của Người để mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu khổ hình và chịu chết thay cho chúng ta.

 

Ngoài ra chúng ta cũng mang nợ xã hội rất nhiều: Thợ hồ xây nhà cho ta ở; thợ mộc đóng bàn ghế cho ta dùng; thợ may cung cấp cho ta quần áo che thân; thầy giáo cho ta tri thức và văn hoá; cha mẹ sinh ra, nuôi dạy chúng ta được khôn lớn như ngày hôm nay…

2. Hãy đền đáp công ơn Thiên Chúa vì những ân huệ Người ban tặng cho ta.

Trong tương quan xã hội, người Việt Nam có truyền thống đáp nghĩa đền ơn rất chu đáo. Bánh ít đưa đi, bánh dì đưa lại. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Hôm nay có dịp nhận quà mừng của người khác, mai đây người ta không quên đáp lại bằng một quà mừng tương xứng.

 

Nợ người đời tuy ít mà người ta còn lo đáp đền sòng phẳng, huống là những món nợ rất lớn đối với Thiên Chúa toàn năng.

 

Thầy giảng Anrê Phú Yên là một vị thánh tử đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích rửa tội năm 15 tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến năm 19 tuổi thì bị quan quân bắt bớ.

 

Thầy vui lòng được chết để làm chứng cho Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến trọn vẹn cuộc đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn tả qua câu nói: "Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả tình yêu." Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình yêu thật lớn. Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng sống thầy cho Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người.

 

Cùng nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta không vô ơn và tự phụ khi nhận được rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa nhưng biết dâng hiến tất cả những gì Chúa ban, từ thời giờ, sức lực, trí tuệ đến tài năng, của cải và trọn cuộc sống chúng ta để báo đền vô vàn hồng ân Thiên Chúa.

 

3. Trả nợ cuộc đời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện kể rằng: có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng dấp quê mùa với bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình, cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng, cô vẫn biết bà mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong ân bội nghĩa. Cô đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của mẹ đã dành cho cô: "chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con cho tới khi trưởng thành". Những loại người như vậy thường bị người đời kết án, tẩy chay, xem thường…

 

Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự sống là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Của Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan phòng xếp đặt cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có ai đó nói rằng: con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn khi vào trần gian nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ tha nhân.

 

Vậy, chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì?

Hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa… khiến con người trở thành "chó sói của con người" như lời của Saint paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!

 

Hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình.

 

Hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc, con người đã đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường…

 

Hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.

 

Hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thượng Đế ban tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân.

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trả lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không chỉ là quyền được sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của nhân quyền giữa người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc . . .

Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ dại dột… "Lương tâm không bằng lương tháng". Một xã hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã hội hôm nay đang tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ "đồ đểu"! Một xã hội mà Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị phi. Con người hôm nay đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng: không có Thiên Chúa, không có thần linh. Chết là hết… Vì vậy mà người ta luôn đang tâm làm hại lẫn nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm ngược với lương tri con người.

 

Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ra sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình yêu thương của đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân Thiên Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.

 

4. Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về nước và lập làm vợ thứ.

Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu, nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen: “Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như thế thì có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ mình”.

Hoàng hậu thấy vua không nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: “Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi lại thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều”.

Nghe lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua, cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với hoàng hậu. Trước thì hoàng hậu trả lời “không biết” đến khi thấy vua cứ gặng hỏi, bà mới nói; “Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy”.

Nghe vậy nhà vua nổi giận quát lên: “Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta”.

Lập tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi hành ngay.

Ôi nham hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng, bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai “con nhạn”: tình địch bị cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm. Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian manh.

 

Hôm nay, một chiếc bẫy cũng được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.

 

Các ký lục biệt phái cùng nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là “chúng tôi biết Thầy là người ngay chính”, nên chúng tôi tìm đến. Nào là “Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nên chúng tôi xin học hỏi. Nào là “Thầy không thiên tư tây vị ai”, nên thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào. Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc quai.

 

Sau khi rào đầu chắn đuôi, họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào: “Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là “có” hay “không”. Nhưng “có” cũng chết, mà “không” cũng hết sống. Vì khi trả lời “có”, lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn. Nhưng nếu Đức Giêsu nói “không”, ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn, dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt đích đáng.

 

Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho bằng giải quyết lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm một con đường hay một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có câu trả lời theo ý mình muốn.

 

Đừng tưởng chỉ có đời xưa người ta mới hỏi phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi! Có người từng đặt vấn đề: “Con đi làm, bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội không? Mình ‘ăn’ tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao không?” Có người lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình đang biến thành hoả ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng tại sao Giáo hội không cho phép?” Người khác còn nói: “Thời buổi này nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép? Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và nhu cầu con người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói buộc tự do và hạnh phúc con người?”

 

Thế đấy, xưa và nay không thiếu những câu hỏi “đơn sơ” như của biệt phái và bè Sađoc. Nhưng một câu hỏi và cũng là câu trả lời căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối sống cho phù hợp với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng…, mà lại cứ đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của con người? Tại sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích tốt lành mà lại dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô luân và bất nhân?

Thành ra vấn nạn không phải nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì “con vâng ý cha”, người ta lại cứ muốn “Cha theo ý con”. Vấn đề không phải là Thiên Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ ý tưởng của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.

 

Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu về chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta nhận được mà không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên Chúa, vượt qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong đời con người.

 

Ước chi bao tâm tư mỗi ngày đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.

 

5. Của César

Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó đây vẫn còn những sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ Khomenei ra lệnh hành quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng bổ Hồi giáo qua cuốn "Vần thơ của ác quỷ". Và cũng đã lâu, các học giả Hồi giáo đòi lấy đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật chặt tay những kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có ý nghĩa gì?

 

Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ chỉ nhằm loại bỏ Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan giải: Có được phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt pháp chỉ chờ câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi với đế quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào số những kẻ thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về Chúa Giêsu.

 

Nhưng thật bất ngờ đến độ chưng hửng, Chúa Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói: Của César hãy trả cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Rôma thì cũng phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp thuế cho César không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.

 

Bọn biệt phái thì chưng hửng còn phe Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong góc độ chính trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả hiệp hay chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn phận công dân.

 

Vượt trên vấn nạn của kẻ thù, Chúa Giêsu còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong lập trường nào, họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ luật lệ của Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo: của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối thượng của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao trùm mọi lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp hay bảo vệ những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho César đâu có thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.

 

Chúng ta không phải chỉ ngỡ ngàng và thán phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn tù túng. Có thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở trong đời và đời chỉ tốt hơn khi ở trong đạo.

 

6. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

 

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.

Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.

 

Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.

 

Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc. Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.

 

Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.

 

Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.

 

Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).

 

Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.

 

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

 

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta. Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

 

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

 

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

 

GỢI Ý CHIA SẺ

1.    Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2.    Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3.    Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

 

7. Trả về Thiên Chúa

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?"

Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi. Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng yêu nước yêu dân. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.

 

"Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế."

Khi đưa cho Đức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da. Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da". Ngài nhìn nhận một sự độc lập nào đó của ông. Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn. Đối với người Do Thái sử dụng đồng bạc của Xê-da, Đức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy, như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không buộc mọi người phải nột thuế cho Xê-da, vì có người coi việc nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.

 

Chẳng những Đức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa." Đây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm. Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài?

 

Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó.

Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St 1,26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa.

 

Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời ta.

 

Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã tặng.

 

Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người.

 

Chúng ta có chiếm đoạt điều gì của Thiên Chúa không? Hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi rõ hay mờ nhạt? Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt Chúa nơi tôi? Ước gì tôi đọc được tên Thiên Chúa, tên Đức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi ngày.

 

Gợi Ý Chia Sẻ

-      Bạn nghĩ gì về những điểm giống nhau và khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh? Theo bạn, đâu là giới hạn của những quyền này?

-      Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nhiều khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn, đâu là những hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?

 

Cầu Nguyện

Lạy Cha,

Có những người bạn trẻ thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.

Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha:

Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc thần linh,

Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con người,

Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người Con Một chí ái,

Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn hoán cải,

Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả thế giới.

Ước gì người ta biết Cha trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất.

Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.

 

8. Nên nộp thuế chăng?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.

 

Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.

 

Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.

 

Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.

 

Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.

 

Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.

 

9. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An.

CON NGƯỜI – HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA

Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:

Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho". Đức Phật liền nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)

 

Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.

 

Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay không?" Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt, Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda" Đức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án (Mt 12, 37).

 

Sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.

Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.

 

Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.

 

Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.

 

Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.

 

Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.

 

10. Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn Thanh Phong

CỦA CESAR, TRẢ VỀ CESAR

CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA

Thưa Anh Chị Em,

Nếu có dịp đến viện bảo tàng Manchester bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rôma, ai cũng có thể nhìn thấy đồng tiền Denarius bằng bạc, trên có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Roma. Đây là đồng tiền được lưu hành trong nước Do Thái thời Chúa Giêsu. Trên đồng tiền này, có in hình Ce’sar Tiberius, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với dòng chữ: "Ce’sar Tiberio, con của thần Augusto" (cf. Tassin). Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.

 

Thực ra, đây là 2 nhóm người khác nhau về nguyên tắc, về quan điểm sống. Nếu như những người thuộc nhóm Herodes chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế, như là phương cách bảo vệ chỗ đứng của mình trong bộ máy cai trị, thì trái lại, nhóm Pharisêu chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Bởi, họ không đón nhận thái độ của các Ce’sar Rôma luôn tự coi mình là thần minh, cho nên đối với họ, việc nộp thuế cho đế quốc được xem như một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì thế, không chỉ phải nộp thuế, mà ngay cả việc mang trong mình đồng tiền của kẻ ngoại bang đã là một hành vi bội giáo. Nhưng vì cùng mâu thuẫn, xung đột tư tưởng với Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng xóa bỏ nguyên tắc, quan điểm riêng, chấp nhận liên minh lại với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu bằng câu hỏi: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế Ce’sar không?”. Đây là một vấn đề mới nghe qua thật bình thường, nhưng sự thực lại không hề đơn giản. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trả lời rằng nên nộp thuế, thì chính Ngài đã nhìn nhận Ce’sar là Chúa của mình,Ngài sẽ trở thành một kẻ bội giáo, mất tín nhiệm với số đông quần chúng. Còn nếu Ngài trả lời rằng không nộp thuế, thì Ngài sẽ bị tố cáo là kẻ chống lại hoàng đế, chống lại chính quyền Rôma. Thật “tiến thoái lưỡng nan”, trả lời thế nào cũng khó. Thế nhưng, thật bất ngờ Ngài lại dùng đồng tiền hai mặt của Rôma để trả lời: "Của Ce’sar, trả về Ce’sar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17). Trả lời như thế, không những Chúa Giêsu thoát được cái bẫy thâm độc của những người đạo đức giả, mà còn khẳng định chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời sống, trong vũ trụ: "Phải trả cho Ce’sar đồng tiền mang hình ảnh và tên của Ce’sar thế nào, thì cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dáng hình của Thiên Chúa”. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng mỗi người luôn có hai bổn phận phải thực hiện giữa đời và trong đạo. Vì có đạo nào lại không ở trong đời và có đời nào lại không là của đạo. Một người Kitô hữu trong đạo cũng là công dân của một đất nước, cho nên cần phải chu toàn cả hai bổn phận thì mới đúng là người Kitô hữu đích thực, là công dân trong đất nước và cũng là công dân trong Nước Trời mai sau.

 

·        Sống giữa đời phải hiểu rằng: Quốc gia thì có luật pháp; Gia đình thì có gia pháp; Cộng đoàn thì có luật riêng của cộng đoàn. Vì thế, ai ai cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận với đời, với xã hội. Cụ thể, gia đình Nagiarét, dù Mẹ Maria sắp đến ngày sinh con, nhưng họ vẫn tùng phục luật xã hội, phải rời miền Bắc trở về miền Nam. khi được lệnh trở về quê để khai báo hộ khẩu.

·        Sống trong đạo thì phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu luôn ưu tiên cho công việc của Chúa Cha. Nên khi hành hương ở hội đường, Ngài đã ở lại để giảng dạy giáo lý, qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: lo việc của Thiên Chúa thì hơn lo việc trần thế (x.Lc 2,46). Không chỉ Ngài đề cao việc của Cha Ngài, mà những người theo Ngài, Ngài cũng đòi hỏi rất gắt gao: "Kẻ nào đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14,26-27). Và cũng vì thế, mà Thánh Phaolô xác định: "Nếu tôi luôn luôn làm hài lòng mọi người, thì tôi không còn là môn đệ của Chúa Giêsu" (Gl 1,10). Nghĩa là, Ngài phải làm hài lòng Thiên Chúa trước, thì Ngài mới có khả năng làm hài lòng mọi người. Rõ ràng, với câu trả lời của Chúa Giêsu "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17), thì hai bổn phận đối với đời và đối với đạo, với Thiên Chúa, luôn cần phải đi song hành với nhau, không có sự loại trừ. Bởi vì, Đạo Công Giáo không phải là Đạo Duy Tâm mà là Đạo có : Có Chúa Kitô, có linh hồn và thể xác, có nhân tính và thần tính, có đời này và có đời sau.

 

Thưa Anh Chị Em,

Một trong những khuynh hướng tiêu cực nơi những người có tôn giáo đó là khuynh hướng phân chia đời sống thành nhiều phạm vi tách rời nhau: phạm vi ở phố chợ khác với ở gia đình, và lại càng khác với phạm vi trong khuôn viên nhà thờ, giáo xứ. Sự tách biệt ấy dễ làm nên những bộ mặt tương phản nơi người tín hữu: Ở nhà thờ là dung mạo rất đạo đức hiền lành và đơn sơ, nhưng bên ngoài pham vi nhà thờ, thì lại là một bộ mặt khác xấu xí hơn như người ta thường nói vui với nhau: Ơ nhà thờ thì hứa với Chúa thật nhiều và ra khỏi nhà thờ thì thất hứa với Chúa cũng thật nhiều. Vì vậy, cần phải hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện – không chỉ ở trong một góc nào đó của nhà thờ khi cử hành phụng Vụ hay trong những buổi cầu nguyện sốt sắng. Chúng ta có thể gặp thấy Ngài ở mọi nơi, cả trong các sinh hoạt đời thường. Vì Thiên Chúa là Đấng Emmanuel – một Thiên Chúa ở với con người, nhưng quan trọng hơn, con người là nơi hình ảnh của Thiên Chúa được thể hiện tròn đầy nhất. Được tạo thành theo dáng hình Thiên Chúa, con người chỉ thực sự lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Chúa khi thể hiện đúng vai trò bổn phận của mình trong thế giới hôm nay và trong lòng Hội Thánh. Vì vậy, lắng nghe lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận của mình trong xã hội cũng như trong Giáo hội để có thể thống nhất trong phương cách thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa. Có như thế, chúng ta mới thực sự làm đúng như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Của Cesar, trả về Cesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Amen.

 

11. Tôn giáo và chính trị

Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống lại Thiên Chúa. Để làm hại Chúa Giêsu, người ta giăng một cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự chiếm đóng của Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho nên đó là điều Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.

 

Những người theo Hêrôđê là những người hợp tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài là người xách động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do thái, ghét người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế, tức là công nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là chống lại Thiên Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp nhận điều đó, Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?

 

Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy kết hợp đó: các ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình cảnh đất nước bị chiếm đóng, do đó, “hãy trả cho César những gì thuộc về César”, nhưng các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức tin của các ngươi vào Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giêsu phân biệt tôn giáo với chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc sống ra làm hai: một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh vực của Thiên Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy nhiên chúng chồng chéo lên nhau.

 

Hẳn có hai lãnh vực, hoặc đúng hơn là nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực bao trùm tất cả. “Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là: các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan đến Thiên Chúa như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải “trả lại cho Thiên Chúa” tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị cũng như trong tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề “đức tin và chính trị” và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.

 

Bởi vì bên trong quyền tối thượng hoàn toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng ta phải thực thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã hội. Không có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên Chúa. Cũng không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong khi tuyên bố rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người Kitô hữu chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu là “vì Thiên Chúa”; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng sai nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.

 

Nhưng cám dỗ ngược lại cũng xấu: tìm cách thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là chúng ta trốn tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động chính trị mà chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống. Ở kỹ trong nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì trong nước thì đó không phải là đạo đức mà là ích kỷ.

 

Người ta đã sử dụng câu trả lời của Chúa Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất từ đó cho phép từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong khi tránh được sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có thể ràng buộc Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.

 

12. Hình ai đây?

Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý trí để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán: “Ta hãy dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta… và Thiên Chúa đã thực hiện dự định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa”. Cái hình ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên giống Chúa hơn. Tư tưởng ấy Chúa Kitô đã nhắc lại cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm Pharisêu. Chúa là sự thật hiện thân, là chân lý vĩnh cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt nói cười mà bề trong nham hiểm giết người không gươm. Họ định đến gài bẫy để bắt lỗi Chúa thế mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật… chẳng vị nể ai…”. Chúa không thể chịu được cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì “có phải nói là có, không thì nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa”. Vì không thể chịu được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ biết những mánh lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài. Chúa bảo họ cho Ngài xem một đồng tiền vẫn đóng thuế. Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng hai thứ tiền: khi đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái, bởi vì theo luật Do Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực đền thờ, mà tiền ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái chỉ có số và niên hiệu mà không có hình ảnh gì. Trái lại, khi nộp thuế cho chính phủ bảo hộ thì phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda. Ai đổi lấy tiền ấy, tức là bằng lòng đóng thuế. Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa. Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: “Của Xêda thì trả về Xêda”, nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa? Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại cho Xêda, thế là xong. Câu trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền lợi của chính phủ hay chính quyền hợp pháp, “Quyền hành hợp pháp là do Thiên Chúa”.

 

Thánh Phaolô đã viết như thế cho giáo đoàn Rôma và Ngài còn thêm: “Những gì ta nợ ai thì phải trả cho người ấy”, mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng thì trả tôn trọng, mắc yêu mến thì trả yêu mến. Những cái đó cũng là những món nợ: nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đòi hỏi ở chúng ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Để làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, Chúa Giêsu đã không ngần ngại thêm: “Và hãy trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Chúng ta nợ Chúa những gì? Chúng ta nợ tất cả. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Ngươi có cái chi mà ngươi đã không nhận được? Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là không”. Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người: linh hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai, những cái làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.

 

Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp. Hình ảnh ấy không thể chỉ là bức hoạt hoạ hay hí hoạ. Bức hoạt hoạ chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi. Bức hình ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô: Chúa là Đấng đáng yêu mến, quý trọng… thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên được những tâm tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí hoạ của Chúa. Những người mới tập vẽ hay những hoạ sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy vẫn còn phải đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ không biết là ai. “Hình này là hình ai đây?”. Câu ấy có thể là một câu mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Có biết bao tín hữu đều là những bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là tín hữu. Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi: “Đây là một tín hữu”, bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.

 

Hôm nay, Chúa đòi và mong muốn chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi chúng ta được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là một hình ảnh đẹp gấp bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần phải sinh lời ra nữa, bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa. “Hình ai đây?”. Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không? Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó? Chúa hay Xêda? Hãy trả ngay cho Xêda những gì là của Xêda. Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho Chúa những gì là của Chúa.

13. César

Người Do Thái lúc bấy giờ đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp những thứ thuế khá nặng cho hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba thái độ khác nhau.

-      Thái độ thứ nhất của những người thuộc phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm cho chỗ đứng của họ và sự bao bọc của chính quyền Rôma.

-      Thái độ thứ hai là của bọn Biệt phái, miễn cưỡng chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là một thứ hình phạt của Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha thứ.

-      Cuối cùng là thái độ của những người ái quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại bang trên quê hương đất nước. Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân và coi việc nộp thuế là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp nhận để Thiên Chúa thống trị trên Israel là dân riêng của Ngài.

 

Còn thái độ của Chúa Giêsu là như thế nào? Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của bọn Biệt phái: Họ giả bộ khen ngợi Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất:

-      Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng vị nể ai và không đánh giá theo bề ngoài.

Thế nhưng bên trong những lời đẹp đẽ ấy lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì nếu Ngài trả lời phải nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.

 

Vì thế, Ngài bảo họ cho xem đồng tiền nộp thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong toàn đế quốc La mã từ năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công nguyên vẫn còn được xử dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế Tibêriô Xêda. Chúa Giêsu cầm đồng tiền và hỏi:

-      Hình và dòng chữ này là của ai?

Và khi biết là của Xêda, Ngài bèn nói:

-      Của Xêda hãy trả cho Xêda, còn của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.

 

Câu nói đó có ý nghĩa: Đồng tiền mang hình Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng ta cho Thiên Chúa. Ngài không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để bày tỏ sự phục tùng, nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng đừng quên rằng mình thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng, mới là Đấng chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.

 

Tóm lại, tiền bạc của con người có thể thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa. Vì Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính trần gian.

 

Những gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta phải kiểm điểm lại cuộc sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những đòi hỏi của Ngài. Thế nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã thực sự chu toàn những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?

 

14. Trả về

Một thương gia tuổi đã trung niên, vừa đáp máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn xa trở về. Bà vợ ra phi trường đón chồng ngay tại cửa máy bay. Vừa bước ra khỏi cửa, người chồng gặp cô chiêu đãi viên hàng không trẻ đẹp và hấp dẫn đi ngang qua. Với vẻ mặt rạng rỡ, ông thương gia nói với cô chiêu đãi viên hàng không rằng: “Tôi hy vọng chúng mình sẽ bay chung với nhau nữa, cô Saunders”. “Làm sao anh biết tên cô ấy?” Bà vợ liền hỏi chồng. Ông chồng trả lời ngon lành, “Em nhìn thấy không, tên của cô ấy được ghi trên bảng ngay phía trước máy bay, dưới tên của người phi công chính và phi công phụ”. Căn cứ vào lời chồng nói, bà vợ hỏi tiếp, “Thế hả, vậy anh nói cho em biết tên của người phi công chính và phi công phụ đi?” Ông thương gia đỏ mặt lúng túng. Sự gian dối, giả hình đã bị lộ tẩy.

 

Phúc âm hôm nay, cho chúng ta thêm một ví dụ nữa về lòng dạ gian dối của những người Pharisêu khi họ cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của họ bằng những lời lẽ thật nặng nề: “Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!” “Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu!”

 

Trong chương trình “Late Show” kể chuyện hài hước trên tivi, Jay Leno nói về bài diễn văn nhận chức tổng thống của tổng thống George Washington kéo dài chỉ có một phút rưỡi mà thôi. Leno đã nói: “Tôi đoán rằng sẽ chẳng có chuyện gì nhiều để nói nếu bạn là một nhà chính trị mà lại không nói dối!”

 

Những người Pharisêu là những chức sắc trong tôn giáo, mặt trong họ chống lại chính quyền Lamã đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền Lamã thu thuế ở Palestine, hỏi Chúa Giêsu rằng: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Lamã bắt vì tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và quần chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Chúa không trả lời “không” hay “có”, nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.

 

Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta không nên giải thích rằng Thiên Chúa và Cêsarê nằm trên hai đường thẳng song song, không nên nghĩ rằng Thiên Chúa và xã hội trần gian sẽ không bao giờ gặp gỡ nhau. Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người.

 

Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: “Tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không thể tìm thấy Ngài?” Nhà thông thái thứ nhất trả lời: “Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài”. Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: “Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương”. Người thứ ba phản đối: “Như thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xuống đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người; không ai có thể tìm thấy Ngài cả!”

Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, và con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo đã dạy ở số 1. bắt đầu sách giáo lý rằng: “Trong một dự tính hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa vô cùng toàn hảo và hạnh phúc nơi bản thân mình, đã tự ý sáng tạo nên con người để cho con người được thông phần vào sự sống diễm phúc của Ngài. Bởi vậy, ở mọi nơi và mọi thời, Ngài muốn ở gần con người. Ngài kêu gọi con người, giúp con người tìm kiếm Ngài, nhận biết và yêu mến Ngài hết sức mình”.

 

 

15. Trả về

Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,

 

Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.

 

Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.

 

Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.

 

Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh. Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.

 

Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.

Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”

 

Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.

 

 

16. Viễn vọng kính

Vua nước Đức Frederic tự cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp mới, khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng tính đi tính lại: Cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết hai triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ. Vì thế, ông truyền phát động chiến dịch bài trừ sẻ. Giết được một con chim là được một phần thưởng.

Toàn dân hưởng ứng nhiệt liệt vì thấy công việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số khác bay về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào trên toàn lãnh thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành công rực rỡ.

Nhưng có ngờ đâu, vừa khi ngày mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đâu từng bầy sâu bọ đua nhau kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ, không cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng buồn ủ rũ, chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.

 

Các qui luật của thiên nhiên, các định luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên tốt đẹp và hữu ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy thì tai họa sẽ ập tới chỉ còn là vấn đề thời gian.

 

Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, đã không chỉ thoát khỏi cạm bẫy của nhóm Pharisêu: ”Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Người còn bất ngờ đưa ra một câu nói thời gian khiến bọn họ phải câm miệng: “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Qua câu này, Đức Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xêda. Nhưng có quyền gì của Xêda, mà lại chẳng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.

Nếu phải trả lại cho Xêda đồng bạc mang hình danh hiệu của Xêda, thì có loài thụ nào mà không mang hình hài và tên gọi của Thiên Chúa. Nhà bác học Newton đã nói: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa trên đầu viễn vọng kính của tôi”.

 

·          Người ta phá vỡ hình ảnh bao la hùng vĩ của Thiên Chúa, khi người ta chặt cây, đốt rừng cho lụt lội tràn lan; rồi thải khí carbonic lên bầu trời, cho lủng tầng Ozone.

·          Người ta phá vỡ hình ảnh xinh đẹp của Thiên Chúa, khi người ta ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tình luyến ái.

·          Người ta phá vỡ hình ảnh chân thật của Thiên Chúa, khi người ta đọc kinh, đi lễ; nhưng sống ích kỷ, lường gạt và gian lận.

 

Sách Sáng Thế viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa”. Vì thế, con người là tác phẩm tuyệt vời mà Thiên Chúa nhìn thấy rất rõ hình ảnh của Người trong đó. “Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Hãy trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh con người đã được Người dựng nên rất thanh khiết thuở ban đầu. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ, tài nguyên và muôn sinh vật, hình ảnh trong lành mà Người đã dựng nên. Hãy trả lại cho Thiên Chúa thế giới do Người tạo nên, hình ảnh của an bình và yêu thương.

 

Chính Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước bằng một tình yêu vô biên. Vì thế hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu Chúa. Huyền diệu của tình yêu là khi nào người kia lãnh nhận, tình yêu ấy mới thực sự thành tình yêu. Tình yêu cho đi, không người nhận, sẽ trở về với người đã trao ban.

 

17. Nộp thuế cho Xê-da – JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Trong cuộc đời, bạn có gặp trường hợp xung đột giữa hai «bản tịch» như Đức Giêsu, nghĩa là trung thành với tôn giáo thì bị kết án là phản bội đất nước, và ngược lại, trung thành với đất nước thì bị kết án là phản bội tôn giáo không? Trong trường hợp đó, bạn cần phải hành xử thế nào?

2. Bạn có phân biệt rõ rệt như Đức Giêsu: cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa không? Nghĩa là phân biệt thánh ý Thiên Chúa và ý muốn của các thế lực đạo đời đang chi phối mình không? Phải coi ý muốn của ai quan trọng hơn?

 

CHIA SẺ

1. Tình trạng hai «bản tịch» của Đức Giêsu

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung đột giữa hai «bản tịch» của Đức Giêsu cũng như của mọi Kitô hữu có quê hương dân tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức «giáo tịch», vừa là người dân của một đất nước, tức «quốc tịch». Ngài cũng như chúng ta, vừa phải yêu mến Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử theo lương tâm…), vừa phải yêu quê hương đồng bào và có nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật, đóng thuế, quân dịch…). Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì có vẻ như phản bội đất nước, và ngược lại.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giêsu. Người Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do Thái, vì thế, họ âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng Hê-rốt là người của Hê-rô-đê An-ti-pa – tiểu vương miền Ga-li-lê – chủ trương ủng hộ chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối nhau kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc; còn phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng nước những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.

 

Điều rất lạ là trong bài Tin Mừng này hai phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức Giêsu, bằng cách đặt Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa hai «bản tịch» ấy. Họ chất vấn Ngài: «Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?» Trả lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói «được phép», Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo «không được» thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giêsu đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai «bản tịch» trên. Đó là «của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa».

 

2. Thần quyền hợp với thế quyền bách hại Đức Giêsu

Người mang hai «bản tịch» như thế bị chi phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo và thế quyền bên đất nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm đến những thiện ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi ích và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi tín đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất là khi hai bên có những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế quyền chủ trương vô tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo đó là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi. Lúc đó, những người dân hai «bản tịch» bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một bên và bỏ một bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một bên nào, bên nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung thành với tôn giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị tôn giáo kết án.

 

Nhưng cũng có những trường hợp thần quyền và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn thấp cổ bé miệng, như trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể trở thành công cụ của thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau để áp bức người dân, để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh vực hay tương nhượng lẫn nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai trái, bất chấp quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.

 

Thần quyền cũng như thế quyền đều được lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của các tín đồ. Thần quyền còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc gia và các tôn giáo, cũng như cuộc đời của Đức Giêsu cho thấy: không phải lúc nào thần quyền và thế quyền cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ theo đuổi những mục đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Kitô hữu chân chính, tức những môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cho dù hoạt động trong thần quyền hay thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa, của đất nước, của tôn giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân, quyền lợi cá nhân cũng như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu không thì càng giữ chức vụ cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho họ.

 

3. Áp dụng nguyên tắc của Đức Giêsu

Là tín đồ của một tôn giáo trong một đất nước, chúng ta có hai «bản tịch» với hai loại nghĩa vụ: một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là đối với quốc gia, xã hội. Người Kitô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: «Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua» (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung như thế, thánh Phao-lô nói: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt» (Rm 13,1-2). Đó chính là áp dụng lời của Đức Giêsu: «Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa», nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở bên nấy.

 

Tuy nhiên, lý tưởng trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai «bản tịch» sẽ gặp nhiều khó khăn. Là người Kitô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người lên trên hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của hai thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực này không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con người. Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục. Đức vâng phục Kitô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân phục. Vì «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Nếu ta biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giêsu và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.

 

Điều quan trọng là chúng ta phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay thẳng và được giáo dục của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay thương mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay thương mại, mà chỉ chủ trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có quyền miễn làm theo thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước những xung đột như thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý muốn của con người?

 

Cầu nguyện

Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không phải là đơn giản, vì rất nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao nhất mà Kinh Thánh mặc khải cho, chính là: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29), hay «Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi» (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ nguyên tắc ấy qua lương tri và lương tâm của con. Amen.

 

18. Nên giống Chúa

Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình?

Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.

 

Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay ra trong dáng điệu đón nhận. Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống em.

 

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa. Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp… nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.

 

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: “Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)

 

Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

19. Xin Thầy cho biết ý kiến

Bài Phúc âm hôm nay có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.

 

Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.

 

Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.

 

Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng là Chúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.

 

Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".

 

Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.

 

Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".

 

Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.

 

Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

20. Nộp thuế cho Xêda – Lm PX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Tiếp sau phân đoạn 21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu đánh bại các đối thù trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là các “truyện về tranh luận”. Nét tiêu biểu của các truyện này là người tường thuật không quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông thường cho thấy: hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc. 15-22), hoặc câu hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu có nói đến lập trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải nói ra cho cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các diễn viên ranh ma nhưng thừa thãi.

 

Hình thái của bốn truyện cũng có đặc tính của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu hỏi cho thầy (22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái, các tranh luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên như sau:

1- [K]hokmâh (“sự khôn ngoan”): đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp luật;

2- Haggadâh (“truyện ký”): đây là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;

3- Bôrut (“sự tầm thường”): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;

4- Derek ‘erets (“đường đất”): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.

 

Chúng ta có thể cho rằng tác giả Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):

1- [K]hokmâh:22,15-22,

2- Bôrut: 22,23-33;

3- Derek ’erets: 22,34-40,

4- Haggadâh: 22,41-46.

 

Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22,15);

2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22,16-17);

3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):

a) lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c. 18),

b) lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),

c) giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).

Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết của cuộc tranh luận (c. 22).

 

3.- Vài điểm chú giải

- người Pharisêu … người thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.

- người chân thật … chẳng vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.

- được phép … hay không (17): “Được phép” (exestin) [và “không được phép”] là công thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi “được phép không?” thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.

- nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan…), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.

- đồng tiền nộp thuế (19): Người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có một bên là hình cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế, được coi như nữ thần hòa bình.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (15)

Câu 15 mở đầu cho toàn phân đoạn (cc. 15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ, các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để chống một kẻ thù “chung”.

 

Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm rút được một tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy hại Người.

 

* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (16-17)

Ở đây những người Pharisêu sai các môn đệ của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh sư) cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. Ở Mc 12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết (“có được phép nộp thuế?”) vừa thực tiễn (“chúng tôi có phải nộp thuế?”); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là một lời khen hết sức giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào Người là “Thầy” (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Thật ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng của những sứ giả do người Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch và không lương thiện. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp; họ “nhả chất độc ra” (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: “có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Nếu trả lời “có”, Đức Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời “không”, Người sẽ bị coi là chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một kiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp phải phản ứng chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: “có được nộp thuế hay không?”. Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.

 

* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)

Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo đức giả” (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người. Họ đáng bị gọi là “những kẻ đạo đức giả” theo hai nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.

 

Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời (“Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”, c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do Thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu, mà bây giờ “trả về Xêda” (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.

 

Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là “trả về Thiên Chúa”, điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi hoạt động: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33. Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.

 

+ Kết luận

Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là “ánh sáng cho thế gian” dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người (x. Ga 3,28).

 

2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn (“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng…”).

 

3. Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế, là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại một quê hương trần thế.

 

21. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa

Của Caesar trả cho Caesar,

Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa

** Bối Cảnh Đoạn Tin Mừng:

Đế quốc Rôma thống trị xứ Palestin từ năm 63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững chắc tại đất nước này. Họ cũng đặt vua Hêrôđê là người Do Thái để đại diện Rôma cai trị dân. Nhưng dân Do Thái lại chia ra nhiều phe: Phe Hêrôđê và những người thuộc nhóm Sađucêô thì ủng hộ việc đóng thuế cho Rôma để củng-cố địa vị và tài sản. Phe Pharisêô thì bất đắc dĩ phải nộp thuế, nhưng trong lòng không muốn tuân phục. Còn phe thứ ba, thuộc nhóm những người yêu nước quá khích thì hoàn toàn tẩy chay việc đóng thuế cho đế quốc Rôma mà họ coi là dân ngoại, không có quyền chi trên dân của Chúa!

 

Dân Do Thái lại gồm 3 loại người:

- Công Dân Rôma là những người có quốc tịch Rôma (như Thánh Phaolô…)

- Người tự do là những người dân thường. Chúa Giêsu thuộc nhóm người tự do.

- Người nô-lệ.

 

Theo luật Rôma, tất cả mọi người cả nam cũng như nữ từ 14 tới 65 tuổi, hàng năm phải đóng thuế cho Rôma 1 đồng bạc DENARIUS. Đồng bạc. Đồng DENARIUS được đúc bằng bạc, nặng 3,8g. Đồng DENARIUS đã được đế quốc Rôma dùng từ năm 268 trước Chúa Giáng Sinh và mãi tới năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn tiếp tục dùng trong đế quốc Rôma. Đồng bạc được khắc hình các hoàng đế Rôma, thời Chúa Giêsu, thì hình và hiệu trên đồng DENARIUS là hình và hiệu của hoàng đế Tibêriô, ông cai trị từ năm 31 trước Chúa giáng sinh và băng hà năm 14 sau Chúa giáng sinh.

 

Câu hỏi nham hiểm:

Với bối cảnh trên, sau khi 2 nhóm Pharisêô và Sađucêô đã thất-bại trong việc cấu kết lại với nhau để cật-vấn Chúa Giêsu nhiều điều, mục đích để hại Chúa, nhưng Chúa đã khiến bọn họ phải “Câm Họng!”, nên lần này, chúng cấu-kết với nhóm Hêrôđê, nhóm III thiên về chính trị, ủng hộ đế quốc Rôma để gài bẫy hầu có thể kết án tử cho Chúa Giêsu. Chúng đến với Chúa Giêsu với bề ngoài rất cung kính, muốn tìm hiểu con đường Công Chính để noi theo. Họ lễ phép thưa: “Thưa Thầy!” –(RABBI là tiếng học trò thưa với thầy) “Chúng tôi biết Thầy là người Công Chính, không tây vị ai, Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?” (Mt 22:17).

 

Đây là câu hỏi vô cùng nham hiểm, nhưng dưới bề ngoài rất chân thành, vô tội, muốn biết sự thật để sống theo Sự Thật, nhưng với dã tâm của chúng, chúng nghĩ rằng: chắc chắn sẽ đưa Chúa vào gọng kìm, không thể thoát được! Đây là miếng mồi nhìn thoáng qua rất dễ nuốt, nhưng bên trong là lưỡi câu sắc bén, đầy nguy hiểm! Bởi vì : Nếu Chúa trả lời : “NÊN nộp thuế thì những người Do Thái yêu nước sẽ nghĩ rằng Chúa về phe với Rôma hà hiếp dân và do đó sẽ chẳng ai tôn kính, nghe lời dạy của Chúa nữa! Còn nếu Chúa trả lời: “KHÔNG NÊN nộp thuế cho Caesar! Thì nhà cầm quyền sẽ liệt Ngài vào số những người phản loạn và sẽ không tránh được án tử hình!

 

Đứng trước cạm bẫy vô cùng nguy hiểm mà những người thù ghét Chúa giăng ra, Chúa Giêsu thấu rõ dã tâm quỷ quyệt của chúng, nên, trước khi trả lời, Chúa thẳng tay vạch mặt nạ đáng tởm của chúng. Ngài nghiêm nghị phán: “Hỡi bọn giả hình! Các ngươi gài bẫy Ta làm chi?” (Mt 22: 18) Thật xấu hổ cho bọn người nham hiểm muốn giăng bẫy hại Chúa!

Đoạn Chúa bảo: “Hãy đưa cho Ta đồng tiền!”, đoạn Chúa hỏi họ: “Hình và hiệu này là của ai?”. Chúng trả lời: “Của Caesar”. Chúa trả lời thẳng thắn, không cần úp mở:

“CỦA CAESAR thì trả cho Caesar,

của THIÊN CHÚA thì trả cho Thiên Chúa!” (Mt 22:21)

Câu trả lời của Chúa Giêsu trở thành thời danh và trở thành nguyên-tắc cho Sự Công Bằng cho toàn nhân loại noi theo! Thần quyền và thế quyền là hai phương diện hoàn toàn khác nhau. Con người trần thế, vì có xác, có hồn nên cần chu toàn các luật lệ trần thế cũng như về Thiên-Luật. Tuy nhiên, vì Thiên Chúa là Chủ-Tể Tối Cao, Đấng vượt trên mọi loài trên trời dưới đất, nên Thiên Luật phải được tuyệt đối chấp hành.

 

CỦA CAESAR:

Các nhân luật: Chẳng hạn như luật của Liên Bang, luật tiểu bang, luật giao thông, luật thuế vụ, luật của thành phố… nói chung: Những luật đem lại công ích cho nhân loại, cho dân tộc, chúng ta phải chấp hành. Tuy nhiên, những luật trái với Đạo Lý, trái Công Bằng, chẳng hạn: những luật cho phép phá thai, hôn nhân đồng tính hay an-tử… là những luật trái với đạo đức thì các công dân không bao giờ được phép làm. Đặc biệt là những luật chống lại Thiên Chúa thì không bao giờ được tuân theo, vì đó là phản loạn với Đấng Tạo Hoá, Đấng đã tạo dựng, gìn giữ và bang trợ hết thảy muôn loài muôn vật!

 

] Của Caesar: Đó là những gì CỦA NGƯỜI KHÁC như: Tiền bạc, sản nghiệp, tiếng khen, nghề nghiệp… hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của cá nhân đó, người khác hoàn toàn không có quyền tiêu dùng, làm hao hụt hay lấy đi trái với ý rõ ràng của chủ của. Phạm quyền sở hữu, bất cứ bằng cách nào đều là tội Lỗi Đức Công Bằng!

 

] Của Caesar: Cũng nên để ý về VIỆC ĐÓNG THUẾ cho chính phủ. Mọi công dân trong nước đều được hưởng những tiện nghi công cộng như: đường xá, trật tự an ninh, cứu hoả, nhà thương, bưu điện… Tất cả những chi phí đó đều lấy từ tiền đóng thuế của toàn dân. Trong khi những người khác đóng thuế mà ta không đóng, thì đó là tội lỗi Đức Công Bằng!… Có người có gia tài to lớn, có 2, 3 nhà cho thuê, nhưng lại cho người khác đứng tên để được hưởng TRỢ CẤP NGƯỜI GIÀ… thì đó cũng là tội lỗi Đức Công Bằng!

 

CỦA THIÊN CHÚA

Thiên Chúa là Chủ Tể muôn loài, muôn vật, nhờ Ngài, muôn loài được tạo dựng, bảo trì và nuôi dưỡng. Ngài nắm giữ mọi vận mạng các quốc gia, dân tộc. Do đó chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng nhân loại tôn thờ và yêu mến. Mình Thiên Chúa vì thế có Quyền Tối Thượng, Quyền Tuyệt Đối, quyền vượt trên mọi quyền trần gian, không ai được hành động trái với Thánh luật của Chúa.

 

Riêng con người, chúng ta được Thiên Chúa vô vàn trân quý và “Sáng tạo giống hình ảnh của Người” (Sáng Thế Ký 1:27). Vì thế, nhân loại mọi nơi, mọi thời đại, tất cả, dù da trắng, da vàng, da đen, mọi ngôn ngữ chủng tộc đều là CON THƯỢNG ĐẾ, và do đó, chúng ta vô cùng Hạnh Phúc vì được Thiên Chúa yêu thương, bang trợ và dẫn đưa về tới Bến Bờ Phước Hạnh Vô Biên trong vương quốc của Chúa là Gia Nghiệp mà Cha Thiên Thượng đang dành sẵn cho tất cả các con yêu của Ngài.

 

Đã là con, chúng ta có bổn phận phải hết lòng hiếu thảo, yêu mến và tuân theo Thánh Chỉ của Cha. Hơn nữa, chúng ta cần chân nhận rằng: Tất cả những gì chúng ta có, đều bởi Cha chúng ta: Linh hồn, thân xác, sức khoẻ, tài năng, cơ hội, địa vị, thời giờ… tất cả đều bởi Cha Thiên Thượng mà có. Và do đó, chúng ta hãy trả lại cho Cha chúng ta để tỏ lòng suy tôn, tùng phục Thánh Ý của Cha. Sống như thế mới trọn đạo con thảo đối với Cha!

] Chúng ta hãy lắng đọng tâm tư xem chúng ta có TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA những gì thuộc về Thiên Chúa, hay chúng ta nghĩ rằng những thứ đó hoàn toàn do chúng ta mà có được!

 

Sách NHỊ LUẬT dạy “phải dâng Thiên Chúa ít nhất 10% mọi hoa lợi của chúng ta” (Nhị Luật 14:22-27): Thời giờ: Chúng ta mỗi ngày đã dùng mấy phút để tôn vinh, ca ngợi Chúa?

 

Về sức khoẻ, tài năng… chúng ta có dùng để làm vinh danh Chúa hay chỉ để lo cho thân xác??? Linh hồn và thân xác… chúng ta có dùng toàn thể con người từ ý tưởng, lời nói, việc làm để tôn vinh Chúa hay chỉ để phục vụ cho thân xác của riêng ta??

 

Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa: Chúng ta được phước hạnh và bổn phận phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, thì đó mới hoàn thành bổn phận được Thiên Chúa yêu thương và tạo thành và sẽ được chung hưởng Phước Lộc Vô Tận mai sau với Ngài!

 

CHÚA GIÊSU CÓ CHẤP HÀNH LUẬT TRẦN THẾ KHÔNG?

Mặc dầu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, đáng lẽ Ngài không cần và không buộc phải chấp hành các luật trần thế, bởi vì Ngài vượt trên tất cả các vua chúa trần gian, nhưng Ngài vẫn nêu gương tuân phục:

-      Cha Mẹ của Chúa Giêsu đã tuân lệnh hoàng đế để trở về Bethlêhem để khai sổ nhân đinh (Lc 2:4)

-      Chính Chúa Giêsu đã truyền cho ông Phêrô đi đánh cá để nộp thuế cho Ngài và cho ông Phêrô (Mt 17:26)

-      Mặc dầu chính Tổng-trấn Philatô- người kết án tử cho Chúa Giêsu- đã xác-nhận Ngài hoàn toàn vô tội… Thế nhưng chính Chúa Giêsu thì hoàn toàn không một lời phản-đối! Ngài chấp nhận chịu chết do bản án bất-công đó! (Lc 23:22)

GƯƠNG THÁNH THOMAS MORE

Thánh Thomas More bên nước Anh vị thủ lãnh các quan trong triều, rất được Vua Henri VIII kính phục và thương mến. Tuy nhiên, vua muốn xin Toà Thánh để ly-dị bà hoàng-hậu Catherin D’Aragon nhưng Toà Thánh không thể chấp nhận vì trái với luật Chúa. Vua liền cưới bà vợ khác và bắt tất cả quần thần phải ký vào văn bản chấp nhận hành động của vua, ai không tuân thì bị giết chết. Thánh Thômas More nhất định không làm theo mệnh lệnh của nhà vua nên bị xử tử.

 

Thánh Thomas More đã yêu mến và tuân theo luật Chúa hơn lệnh của Đức Vua. Ngài đã chứng tỏ tình yêu trung kiên với Thiên Chúa xứng đáng triều thiên vinh quang các Thánh Tử Đạo

 

22. Chú giải của Noel Quesson

Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…

Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự "nhất trí về đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.

 

Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.

 

Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh hữu' hay "cánh tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?

 

Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”

Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật… để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn… để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.

 

Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".

Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời "không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.

 

Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị… nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói "không", dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?

 

Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.

Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.

 

Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".

Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ? Đức Giêsu sẽ trả lời gì.

 

Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".

Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời "Giáo Hội và Nhà Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…

 

Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.

 

a) Của Xê-da, trả về Xê-da…

Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa "dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).

 

Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị… như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa… Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của "Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: "Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).

 

Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da", khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da… nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.

 

b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…

Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội "không Thiên Chúa" cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. "Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. "Con người không chỉ sống bởi bánh"… bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của Thiên Chúa" "theo hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải "trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa… và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.

 

 

(158)

Bài đăng bởi Truyền Thông Giáo Xứ Tân Lộc

Pin It

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bạn có thể sử dụng các thẻ HTML và thuộc tính sau: