Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Hc 35,15b-17.20-22a; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14
MỤC LỤC
1. Mũi nhọn xung kích – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống. 2
2. Người thu thuế ra về được khỏi tội 8
3. Người Pharisêu và người thu thuế – Vincent Travers. 11
4. Nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. 16
5. Quì gối xuống – Lm Vũ Minh Nghiễm.. 19
7. Con mắt – Lm. Vũ Đình Tường. 27
8. Hai hạng người cầu nguyện – Veritas. 30
9. Hai hạng người cầu nguyện. 33
10. Ai là người công chính? – Thiên Phúc. 35
11. Xin thương xót con- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 39
12. Hài lòng về mình hay về Thiên Chúa?. 42
13. Chỉ công đức không mua được thiên đàng. 44
15. Ai là người công chính?. 50
18. Chấp nhận sự thật về chính mình. 61
21. Lời cầu nguyện khiêm nhường. 69
22. Lời cầu nguyện đích thực. 72
23. Tội lỗi chống lại sự có tội – McCarthy. 77
1. Mũi nhọn xung kích – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn sống động và mang tính khái quát. Rất gọn về số câu, số chữ nhưng lại rất rộng về hàm ý nội dung. Chỉ có hai nhân vật với vài nét chấp phá sơ sài nhưng cũng đủ khái quát cho mọi tầng lớp dân chúng. Chỉ là một thoáng lên Đền cầu nguyện nhưng lại biểu trưng cho mọi sinh hoạt tôn giáo. Chỉ quanh quẩn trong chu vi Đền Thánh nhưng lại điển hình đến nỗi có thể nới rộng ra cả cuộc đời.
Nhưng điều làm cho dụ ngôn sống động đến hôm nay thiết tưởng không những vì tính khái quát ấy mà đáng lưu ý hơn, theo ngôn từ báo chí, còn vì “tính xung kích” với những mũi nhọn không thể tránh né của nó.
Đẹp lắm nhưng cũng đau lắm. Khéo léo lắm nhưng cũng nhức nhối không kém. Xin chia sẻ về tính xung kích ấy.
1. Mũi nhọn thứ nhất: tố giác một não trạng tôn giáo đầy ảo tưởng
Đối với người Do Thái, luật Thiên Chúa là trên hết, đời sống của họ được khuôn đúc theo lề luật, xã hội của họ gắn liền với tôn giáo nên cũng được tổ chức theo lề luật. Đã có những thành phần ưu tuyển chuyên viên về lề luật được gọi là Luật sĩ và cũng có những thành phần khác chú tâm đến việc thi hành luật đến độ tỉ mỉ, đó là mấy ông biệt phái. Luật lệ là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống. Quan điểm ấy không có gì đáng phàn nàn nếu qua lề luật người ta nhận ra bàn tay và tấm lòng của Thiên Chúa luôn dẫn đưa và giáo hóa con người. Nhưng quan điểm ấy trong thực tế đã không giữ được vẻ tinh ròng của nó mà đã bị biến chất dần dà theo năm tháng để trở thành một thái độ tôn giáo kệch cỡm, di căn trong nếp nghĩ và đồng thời méo mó trong thực hành. Và đây là một thực trạng nguy hiểm mà Chúa Giêsu gọi là “men Biệt phái” cũng là điều dụ ngôn hôm nay tố giác.
- Nguy hiểm nhất là tất cả đã bị đảo lộn: luật lệ thay vì là phương tiện đã được nâng lên hàng mục đích và Thiên Chúa thay vì là cùng đích lại bị xếp xuống hàng phương tiện.
- Nguy hiểm thứ hai là tất cả đã trở thành máy móc: làm như cứ chu toàn một số khoản luật là tức khắc người ta trở thành công chính và có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải ký tên đóng dấu chứng thực cho sự công chính này, giống như kiểu chấm công và báo công trong các xí nghiệp trước đây đã bị báo chí phê bình gay gắt, chấm công thì rất nhiều nhưng việc chẳng chạy bao nhiêu, ấy là chưa nói tới việc công, việc tư, lẫn lộn và thế là vỡ nợ thất bại.
- Và nguy hiểm hơn hết là tất cả đã làm thành một ảo tưởng đặc dầy về quá khứ công trạng để rồi thành chuẩn mực phủ định những người không thuộc về phe cánh mình, không giống như mình, không đúng ý mình, kể cả Thiên Chúa nữa.
Ông Biệt phái trong dụ ngôn đã rơi vào cái ảo tưởng mà Chúa Giêsu muốn tố giác này:
Lời kinh của ông khởi đầu bằng tâm tình tạ ơn rất đẹp, nhưng đã nhanh chóng trở nên xấu bởi có ý đồ níu kéo Thiên Chúa thỏa hiệp với lối sống vụ luật “trên mức bó buộc” của ông. Có biết đâu ông đã ảo tưởng. Thiên Chúa vì yêu thương tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, nhưng chính ông lại xây dựng một Thiên Chúa theo hình ảnh của ông.
Và lời kinh của ông còn tồi tệ hơn khi tự hào cho mình là công chính để so sánh mình với đời sống bên ngoài của những người khác. “Đứng thẳng nguyện thầm” có vẻ tốt đấy, nhưng kênh kiệu làm sao và cũng ảo tưởng biết bao. Khẳng định mình đúng cách là tốt, nhưng khẳng định mình bằng cách phủ định kẻ khác, bằng cách dèm pha nói xấu bôi nhọ khinh chê người ta thì quả thật là trơ trẽn.
Và nguy hiểm cuối cùng đến từ những mối nguy hiểm trên là chính mình không còn cảm thấy nỗi hiểm nguy nào nữa, thành ra khô đạo mà tưởng mình sống đạo, phá đạo mà tưởng mình xây đạo, bài tôn giáo ngay giữa lòng tôn giáo và bóp nghẹt Thiên Chúa trong khi tưởng như mình vẫn tôn thờ Ngài, làm lu mờ Danh Chúa mà tưởng như mình đang làm sáng danh Ngài.
2. Mũi nhọn thứ hai: xây dựng một thực chất tôn giáo.
Nếu qua hình tượng ông biệt phái, dụ ngôn muốn tố giác một thứ đạo đức ảo tưởng đầy nguy hiểm, thì ngược lại qua ông thu thuế, dụ ngôn lại nhắm một mục đích tích cực nhưng cũng không kém phân xung kích, đó là xây dựng một nền đạo đức đích thực tôn giáo.
Nền đạo đức đích thực ấy dựa trên những thái độ cơ bản là không phải chỉ tin có Thiên Chúa mà phải tới chỗ tin vào Ngài. “Tin có” và “tin vào” là hai động từ gói ghém những thái độ khác nhau lắm dẫu ở đó đều hiện diện chữ “tin”. Không ít người tin có Thiên Chúa, nhưng để gọi được là tin vào Thiên Chúa thì còn phải hạ hồi phân giải tùy theo chất lượng chứng minh của cuộc sống. Ông biệt phái tin có Thiên Chúa quá đi chứ, nhưng nếu hỏi “ông có tin vào Ngài chưa?” thì phải trả lời là chưa, mà ngược lại, thay vì tin vào Ngài, đời sống ông lại cho thấy chỉ tin vào mình, cậy dựa vào sức mình để kèn cựa sao cho người khác xem mình là công chính.
Còn ông thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.
Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Tin vào Thiên Chúa sẽ gặp được tình thương của Ngài, còn chỉ tin vào mình rốt cuộc lại gặp chính mình trong những ảo tưởng chất chồng. Nhưng cũng phải thưa ngay rằng: luôn luôn có một sự quân bình giữa một đàng là tình thương Thiên Chúa và đàng khác là cố gắng của con người. Chỉ ỷ lại vào tình thương Thiên chúa cũng sẽ rơi vào ảo tưởng như là chỉ ỷ y vào sức mình. Thế nên, đạo đức đích thực chính là dung hòa giữa nỗ lực và cậy trông. Xin mượn kiểu chơi chữ của thánh Augustinô để minh họa. Ngài bảo ai càng cảm nhận về sự khốn cùng của mình, người ấy càng gặp được sự khôn cùng của tình thương Thiên Chúa. Ai sống hết mình với cái miseria của mình, người ấy cũng biết cách để tiếp nhận cái misericordia của Thiên Chúa. Giống như người say rượu một khi biết tật của mình mới hết khướt say.
3. Mũi nhọn thứ ba: cật vấn hôm nay.
Với hai mũi nhọn trên, dụ ngôn đã trở thành sống động và sở dĩ còn sức sống đến hôm nay là vì mũi nhọn thứ ba: dụ ngôn là lời cật vấn gởi đến mọi kẻ tin, ngân vang tới mọi sinh hoạt tôn giáo và len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường. Thế nên vấn đề được đặt ra ở đây trên bình diện cá nhân cũng như tập thể với những thích ứng cần thiết là hãy thử nhận diện cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình.
Có thể ta không gặp sừng sững một ông Biệt phái lộ liễu ngất ngưỡng ở trong lối sống đạo của ta, nhưng biết đâu cái ảo tưởng an toàn khi chu toàn các bổn phận trong đạo như ông biệt phái lại chẳng lây lan len lỏi lập lòe trong tâm thức của mình? Biết đâu lúc này khác hơn một lần ta đã tự ru mình vào giấc ngủ “tự hào” khi bằng lòng với cách thể hiện đức tin hiện tại? Biết đâu đó đây trong ngày sống ta đã chiều theo ý nghĩ so sánh đời ta với đời người khác về phương diện đạo đức, theo kiểu “Trông lên mình chẳng bằng ai, nhưng khi trông xuống chẳng ai bằng mình”? Xưa Chúa Giêsu gọi đó là “men Biệt phái”, nay có lẽ nên gọi là “viris BP” xin tránh xa. Nếu “virus BP” mà giống “dầu nhớt BP liên tục phát triển” như quảng cáo trên tivi thì nguy quá! Trượt té dài dài.
Có thể ta thấy mình bỗng dưng gần gũi với ông thu thuế vì đời ta vương nhiều tội lụy, vì ta đi lễ thích đứng cuối nhả thờ, và vì ta cầu nguyện chỉ mong thật ngắn chẳng thích dài lời như như Phúc Âm kể: “Ông thu thuế đứng dàng xa, không dám ngước mặt, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện: Lạy Chúa xin thương con là kẻ tội lỗi”. Nhưng chưa chắc đâu, bởi ông thu thuế khiêm tốn hết mình để được thứ tha hết tình, còn ta có khi chỉ là khiêm tốn nửa mùa tưởng bở, như thoáng thấy qua trang Nhật Ký của Đức Gioan XXIII ngày nào: “Tôi tưởng mình là cậu bé Séraphim nhưng nhìn kỹ tôi lại thấy mình là một chú Lucife nhỏ”.
Và vượt lên tất cả chính là lời thầm nhủ: hãy tin vào tình thương của Chúa mà sống tốt cuộc sống Ki-tô của mình. Với người này có thể trút bỏ những ảo tưởng tự hào, với người kia có thể là nhen lên lòng sám hối khiêm cung. Riêng cá nhân tôi nhân ngày tròn bảy năm linh mục, cùng với lời tạ ơn Thiên Chúa, lời cảm tạ cha sở và cộng đoàn, cũng sẽ là một lời kinh âm thầm xin được luôn tin vào tình thương Thiên Chúa.
Chiều qua khi đang sắp xếp lại sách vở, nghe cassette nhà ai mở bài “L’amour c’est pour rien” với lời hát “Tình cho không biếu không chớ nên mua bán tình yêu”, bất giác tôi nghĩ về tình thương Thiên Chúa: một tình thương luôn sẵn cho đi, một tình thương chẳng chờ đợi gì, một tình thương không mong đáp trả, một tình thương mãi mãi thứ tha.
Cầu chúc mọi người luôn tin vào tình thương Thiên Chúa để mãi vươn lên trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, bởi xét cho cùng mỗi cảnh ngộ cũng là một dụ ngôn sống động ẩn chứa những mũi nhọn xung kích mời ta khám phá không ngừng.
2. Người thu thuế ra về được khỏi tội
(Trích dẫn từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hàng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: "Nơi Thiên Chúa khóc". Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách hại tại Đông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc cầu nguyện như sau:
Tôi cùng với một số người Đức bị đưa đi đày xa quê hương từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái huynh đệ.
Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.
Anh chị em thân mến!
Lời cầu nguyện thật lúc nào cũng là lời cầu nguyện của tình yêu thương và tha thứ, lời cầu nguyện liên kết mọi người với nhau, lời cầu nguyện của sự xây dựng cộng đoàn. Thật là khác với những lời cầu nguyện của những người Pharisiêu như được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta liền nhớ đến những lời nhắn nhủ sau đây của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong tập sách "Đường Hy Vọng":
Dù con có tử đạo, nộp mình chịu thiêu, dù con có làm tông đồ, giảng dạy các thứ tiếng của nhân loại và thiên thần, dù con có hoạt động từ thiện, đem hết cả tài sản phân phát cho người nghèo khó mà con không có lòng mến thì cũng như không. Việc con làm không quan hệ, cách con làm mới quan hệ.
Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: "Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…" Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Đường Hy Vọng" đã nhắn nhủ chúng ta về việc cầu nguyện như sau: Khi hai hay ba người hiệp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Lời Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện cách kiên trì giữa những gian nan thử thách và cô đơn. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy noi gương người đàn bà bị băng huyết động đến gấu áo Chúa được nhận lời ngay. Con tội lỗi không dám ra trước mắt Chúa, nhưng lời Hội Thánh khiến con vững tâm: "Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con".
Vậy, tất cả sự thương khó của Chúa Giêsu và công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh không đủ để bao bọc lời cầu nguyện nhỏ bé của con sao? Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng và Ngài quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: "Phêrô, Madalena, Simon phong cùi, Giakêu… Chúa đã tự đến nhà họ và đành chịu tiếng làm bạn với quân thu thuế và người tội lỗi".
Quyền năng nơi Thiên Chúa phục vụ qua lòng nhân từ của Ngài. Quyền năng của một người Cha nhân từ đủ sức thanh tẩy và đổi mới cuộc đời tội lỗi, nếu chúng ta khiêm tốn để cho ơn Chúa được tự do tác động.
Lạy Chúa, như người thu thuế kia, con thành tâm kêu xin Chúa, xin Chúa thương xót con, hãy tha thứ mọi tội lỗi con và dẫn đưa con về với tình yêu: Yêu Chúa và yêu anh em như Chúa đã yêu. Amen.
3. Người Pharisêu và người thu thuế – Vincent Travers
Dụ ngôn này nhắc nhở tôi câu chuyện về một người đàn ông khoe khoang như sau: nếu trên trần thế này chỉ còn lại hai người tốt mà thôi thì đó chính là tôi và con trai của tôi. Nhưng nếu chỉ còn lại một người tốt, thì chắc chắn người đó phải là tôi!
Người Pharisêu tự thấy mình cũng như người đàn ông đó, nổi tiếng và gương mẫu về mọi phương diện, từ đầu đến chân, trên mọi người khác. Thật thế, ông ta đã nói: “Tôi lương thiện và ai giống tôi?”
Điều nguy hiểm khi đọc dụ ngôn này là chúng ta tự khen ngợi mình không giống như người Pharisêu kia, cũng như người này tự khen ngợi mình không giống như người thu thuế. Nếu chúng ta dám nhìn kỹ hơn, tôi thiết tưởng có rất nhiều điều giống với người Pharisêu ở trong tất cả chúng ta. Vấn đề là giống bao nhiêu mà thôi.
Vào một ngày nắng đẹp trời, một con voi ngâm mình trong một cái hồ ở trong rừng sâu. Một con chuột đến bờ hồ và yêu cầu con voi ra khỏi hồ. Con voi hỏi: “Tại sao?” Con chuột nói: “Tôi sẽ nói cho bạn biết tại sao, khi bạn ra khỏi hồ.” Vì vậy con voi đã ra khỏi hồ và nói: “Tao ra khỏi hồ rồi đó. Vậy mầy muốn gì?” Con chuột đáp: “Tôi chỉ muốn xem có phải bạn đã mặc bộ đồ tắm của tôi không.”
Tất cả chúng ta là những tay tổ trong nghệ thuật phóng đại sự kiện tự quan trọng hoá mình.
Tự ca ngợi mình không phải là ca ngợi
Chúa Giêsu đã dùng những kỹ thuật gây nên sửng sốt. Qua câu chuyện này, thính giả của Ngài đều nhận biết một nhân vật là tốt, còn nhân vật kia thì xấu. Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho họ sửng sốt bằng cách kết án nhân vật tốt và ca ngợi nhân vật xấu.
Để hiểu câu chuyện gây nên sửng sốt đến mức độ nào cho những người nghe nói lần đầu tiên, chúng ta phải nhận thức rằng người Pharisêu ở đây không phải là một kẻ giả dối. Ông ta thực sự tốt hơn những người khác. Ông đã đi quá xa hơn những gì ràng buộc ông ta. Ông ăn chay hai lần một tuần không phải là điều bắt buộc đối với ông. Người Pharisêu cũng không bắt buộc phải dâng cúng cho Chúa một phần mười tài sản của mình. Tất cả những điều đó đều tốt và đáng ca tụng nữa.
Rõ ràng công bằng mà nói thì người thu thuế là một nhân vật hoàn toàn xấu. Vào thời Chúa Giêsu, thuế má được thâu bởi những nhà kinh doanh địa phương. Những thuế đó được ấn định bởi những người La-mã mà dân chúng ghét cay ghét đắng, nhằm hỗ trợ cho quân đội chiếm đóng.
Một khi người La-mã đã lấy đủ phần mình, họ không phải quan tâm tới số hoa hồng mà người thu thuế thêm vào. Những người này đã bày đủ thủ đoạn làm tiền để ăn chặn của dân chúng càng nhiều càng tốt. Chính những người thu thuế đó mới đáng ghét và bị tất cả những người tử tế lánh xa.
Trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người thu thuế tự gọi mình là “kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13). Như thế, ít nữa, ông ta đã nói lên một điều hoàn toàn đúng sự thật. Vậy tại sao người thu thuế – không phải người Pharisêu – đã ra về được chứng minh là công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sự phản bội
Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông. Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.
Chúng ta nên cảnh giác đừng chỉ ngón tay vào người Pharisêu. Đó là một thói quen rất nguy hiểm. Điều đó có nghĩa là ba ngón tay kia chĩa lại chúng ta!
Lấy thí dụ đi xem lễ Chúa nhật. Tại sao tôi đi xem lễ? Động cơ nào đã thúc đẩy tôi? Có phải tôi đến để thoả mãn Chúa hay chỉ để thoả mãn tôi? Có phải tôi đến nhà thờ để được khuyên giải và an ủi? Để vinh danh Chúa hay tự vinh danh tôi? Để làm vui lòng Chúa hay làm vui chính tôi? Có phải tôi đã làm đúng, nhưng động cơ thúc đẩy tôi lại sai?
T.S. Eliot trong vở kịch “Murder In The Cathedral” (“Án Mạng trong Nhà Thờ Chính Tòa”) đã đề cập đến việc làm thì đúng, nhưng động cơ thúc đẩy thì sai, nên cuối cùng là một hành động “phản bội”.
Chúng ta thường nghe nhiều người than phiền như sau: “Tôi đi xem lễ nhưng chẳng được ích gì. Tôi không thể chịu đựng được vị linh mục. Bài giảng chán ngấy. Tôi không thể nghe ca đoàn hát. Tôi không thể chịu được tiếng ồn ào. Tôi không thể chịu đựng trẻ con.” Tất cả đều là “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đúng họ là những chuyên gia về “cái tôi”!
Những người khác không cùng nhau đến nhà thờ không phải vì bị chống đối; họ không bị đá bị đuổi, đứng trên phương diện đạo giáo. Giờ đây, nếu tôi đến dự lễ hay không đến “vì tôi, cho tôi, để tôi được nhận nhưng không cho đi”, tức nhiên có điều gì đó tự bản chất đã sai lầm rồi. Tôn giáo chân chính là tôn giáo lấy Thiên Chúa làm trung tâm, chứ không phải lấy tôi làm trung tâm (“tự kỷ trung tâm”).
Sự khác biệt giữa “TÔI” và “CHÚA”
Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”. Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “TÔI!” Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “CHÚA!”
Điều khác biệt giữa sự tiếp cận “CÁI TÔI” và sự tiếp cận “THIÊN CHÚA” trong bất cứ tương quan nào, dù ở trên trời hay dưới đất, là điều khác biệt giữa sự kiện sống cho chính mình hay cho kẻ khác, giữa sự vị kỷ hay vị tha, giữa sự ấu trĩ hay đã trưởng thành. Chính người thu thuế, chứ không phải người Pharisêu đã đi về nhà được công chính hoá trước mặt Thiên Chúa.
Có một câu chuyện nói về một cậu bé đi xem lễ sáng sớm Chúa nhật. Mẹ cậu cho cậu hai đồng tiền bằng bạc và nói: “Một đồng cho con, còn đồng kia con dâng cho Chúa”, tức là bỏ trong giỏ khi thu tiền trong nhà thờ. Cậu bé cầm chặt hai đồng tiền trong nắm tay, khi bắt đầu đi đến nhà thờ. Trong khi băng qua đường, cậu bé đó vấp ngã trượt chân và té. Tự nhiên theo bản năng, cậu bé mở tay ra để chống đỡ cho khỏi bị ngã và hai đồng tiền vuột khỏi tay cậu. Một đồng lăn tới nằm ở lề đường, còn đồng kia lăn xuống đường mương. Cậu nhặt đồng tiền ở lề đường lên và nhìn xuống đường mương.
Đột nhiên một cuộc chiến đấu dữ dội nổi lên bên trong con người của cậu. Sau một lúc do dự, cậu đút nhanh đồng tiền nhặt được vào túi, nhìn lên trời và nói: “Chúa ôi, con rất lấy làm buồn, đồng tiền của Chúa nằm dưới đường mương rồi!”
Không biết câu chuyện đó có xác thực không? Nhưng cũng có thể lắm. Tất cả đều tùy thuộc vào “cái tôi” và có thể trở thành điển hình cho toàn bộ việc tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa. “Tôi”, chỉ “tôi” thôi, luôn luôn là “tôi” và không ai khác. Một chân lý chứa đựng nhiều điều trong câu chuyện có tính cách bông đùa đó!
Người thu thuế “đã hiểu điều đó một cách đứng đắn”. Việc tiếp cận của ông với Thiên Chúa là lương thiện, khiêm tốn và được công chính hoá. Giờ đây sự tương quan giữa ông với Đấng Tạo Hoá được trực tiếp, thẳng tắp và một cuộc sống mới đã bắt đầu đối với ông.
4. Nâng mình lên sẽ bị hạ xuống
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống" là một giáo huấn rất quan trọng nên thường được Chúa Giêsu đề cập nhiều lần trong Tin Mừng bằng nhiều hình thức (Lc 18,14. Lc 14, 7-11. Mt 23,12)
Lần nầy, để minh hoạ cho bài học của mình, Chúa Giêsu nêu lên hai nhân vật.
- Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: "Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!"
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con".
Quả là ông nầy có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng Thiên Chúa chê bỏ ông vì thái độ tự kiêu của ông. Ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ nào cho Chúa rót thêm.
- Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
ÙÙÙ
Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?
Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.
Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học trung dung, một cách rất ấn tượng.
Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: "virtus in medio – nhân đức nằm ở mực trung". Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.
Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.
"Mặt trời đứng bóng rồi phải xế,
Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết,
Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy". (Thái Trạch)
"Cái gì dư đầy sẽ phải đổ "… (Khổng Tử)
Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta:
"Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu,
Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp".
Bậc thông minh duệ trí thì nên giữ mình bằng khiêm nhường, nhận rằng mình còn nhiều điều chưa biết; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới hãy biết bảo trọng thân mình bằng cách sống hạ mình như người nhát sợ thì mới được vững bền.
Còn Chúa Giêsu vẫn hằng nhắc nhở chúng ta: chớ dại mà nâng mình lên vì "hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống" như trường hợp người biệt phái trong câu chuyện trên đây hay chớ dại dột chọn ngồi chỗ cao trong bữa tiệc, kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (như ở Tin Mừng Luca chương 14, 7-11).
5. Quì gối xuống – Lm Vũ Minh Nghiễm
Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.
Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày ba lần: 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.
Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pharisiêu). Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Publicanô). Nhóm Pharisiêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.
Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.
Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.
Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.
Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”
Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo… ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.
Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.
Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14,22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.
Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.
“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.” Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.
Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”
Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Giêsu đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.
Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”
Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.
Và Đức Yêsu đã kết luận rằng:
“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?” Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.
Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.
Trước hết, khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.
Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15,9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12,9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1,13; Gl 1,13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phú thc vào Chúa Quang phòng, đại lưỡng vô song, khôn ngoan vô cùng.
Thứ đến, khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.
Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:
- Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói:
- Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.
6. Xin thương xót con
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi Đức Giêsu đưa ra kết luận: ‘người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không’, những người nghe Ngài hẳn đã ngỡ ngàng, chưng hửng.
Ông Pharisêu là mẫu mực trong việc giữ Luật. Những điều xấu xa tiêu cực, ông không làm. Những điều Luật đòi hỏi, ông còn làm hơn thế. Lời cầu nguyện của ông hết sức tự phát và chân thành, một lời nguyện mà nhiều người đạo đức thèm muốn. Tại sao Thiên Chúa lại không nhìn đến ông?
Tại sao Thiên Chúa lại thương người thu thuế tội lỗi, dù anh ta nào đã hứa bỏ cái nghề tồi tệ đó; nào đã chịu đền bù bao nhũng lạm mình gây ra?
Tình thương của Thiên Chúa thì nghịch lý, nhưng không vô lý. Chúng ta cần nhìn ông pharisêu cầu nguyện. Ông đứng tách biệt với những người khác trong Đền Thờ. Mắt ông vẫn thấy anh thu thuế đứng tuốt phía dưới.
Chúng ta cần nghe lời ông cầu nguyện.
Ông muốn dâng lên Thiên Chúa một lời tạ ơn, nhưng tạ ơn lại trở thành so sánh mình với người khác, và đầy ứ cái tôi tự mãn, tự hào: tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay, tôi nộp thuế…
Cái tôi của ông thật tuyệt vời, hơn hẳn người khác. Cái tôi của ông quá ngon lành, bảo đảm, nên ông không cần xin Chúa thêm điều gì. Ông chỉ khoe Chúa những thành tích của ông, hay đúng hơn ông đang ngắm mình độc thoại. Đời sống của ông pharisêu đầy đặn quá, tròn trịa quá đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa. Ngài chẳng tìm ra một kẽ hở nào để vào đời ông nên Ngài chịu đứng ngoài.
Ngược lại anh thu thuế thì run rẩy xấu hổ, chẳng dám ngước nhìn Chúa, chẳng dám lại gần tha nhân. Anh thấy rõ các tội của mình, và thấy mình bị kẹt cứng, tự sức không sao tháo gỡ. Anh chỉ còn biết cậy dựa và phó thác cho Tình thương.
Người thu thuế thật là con người tội lỗi, nhưng tội của anh đã trở nên một kẽ hở để Thiên Chúa có thể đi vào đời anh. Chính sự trống rỗng của anh đã thành khoảng trống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa. Tiếc là ông pharisêu chưa nhận ra khuyết điểm của mình. Ông về nhà mà không biết mình chẳng được Chúaưu ái. Ông về nhà mà vẫn khép kín tự mãn như lúc lên đền.
Làm sao tôi có được sự trung tín của người pharisêu và sự khiêm hạ của người thu thuế? Làm sao tôi tận dụng mọi năng lực Chúa ban mà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu? Ước gì đời tôi có nhiều kẽ hở để Chúa vào.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Càng thánh thiện thì càng thấy mình cần đến Thiên Chúa. Khi nào trong cuộc sống bạn thấy mình cần Chúa hơn cả?
- Chúng ta vẫn thường ngấm ngầm so sánh mình với người khác như ông pharisêu. Chúng ta rất dễ rơi vào thái độ tự hào. Làm sao để thắng được tính xấu này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, những tội chúng con phạm vừa mang dáng dấp của tội Ađam vừa mang dáng dấp của tội Cain.
Tội nào cũng là khép lại trên chính mình, khước từ Thiên Chúa và quay lưng trước anh em. Tội nào cũng là lấy mình làm trung tâm và qui tất cả về mình.
Xin cho chúng con đừng nhìn ngắm công trạng của mình, nhưng nhìn vào những nén bạc Cha giao mà chúng con chưa đầu tư sinh lợi cho đủ.
Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ, nhưng hướng đến tương lai với bao điều cần thực hiện.
Lạy Cha, xin cho chúng con đừng lấy đức hạnh của mình làm thước đo người khác, đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân.
Ước gì chúng con có quả tim như Con Cha, hiền lành và khiêm nhượng, để chúng con có thể mở ra đến vô cùng trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.
7. Con mắt – Lm. Vũ Đình Tường
Mắt là đèn soi cho chúng ta. Mắt giúp quan sát, nhìn sự việc. Có người ví von mắt là cửa sổ của tâm hồn. Rất nhiều trường hợp hai người cùng quan sát một sự việc, cùng dùng mắt kết quả nhìn khác nhau. Trường hợp hai người nghe cùng câu chuyện do một người kể, kết quả nhận định khác nhau. Tai, mắt hay ngũ quan không nắm vai trò chủ động trong mọi quyết định. Mắt thấy, tai nghe là bước mở đường cho bước kế tiếp đưa đến phán đoán. Khi phán đoán tai mắt đóng góp bao nhiêu phần trăm?
NHÌN KHÁC NHAU
Điều chắc chắn hầu như mọi biến cố quan trọng trong đời mỗi người nhìn một cách khác nhau, nhận định sự việc khác nhau mặc dù họ nhìn chung một sự kiện, nghe cùng một câu chuyện, do một người kể nhưng phán đoán mỗi người mỗi khác. Mắt giúp quan sát, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ rõ bên ngoài, không thấu suốt nội tình, bên trong. Phán đoán dựa vào quan sát bên ngoài để đoán những gì bên trong đưa đến kết quả có thể là đúng cũng có thể sai. Bởi vì đoán nên không thể quả quyết. Khi quả quyết thì không còn đoán. Nếu đoán thì không thể xác quyết vì có thể còn những chuẩn đoán chính xác hơn, hợp lí hơn.
XÉT MÌNH
Phúc âm đưa ra trường hợp hai người cầu nguyện trong đền thờ. Một được Chúa nhận lời; một không. Cả hai cùng xét mình, nhìn lại cách ăn, nết ở trong thời gian qua. Trong thánh điện kết quả xét mình của hai người đối nghịch nhau.
- Một đứng thẳng, ưỡn ngực cầu nguyện;
Ù một cúi mặt, đấm ngực ăn năn.
- Một đứng gần gian cung thánh;
Ù một xa tít cuối đền thờ.
- Một tự hào ăn ngay, ở lành;
Ù một hối hận vì tội đã phạm.
- Một vỗ ngực tự xưng công chính giữ trọn luật;
Ù một đấm ngực ăn năn xin Chúa xót thương.
Cả hai đều nhìn vào chính mình, nhận xét về chính mình, cầu nguyện trong đền thờ.
- Người tự nhận là tội nhân được tôn vinh;
- người tự tôn vinh bị hạ xuống.
HAI NGỘ NHẬN
Tự nhận mình công chính là một ngộ nhận lớn, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tự phụ. Thực thi đức ái và giữ trọn luật là nhiệm vụ chung mọi thành phần trong xã hội, không trừ ai. Làm xong, làm tốt nhiệm vụ được coi là công dân tốt. Trong Giáo Hội họ là người đầy tớ khôn ngoan và trung thành. Hoàn thành nhiệm vụ không biến ta thành công chính. Ta trở nên công chính nhờ Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ Phúc âm hôm nay ta được công chính hoá nhờ lòng thương xót Chúa.
‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.
Nhờ thành tâm thống hối, đấm ngực ăn năn sấp mình trước Thánh Nhan xin chúa thương xót để trở nên công chính. Như thế công chính hoá không phải do tài năng con người tự kiếm mà là đặc ân Chúa ban do khiêm nhường, thống hối, thành tâm và tạ ơn.
Khiêm nhường là con đường mở thêm lối đi dẫn ta đến cùng Chúa, đưa ta tới tha nhân. Kêu ngạo là con đường một chiều, không ngã rẽ. Đường dài mấy cũng có cuối đường. Như thế kêu ngạo là con đường cụt, đường dẫn đến sự chết. Người đi đường cụt bị tắc nghẽn nơi cuối đường. Không lối thoát.
Ngộ nhận thứ hai của ngưòi tự nhận công chính là soi mói, buôn điều. Không biết đang đi trên đường cụt. Đến khi nhận ra đã cuối ngày. Kêu ngạo, tự phụ che mất đường công chính. Tôn mình lên cao đến nỗi chỉ nhìn thấy người, còn mình thì không. Dùng quá nhiều thời gian kháo chuyện thiên hạ. Hãy nghe anh ta nói: ‘con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia’.
Trong lời cầu anh nhắc đến tạ ơn. Tạ ơn chân thành luôn đi với khiêm tốn. Thiếu lòng thành việc tạ ơn chỉ là môi mép. Người tự phụ không cần Chúa vì tin vào khả năng mình. Nhắc đến việc tốt lành: ăn chay mỗi tuần hai lần và công đức mười phần trăm mức thu nhập. Không thấy anh nhắc đến việc thương người nghèo, cho kẻ đói ăn, khát uống. Không nhắc đến thăm người đau yếu bệnh tật. Những người này không có trong đời của anh có lẽ vì ‘con không như bao kẻ khác’
PHÚC HỌA
Ngộ nhận xảy ra cho mọi thời đại. Thiếu cẩn trọng phúc biến ra hoạ, rơi vào ngộ nhận. Thay vì đi xét mình, xét tội mình thì kháo tội người, buôn điều, chỉ trích, phê bình người khác. Tưởng như thế là giúp người, làm đẹp lòng Chúa. Lỗi lầm dễ mắc phải, xét tội người khác, cáo lỗi người khác tưởng làm như thế là làm phúc, giúp người trở về đường ngay nẻo chính.
Chê người là tự phong cho mình hay hơn. Nói xấu người là tự cho mình tốt hơn. Chỉ trích người là tự nhận mình đúng, người sai. Làm thế là tự hại chính mình, đang chích cho mình liều thuốc Pharisiêu.
8. Hai hạng người cầu nguyện – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe có thể không cần một câu chuyện hướng dẫn nào khác, nhưng tự nó gợi ý để chúng ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.
Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.
Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.
Bài dụ ngôn hôm nay nêu bật lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, anh không nhìn sang người khác, không dám so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm của mình rồi khiêm tốn chấp nhận.
Chúng ta cũng vậy, mỗi lần chúng ta đặt mình trước nhan Chúa, khi cầu nguyện chúng ta hãy ý thức rằng, Thiên Chúa đã biết rõ cả rồi, đã biết trọn cả con người của chúng ta là như thế nào rồi, nên không cần che giấu tránh né. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng nhân từ và hay thương xót, nên chúng ta không quá lo sợ hay tuyệt vọng vì những bất toàn ấy mà hãy vươn lên cùng Chúa, xin Chúa chữa lành: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Trong lời cầu nguyện của người thu thuế, chúng ta còn có thể khám phá ra một yếu tố quan trọng khác nữa, khi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi, là kẻ đã xúc phạm đến Chúa”. Người thu thuế kia tha thiết muốn kêu lên cùng Chúa, muốn hưởng nhờ lòng nhân từ của Ngài để tiến mãi trên con đường thiêng liêng, sống mối tương quan với Chúa mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Người Pharisêu không có được thái độ này, ông tự mãn với chính mình và ông nghĩ là do công trạng của mình tạo lập ra, như vậy lời cầu nguyện của ông thật ra không phải là lời cầu nguyện mà chỉ là những lời khoe khoang đi kèm với thái độ khinh dể kẻ khác.
Ước chi trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng ta, chúng ta đừng nhìn sang kẻ khác mà so sánh. Bởi vì chúng ta sẽ bị cám dỗ so sánh mình với những bất toàn của anh chị em và nâng mình lên khinh dể kẻ khác. Chúng ta hãy so sánh mình với chính mẫu gương trọn lành của Chúa để nhận biết chúng ta còn nhiều điều phải canh tân để tiến lên mãi: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Ước chi lời cầu nguyện này trở thành lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta không những hôm nay mà trong mọi ngày của đời sống chúng ta, để chúng ta nhận lãnh ơn thương xót của Chúa và tiến lên mãi trong tình thương của Ngài. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
9. Hai hạng người cầu nguyện
Dụ ngôn về “Hai hạng người cầu nguyện” của bài Tin Mừng hôm nay phê phán những người biệt phái tự hào mình là người công chính và khinh chê người khác. Người đó đứng riêng biệt một mình để cầu nguyện trong đền thờ, cử chỉ này nói lên phần nào thái độ tự hào và khinh dể người khác. Đứng riêng ra để khẳng định mình là mình, mình có đủ bản lãnh. Cung cách này được xác nhận thêm qua lời cầu nguyện của ông: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác…”. Coi mình không giống như kẻ khác là một vinh dự, một ơn phúc, một mục tiêu để phấn đấu, để dành cho được. Vì thế, khi được như vậy người ta không thể không sung sướng và tạ ơn, qua đó chứng minh sự khác biệt của mình với đại chúng.
Để chứng minh, người biệt phái kể ra một số khác biệt của mình với đại chúng, nhất là không giống như người thu thuế vốn nổi bật vì các nết xấu, hay cụ thể hơn nữa là ăn chay một tuần hai lần và dâng cúng cho đền thờ 1/10 hoa lợi.
Tóm lại, sống công chính là thi hành các giới răn của Chúa trong mười điều răn như không tham lam, không ngoại tình và tuân giữ các luật lệ của Môisê như ăn chay, dâng cúng vào đền thờ mà không cần biết tâm tình bên trong cần có. Giữ được như vậy, họ cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác. Vơ đũa cả nắm, họ liệt kê tất cả mọi người vào hạng tội lỗi. Như thế có thể nói đứng riêng một mình là tư thế phản ảnh đích xác sự thánh thiện của người Pharisêu, nó cũng phản ánh quan niệm cũ về sự thánh thiện.
Nhưng trớ trêu thay, số người cho mình là công chính lại không được Chúa nhận cho là người công chính. Như vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được nên công chính cho bằng là phải hiểu thế nào là được nên công chính. Vì làm như thế cốt để cho ai cũng tưởng họ là nên công chính nhưng rốt cuộc là không phải công chính. Và ngược lại, kẻ mà ai cũng tưởng là không công chính thì họ lại được kể là công chính, được cứu độ. Được ơn công chính là ơn nhưng không của Thiên Chúa, như Ngài đã quyết định cho người thu thuế trong dụ ngôn được kể trên là người công chính.
Thiên Chúa không căn cứ trên thành tích nào của ta, và ơn cứu độ chẳng những không làm xa cách loài người mà là đưa ta đến chỗ kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Những việc ta làm không phải là nguyên nhân khiến ta được cứu độ, được nên công chính, nhưng là chính Thiên Chúa ban cho ta.
10. Ai là người công chính? – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
- Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
- Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
- Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: ‘Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Kitô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.
11. Xin thương xót con- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.
Khiêm nhường không tự mãn.
Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.
Khiêm nhường không khinh người.
Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.
Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.
Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.
Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.
Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
“Lạy Chúa, xin thương xót con”
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?
- Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?
- Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?
- Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?
12. Hài lòng về mình hay về Thiên Chúa?
Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế, nói theo ngôn từ thời nay, có thể gọi là một tiểu luận chớp nhoáng về một sự tương phản. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ phải giữ trước mặt Thiên Chúa. Có hai thái độ: tự mãn của người biệt phái, ăn năn khiêm nhường của người thu thuế. Tự mãn về mặt đạo đức, nghĩa là hài lòng về mình, cho dẫu có ảo tưởng, đó cũng là một cách tạ ơn Thiên Chúa. Trái lại khiêm nhường chính là sáng suốt. Đức Giêsu nêu rõ sự tương phản mạnh mẽ giữa hai nhân vật tiêu biểu hai thái độ trên. Người kết thúc dụ ngôn bằng lời dạy về cách làm đẹp lòng Thiên Chúa. Một sắc thái quan trọng cần ghi nhận: hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. “Cầu nguyện” ở đây là gì? Cầu nguyện là muốn được Thiên Chúa nhìn nhận mình vô tội, mình là kẻ lành, tức là muốn được hưởng lòng nhân lành của Thiên Chúa. Căn cứ vào đâu mà người biệt phái cầu nguyện? Căn cứ vào những việc đạo đức, những việc tuân thủ, mà thật ra trong những việc ấy người biệt phái không phải là không tỏ ra ít nhiều độ lượng. Còn người thu thuế thì sao? Người này biết mình lắm tội nên chỉ trông cậy vào chính Thiên Chúa, vào lượng từ bi, vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Một kẻ kể công, một người van xin. Đó là sự khác biệt rất có ý nghĩa giữa thái độ khép kín và tâm tình cởi mở. Chúng ta đặt vấn đề: Thái độ nào được Thiên Chúa từ bi nhân hậu chúc phúc? Chúng ta phải đối xử với anh em đồng loại như thế nào?
1) Thiên Chúa chúc phúc cho kẻ khiêm nhường tin cậy. Như vậy, khiêm nhường, xét về căn bản, là mở rộng tấm lòng đón lấy niềm vui. Hai yếu tố của khiêm nhường là sáng suốt và tin cậy. Sáng suốt cho nên biết rõ thực trạng lương tâm mình. Sáng suốt cho nên khám phá ra nỗi cực khổ lớn lao của mình, do đó có thể đâm ra thoái chí tuyệt vọng. Tuy nhiên vì tin cậy cho nên tâm hồn không bị lay chuyển. Khám phá ra nỗi cực khổ của mình trước con mắt Thiên Chúa, trong khi biết rõ Thiên Chúa là tình thương –đó là phương cách rất hữu hiệu để được Thiên Chúa thứ tha thương xót. Nếu chúng ta thành thật, nghĩa là thực tế quyết tâm muốn ra khỏi hoàn cảnh khốn khổ, thì sau khi than thở với Thiên Chúa, trên đường ra về chúng ta được Người dõi theo với đầy lòng nhân từ thương mến, chúng ta sẽ có được niềm vui sâu rộng nhất.
2) Thái độ tự mãn, hài lòng về mình, ngang nhiên trước mặt Thiên Chúa, ngang nhiên trước mặt tha nhân, là điều làm mất lòng Người. Trong chúng ta ai mà không có lúc muốn cho mình là tốt, là hoàn hảo trước mặt tha nhân? Chúng ta có thật tâm chọn lấy thái độ khiêm nhường làm đẹp lòng Thiên Chúa không? Chúng ta rất dễ sa vào cơn cám dỗ muốn đề cao mình. Chúng ta làm một trắc nghiệm: gặp trường hợp bị người ta coi rẻ, chúng ta phản ứng thế nào? “Chừng nào đến lúc người ta không khen ngợi mình như mình mong đợi, mà lại làm phật ý mình, lúc đó càng tỏ ra nhũn nhặn kiên nhẫn bao nhiêu mình càng thật sự có những đức tính ấy bấy nhiêu, chẳng có gì khác hơn” (thánh Phanxicô). Cũng như khiêm nhường tin cậy thì đẹp lòng Thiên Chúa, nhũn nhặn thành thật thì đẹp lòng người ta. Cả hai thái độ đều mở rộng trí óc và tâm hồn để đón tiếp, trao đổi, vui sướng.
13. Chỉ công đức không mua được thiên đàng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Ngay sau khi dạy cho các môn đệ biết về việc cần thiết phải cầu nguyện luôn luôn và cầu nguyện cách kiên trì, với tất cả lòng tin tưởng (dụ ngôn “Bà goá quấy rầy”), Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ biết phải có tâm tình và thái độ nào khi cầu nguyện, qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”. Đây là một trong những dụ ngôn kinh điển của Tin Mừng Luca. Dụ ngôn đề cập 2 nhân vật chính: người thu thuế và người biệt phái. Cả hai cùng lên Đền Thờ cầu nguyện.
1. Thái độ của người biệt phái khi cầu nguyện là gì?
Người biệt phái đã tự hào cho mình là người công chính. Thế ông đã sống thế nào mà tự cho mình là một người công chính, một “á thánh”? Thưa, ông đã thực hành nghiêm chỉnh những gì luật dạy: không trộm cướp giết người, không tham ô hối lộ, không cờ bạc rượu chè, không xì ke ma tuý, không số đề bia ôm… Nói cách khác, ông chẳng làm gì đáng chê, đáng trách. Ông còn làm những việc đạo đức hơn cả những gì luật dạy: “Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần” (Lc 18,12). Trước thời lưu đày Babilon, luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay một lần vào dịp Lễ Xá Tội (x. Lv 23,27). Sau lưu đày, người ta đã thêm vào luật một lần ăn chay nữa để tưởng nhớ cảnh Giêrusalem bị tàn phá. Nhưng người biệt phái này tỏ ra rất đạo đức, mỗi tuần tự nguyện ăn chay thêm 2 lần vào ngày Thứ Hai và Thứ Năm (tức là 104 lần/năm) để đền bù những thiếu sót của dân tộc đối với lề luật (x. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Bài giảng Chúa Nhật – Tin Mừng theo Thánh Luca, tr. 214). Chưa hết ông còn tự phụ kể lể: “Tôi nộp thuế Thập phân về hết mọi vật tôi mua” (x. Lc 18,12). Luật chỉ buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy Lê-vi; trong khi đó, người Biệt phái này tình nguyện dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ ông mua được vốn không buộc phải dâng.
Như vậy, rõ ràng những điều ông làm là rất tốt, tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi. Ông là người giữ đạo rất mẫu mực, không có gì đáng chê trách. Có lẽ ông còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo chúng ta gấp bội.
Nhưng vì sao ông lại không đẹp lòng Thiên Chúa? Vì sao Thiên Chúa không nhận lời cầu nguyện của ông? Thưa vì 2 lý do:
- Lý do thứ nhất, vì ông đã tự mãn tự phụ và kể công trước mặt Thiên Chúa, như thể sự công chính ông đang có là nhờ vào công trạng của mình, và như thể Thiên Chúa mắc nợ ông, vì thế Thiên Chúa phải trả công, phải ban thưởng cho ông. Ông lầm tưởng rằng với công đức của mình, ông có thể mua được Nước Thiên Đàng.
- Lý do thứ hai là vì ông tự cao tự đại, cậy dựa vào công đức của mình mà khinh thường người khác. Đại khái ông đã vênh váo: “Lạy Chúa, con không giống như thằng thu thuế khốn nạn đáng sa hoả ngục, đang đứng cuối nhà thờ kia kìa! Chắc là Chúa thấy nó rồi đó”. Rõ là ông không hề biết đấm ngực mình mà chỉ đấm ngực người khác.
Như thế, động cơ của những việc đạo đức ông làm là để tỏ ra mình là người công chính, chứ không phải là do lòng yêu mến. Ông chẳng mến Chúa mà cũng chẳng yêu người. Chính vì thế mà khi ra về, chẳng những ông không được tha thứ mà còn mắc thêm tội: tội kiêu ngạo. Ngược lại, người thu thuế tội lỗi thì được tha thứ và được nên công chính.
2. Thái độ của người thu thuế như thế nào mà lại được Thiên Chúa tha thứ và được nên công chính?
Có phải là do anh ta đã có nhiều công trạng đặc biệt không? Có phải do anh ta là người đạo đức và bác ái không? Hoàn toàn không ! Anh ta chẳng có công trạng gì, ngoài một “mớ tội” công khai. Bởi lẽ theo cái nhìn thời bấy giờ, tất cả những người thu thuế đều bị liệt vào hạng người tội lỗi công khai đáng khinh bỉ, hạng mọt dân bán nước, tiếp tay với ngoại bang bóc lột chính đồng bào của mình…. Vậy thì do đâu mà anh ta được nên công chính, như lời Chúa Giêsu quả quyết ở đoạn cuối Tin Mừng: “Người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không”? (x. Lc 18,14). Do trước mặt Chúa, anh biết khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Thể hiện qua các cử chỉ: đứng xa xa mà không dám tới gần cung thánh, cúi đầu, đấm ngực… Tất nhiên là đấm ngực chính mình, chứ không phải đấm ngực người khác như người Biệt phái. Hơn nữa, còn do anh biết giục lòng thống hối ăn năn một cách sâu xa, và tha thiết kêu xin lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Chỉ với một lời cầu xin ngắn gọn, có thể nói được là ngắn gọn nhất, mà anh lại được trở nên công chính. Thế mới hay lời Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Phàm ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).
3. Phần chúng ta thì sao?
Chúng ta nên bắt chước thái độ của người nào khi chúng ta cầu nguyện? Của người biệt phái hay của người thu thuế? Có khi nào tôi rơi vào thái độ của người Pharisiêu không? Có đấy ! Đó những lúc tôi đã gân cổ tranh cãi với người khác: “Tao đúng, mày sai; tao có lý, mày vô lý”… Đó là những lúc tôi bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa, đáng trách. Đó là những lúc tôi tự cao tự đại vì thấy mình hơn người nào đó về nhiều mặt: đẹp trai hơn, xinh gái hơn, học giỏi hơn, con nhà giàu có hơn, v.v… Như vậy tôi chính là người Biệt phái đứng nghênh ngang trong Đền Thờ và khoe công trạng của mình với Chúa. Chúa không cần những cái đấm ngực thình thịch “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Chúa cũng chẳng cần công trạng của tôi. Chúa chỉ cần tấm lòng khiêm nhường thống hối của tôi.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm cung để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, đầy lỗi tội, để hiểu và cảm thông với anh chị em mình hơn, nhất là để biết xin Chúa thứ tha và biết cất lời ngợi khen một mình Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, ngàn trùng chí thánh. Amen.
14. Tự hào
Suy Niệm
Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Làm việc lành là một điều tốt, nhưng nếu việc lành khiến tôi khinh miệt tha nhân thì thật là nguy hiểm.
Dụ ngôn trên đây cho thấy hai khuôn mặt trái ngược: người pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi. Chúng ta cần hình dung cách đứng cầu nguyện của họ, và cần suy nghĩ về lời họ thưa với Chúa.
Lời nguyện nào cũng phản ảnh tâm hồn.
Người pharisêu trước hết dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, vì ông thấy mình hơn kẻ khác nhiều. Ông liệt kê những tội ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông quen làm, vượt quá điều Lề luật đòi hỏi. Ông vừa cầu nguyện, vừa liếc mắt nhìn anh thu thuế đứng ở xa phía dưới. Ông thấy mình hơn hẳn anh ta. Đúng ông là một người giàu, vì ông chẳng có gì phải nài xin Thiên Chúa. Ngược lại, anh thu thuế lại là người nghèo. Anh muốn làm lại cuộc đời, nhưng hầu như không sao làm nổi. Nếu hoán cải, chắc anh phải bỏ nghề, nhất là phải bồi thường mọi gian lận xưa nay. Anh không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực nài xin lòng thương xót Chúa.
Thiên Chúa sẽ nghiêng về phía ai? Ngài không nghiêng về người pharisêu, kẻ tự hào mình công chính và khinh rẻ tha nhân, nhưng Ngài cúi xuống người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh không cậy dựa vào công đức của mình nhưng vào lòng thương xót Chúa.
Chúng ta không thể làm cho mình nên thánh thiện chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức nào đó. Chúng ta cũng không thể mua được Nước Trời chỉ nhờ những cố gắng của bản thân.
Trở nên thánh, nên công chính là việc Chúa làm nơi tôi, là quà tặng Ngài ban cho tôi. Tôi chỉ cần khiêm tốn mở ra, để cho Ngài chiếm lấy mọi khoảng đời của mình, chi phối mọi khoảnh khắc của ngày sống. Nên thánh là để cho Chúa chinh phục và yêu thương. Thánh nhân chẳng bao giờ là người tự hào, nhưng là người càng lúc càng cần đến Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Bạn nghĩ gì với những lời cầu nguyện của bạn? Có khi nào nó giống với lời cầu của người pharisêu không?
- Chúng ta thường xét đoán người khác theo cái nhìn bên ngoài. Có khi nào bạn thấy mình mắc phải sai lầm khi vội vã xét đoán người khác không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày những tham vọng của con, con cởi bỏ đồng hồ thời khóa biểu của con, con đóng lại bút viết các quan điểm của con, con bỏ xuống chìa khóa sự an toàn của con, để con được ở một mình với Ngài.
Lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật, sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo con đường của Chúa con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa, con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings).
15. Ai là người công chính?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
LỜI CẦU CỦA NGƯỜI PHARISÊU
“Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’” (Lc.18,9-12).
Mở đầu cho lời cầu nguyện, sau khi chào Chúa bằng hai tiếng “tạ ơn”, ông liền thực hiện một cuộc so sánh giữa mình và “người thu thuế” để hình ảnh mình được nổi bật, và nhờ đó Chúa “thấy rõ” được sự “công chính” của mình thật “không thể chê vào đâu được”!
Trong cách so sánh này, người Pharisêu thật như một họa sĩ sành điệu. Trước tiên, ông cho gam màu đen tối bao quanh bằng những hình ảnh của phường “tội lỗi”, điển hình như tên thu thuế kia: “con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”, để rồi, ngay sau đó, ông tô đậm hình ảnh của ông với gam màu rực sáng bằng những công đức mà ông đã tự thấy mình đã chu toàn hoàn hảo: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Người Pharisêu cố tạo cho mình hình ảnh “rực sáng”, và tất nhiên là muốn “tỏa sáng” giữa “bao kẻ khác”, từ đó, người Pharisêu có dáng đứng đầy tự hào, đầy kiêu hãnh – “đứng thẳng” – khi cầu nguyện. Cung cách cầu nguyện của người Pharisêu tương tự như cung cách của người ngồi vào vòng “đàm phán” với đối phương với tư thế “mạnh” của kẻ đang nắm ưu thế, đầy tự tin, đặt sệt tự tôn.
Cách cầu nguyện như vậy, giống hệt cách cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã từng dạy các môn đệ của Ngài phải xa lánh: “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt.6,5).
Cầu nguyện kiểu như Pharisêu là lời cầu nguyện để “vinh danh chính mình” chứ không phải “vinh danh Thiên Chúa”. Vì họ “tự nhận” và “tự tôn” họ đã nên công chính rồi.
Chính vì thấy mình đã nên công chính, nên họ trở nên mù lòa không còn nhận ra mình là kiếp người tội lỗi nữa. “Nhân vô thập toàn”. “Bảy mươi chưa gọi mình lành”… Những người Pharisêu không còn thấy được những thiếu sót của thân phận con người. Và sự đui mù tệ hại nhất, đó là họ không còn thấy sự kiêu căng nơi con người của họ. Một khối kiêu căng to đùng ở trong chính tâm hồn họ, mà họ vẫn không thấy, họ vẫn cho rằng lòng họ đạo đức và trong sáng. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,40).
Vì họ tự cho mình có công đức, nên họ cho rằng đương nhiên là họ được Chúa ban ơn. Nên lời cầu nguyện của họ tuyệt nhiên không thấy kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa, mà chỉ khoe khoang và phô trương công đức.
Vì họ cho mình là người công chính, nên họ khinh thường và loại trừ anh em đồng loại. Họ tự cho mình quyền được hưởng những ơn lộc Thiên Chúa, và xua đuổi anh em đồng loại ra khỏi con tim của họ. Họ từ bỏ anh em đồng loại của họ. Từ bỏ có nghĩa là không thể tha thứ. Không tha thứ cho anh em được, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho con người. “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt.6,14).
Nếu không được Thiên Chúa thứ tha, con người không thể trở nên công chính. Vì con người chỉ có thể nên công chính, khi con người được là con Thiên Chúa.
LỜI CẦU CỦA NGƯỜI THU THUẾ
“Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc18,13).
Sau khi kêu cầu đến thánh danh Chúa, là lời van xin Chúa thương xót. Thật ngắn gọn. Có thể người thu thuế không còn biết nói gì thêm! Vì anh chắc đã tin rằng Chúa đã hiểu thấu nỗi lòng của anh. “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt.6,7).
Người thu thuế đang cần gì? – Cần Chúa thương tha thứ.
Xin thương xót là khát khao được Chúa thứ tha những lỗi lầm. Khát khao được thứ tha, là khát khao được vẫn là con Chúa.
Khát khao được vẫn là con Chúa, là nhìn ra thân phận bọt bèo, tro bụi, chẳng nghĩa lý gì, nếu không có Chúa. Điều ấy, cũng có nghĩa là nói lên: “con mãi mãi cần đến Chúa”.
Tâm tình ấy từng bước vươn lên, để từ những lời van xin biến thành những lời ca tụng. Từ những giọt nước mắt ăn năn biến thành những nụ cười hạnh phúc. Từ cử chỉ ngại ngùng khép nép “đứng đằng xa”, đến việc được Chúa ôm vào lòng tràn đầy yêu thương tha thứ.
Và thế là tình yêu Thiên Chúa được ca tụng đến muôn đời.
Vậy, lời kêu xin Thiên Chúa thương xót chính là lời ca tụng tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu tóm gọn trong giáo huấn của Ngài: “Yêu thương như Thầy”.
Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và biết múc nguồn tình yêu Thiên Chúa để chia sẻ với tha nhân, con người sẽ không có sự lên án nhau, không có sự loại trừ nhau.
Lời nguyện cầu của người thu thuế được đón nhận. Ông trở nên công chính từ giọt lệ thành tâm sám hối. “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không” (Lc.18, 14).
ĐỂ KẾT LUẬN
Trong dòng đời, ai biết ai công chính, ai biết ai tội lỗi?
Có những người trông thật công chính lại cực kỳ gian xảo! Có những tên trông gian manh nhưng lòng lại rất chân thành! Có những người ở địa vị cao trông rất đạo mạo lại có những hành động lừa đảo, dã tâm. Có những tên vô danh tiểu tốt lại âm thầm làm việc chân thiện hết lòng hết dạ!
- Nhận ra thiện ác đã là khó, nhận ra người thiện người ác lại càng khó hơn!
- Nhận ra hàng thiệt hàng giả đã là khó, nhận ra người thiệt người giả lại càng khó hơn!
Ai là người công chính? Đừng vội trả lời. Đừng vội xét đoán. (Lc.6,37). Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, mới có quyền kết luận. (Mt.6,4).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện “Thế nào là kẻ trộm” như thế này: Tử Cống được bổ làm quan Tể Tướng ở xứ Tín Dương. Khi sắp đi nhận chức, đến từ biệt Khổng Tử. Khổng Tử nhân bảo Tử Cống: – Phải siêng năng, phải cẩn thận. Chớ cướp, chớ đánh, chớ bạo tàn, chớ trộm cắp…
Tử Cống đáp: – Tứ này ngay từ lúc nhỏ đã theo học thầy là bực quân tử, có khi nào lại trộm cắp để lụy đến thân?
Khổng Tử nói: – Ngươi chưa hiểu nghĩa.
Ôi! đem người hiền đức này để thay người hiền đức kia, thế là cướp. Đem kẻ bất tiếu này để thay kẻ bất tiếu kia, thế là đánh đập. Hờ hững mệnh lệnh mà gấp rút hình phạt, thế là tàn bạo. Nhận ra điều thiện của người để làm ra điều thiện của mình, thế là trộm cắp. Trộm cắp đây không phải là trộm cắp tiền của vậy!
Lạy Chúa, Con yếu đuối quá, xin thương xót con, xin biến đổi sự yếu đuối của con thành sức mạnh cho cuộc đời con, tất cả nhờ lòng thương xót của Chúa. Amen.
16. Biết mình
Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Đó chính là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, bởi vì ai khiêm nhường thì sẽ trở nên to lớn, còn ai kiêu ngạo sẽ trở thành nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, Chúa thường chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn phúc cho người khiêm nhường. Tuy nhiên, điều kiện đầu tiên để sống khiêm nhường, đó là phải biết mình.
Thực vậy, chúng ta thường biết nhiều sự, nhưng có một điều chúng ta cần phải biết thì lại không biết, đó là biết chính bản thân, biết chính con người mình. Và tâm hồn mình vẫn mãi mãi là một vùng đất xa lạ nhất.
Dân ngoại thời xưa cũng đã biết tới tầm mức quan trọng của việc biết mình. Thực vậy, trên cửa đền thờ kính thần Apollo tại Delphes có khắc ghi câu này:
- Hãy biết mình.
Người Trung Quốc cũng bảo:
- Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình, biết người trăm trận đều thắng.
Và thánh Augustinô thường cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.
Sở dĩ như vậy vì nếu không biết mình, thì cũng chẳng thể nào sống khiêm nhường. Mà đã không khiêm nhường, thì chẳng thể nào có nhân đức. Mà đã không nhân đức, thì chẳng thể nào vào được Nước trời.
Ai muốn tập luyện các nhân đức, mà không thực thi khiêm nhường thì cũng chỉ là như bụi bay trước gió. Ai không biết mình, thì làm sao có thể sửa chữa những sai lỗi để trở nên hoàn thiện. Họ không có lấy một cố gắng để thăng tiến, bởi vì họ luôn tự mãn với chính mình. Họ giống như một chiếc đồng hồ đã chết.
Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ. Bởi vì không có một cái thước nào chính xác để đo được thẳm sâu cõi lòng.
Trong kinh Kính mừng, chúng ta thường đọc:
- Cầu cho chúng con là kẻ có tội.
Khi tâm hồn trong sạch, thì chỉ một vết nhơ rất nhỏ bé cũng đủ đập vào mắt chúng ta. Chính vì thế, những người đạo đức thường có nhiều điều để xưng thú trong tòa giải tội. Thậm chí có những vị thánh xưng tội mỗi ngày. Còn chúng ta, một khi tâm hồnđã phủ đầy bùn nhơ, chúng ta không còn cảm thấy những dấu vết của nó nữa và chúng ta thường tự nhủ: – Tôi chẳng có tội gì để mà xưng thú cả.
Hay: – Năng xưng, không bằng năng chừa. Và chúng ta trở thành những kẻ mù lòa, có mắt mà không nhìn, có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Lý do khiến chúng ta khó nhận biết mình, đó là tính kiêu ngạo, đó là tinh thần Pharisêu. Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước mặt đặt những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách thậm tệ. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa.
Chúng ta thường cư xử hà khắc đối với người khác mà khoan dung với chính bản thân. Đáng lý ra chúng ta phải khoan dung với người khác mà hà khắc đối với chính bản thân mình.
Vậy có phương cách nào giúp chúng ta biết mình hay không?
- Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu về tính tình và những sai lỗi của mình. Đâu là điều tôi hay vấp phạm nhiều nhất? Đâu là điểm yếu, đâu là “mối tội đầu” của tôi để rồi bắt tay vào việc sửa đổi.
- Tiếp đến là hãy tự vấn lương tâm xem những cám dỗ nào là những cám dỗ tôi thường xuyên gặp phải? Cách thức chống trả của tôi như thế nào? Và tại sao những cám dỗ ấy lại làm cho tôi vấp ngã?
- Rồi cũng hãy tự kiểm điểm xem tình trạng đạo đức hiện giờ của tôi ra làm sao? Khô khan và nguội lạnh hay chăm chỉ và sốt sắng?
- Và sau cùng, đừng bao giờ quên đi một phương pháp chính yếu đó là sự cầu nguyện. Hãy suy nghĩ và hỏi Chúa trong thinh lặng. Hãy nhìn vào Chúa và chúng ta sẽ thấy được con người thực của mình.
Chỉ khi nào biết mình, thi chúng ta mới thực sự bắt đầu trở nên trọn lành. Hay như lời thánh nữ Têrêsa đã nói:
- Nhận biết mình nhỏ bé thì có giá trị và lợi ích hơn là nhận biết những chân lý cao vời.
17. Khiêm nhường
Chúng ta vừa nghe thánh Luca kể lại một dụ ngôn rất hay, dụ ngôn nêu lên hai nhân vật tương phản, có thể nói là hai thái cực của xã hội Do thái thời ấy: biệt phái và thu thuế. Anh biệt phái là hình mẫu của người giữ đạo tốt, anh thuộc nhóm đạo hạnh. Còn người thu thuế là hình mẫu của loại tội nhân công khai, bởi thu thuế là phục vụ nền hành chính xâm lược, anh bị xếp vào loại hàng ngũ bất hảo. Thế nhưng anh thu thuế lại được Đức Giêsu khen vì anh đã khiêm nhường.
Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.
Thế thì tại sao người biệt phái này bị Đức Giêsu kết án? Để trả lời được chúng ta nên xác định trong dụ ngôn hôm nay ai là nhân vật chính: anh biệt phái hay anh thu thuế? Xin thưa cả hai người này đều không phải là nhân vật chính. Để ý kỹ chúng ta sẽ thấy cả hai người đang ở trong đền thờ. Vậy nhân vật chính của dụ ngôn này là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa như chúng ta đã nghe trong bài đọc 1: “Người là Thần chí công, không nể mặt giàu để hại nghèo. Người nghe kẻ oan khổ kêu xin”. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu nỗi lòng của người nào cần đến Ngài. Vậy vấn đề then chốt nằm ở chỗ: Anh thu thuế rất cần Thiên Chúa thương xót, trong khi anh biệt phái không cần. Thực vậy, Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy rất rõ: anh biệt phái chỉ nhìn sau lưng anh, anh tự mãn vì sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình, còn anh thu thuế thì nhìn trước mặt mình và xin Chúa giúp; anh biệt phái nhìn chính mình, còn anh thu thuế nhìn vào Thiên Chúa và đó là điều cứu vớt anh. Thay vì đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và phó thác bản thân cho Người, thì anh biệt phái đã đặt Thiên Chúa trước sự hiện diện của anh và “bắt Chúa” phải “chuẩn nhận” những gì anh có. Anh biệt phái đã đi đến chỗ quên mất Chúa, Chúa chỉ đóng vai phụ, còn anh mới là vai chính.
Các việc lành thánh, đạo đức của anh biệt phái thiết nghĩ là Thiên Chúa có ghi nhận. Nhưng có một điều anh quên mất là chỉ mình Thiên Chúa mới xét đoán ai là người công chính mà thôi, trong khi anh đã thay Chúa làm việc này: tự hào về mình, tự cho mình là “đạo đức”.
Người ta kể rằng có một vị quan nọ đi thăm trại giam. Các tù nhân khi thấy ngài thì ai cũng nói họ vô tội, họ bị oan, (trong khi việc họ bị giam là do chính vị quan này trước khi xét xử). Duy chỉ có một tới trước mặt vị quan và nói: tôi bị tù là đáng với tội của tôi. Nghe thấy thế, vị quan đã tuyên bố một câu làm mọi người quá bất ngờ: “Tôi thấy ở đây ai cũng vô tội, chỉ có anh này đây là người có tội vậy thì chúng ta phải tách anh ta ra khỏi đám người kia, bằng cách đem anh ra ngoài vì sợ mọi người bị “nhiễm” bởi tội của anh”.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta hãy sống tâm tình phó thác, khiêm nhường như anh tội nhân trên đây hay như anh thu thuế trong dụ ngôn. Thiên Chúa sẽ đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng mình “đạo đức”, nhưng cũng chính Ngài sẽ làm cho nên công chính những ai biết khiêm nhường, phó thác. Hiểu như thế thì mọi việc đạo đức chúng ta làm như: dâng lễ, đọc kinh, ăn chay, bố thí… có ích gì đâu nếu chúng ta không lồng nơi đó một tâm tình khiêm nhường, phó thác cho Chúa vì mình “đã làm những việc phải làm”. Ngược lại, tội lỗi chúng ta có đáng gì đâu đối với Chúa một khi mình biết thống hối, tin vào lòng Chúa xót thương và chính Chúa sẽ nâng chúng ta lên để ta được công chính hóa.
Họp nhau đây để cử hành thánh lễ “tạ ơn”, chúng ta hãy có nơi mình sự khiêm nhường trước thánh nhan và như thế ta mới có thể để cho lòng mình trào lên lời cầu nguyện rất tuyệt vời như thánh Augustinô: “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Ngài. Vì con có thể nghĩ đến tội lỗi của mình, mà vẫn không bị nó đè bẹp”.
18. Chấp nhận sự thật về chính mình
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật về chính mình. Họ không khinh thường ai. Người khiêm nhường chấp nhận và tôn trọng tha nhân, bởi đó tha nhân thoải mái khi sống với họ.
Nét đẹp của người thu thuế
Người biệt phái trong dụ ngôn nhận ra anh ta không tham lam, bất chính, ngoại tình. Tuy nhiên, anh ta lại đánh giá người khác thấp hơn mình. Anh ta khinh người thu thuế đang cầu nguyện dưới cuối hội đường. Thái độ coi khinh người khác, không đẹp lòng Thiên Chúa.
Nét đẹp của người thu thuế, là thái độ khiêm nhường, nhận ra sự thật về chính mình: “Tôi là người tội lỗi”. Anh ta không so sánh mình với người khác, không khinh người khác, nhưng nhận mình nhỏ bé thấp hèn. Thái độ của anh ta, được Thiên Chúa thương: anh ta ra về và được khỏi tội.
Trong cuộc sống, nhiều người bị coi là người xấu, nhưng chắc gì tôi tốt hơn những người đó? Khi tôi xét đoán người khác, coi thường người khác, khinh người khác, là tôi đã không sống giới răn yêu thương. Khi cho người khác dở hơn mình, tôi đã dành quyền xét đoán của Thiên Chúa. Khi khinh thường người khác, tôi không còn đẹp nữa. Lúc đó, tôi không tôn trọng họ, và như vậy tôi không sống hạnh phúc; và tôi cũng không để người đó hạnh phúc với tôi. Một người khiêm nhường, là người có thể sống với người khác, và để người khác sống thoải mái hạnh phúc với mình.
Khiêm nhường: tuyên dương những gì Thiên Chúa làm cho mình
Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê hôm nay, tin rằng Ngài sẽ được hưởng triều thiên công chính. Nhận sự thật về mình, ngay cả khi mình được những điều tốt, không phải là kiêu ngạo. Phaolô tin mình sẽ được thưởng công, và Ngài biết người khác cũng được vậy nếu họ mong chờ ngày Chúa xuất hiện. Hơn nữa, khi nhận rằng những gì mình được, là hồng ân của Thiên Chúa, đó cũng là hành vi khiêm nhường, vì đã trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài.
Không đặt mình trên người khác, nhận rằng người khác có thể có những điều tốt hơn mình, đó là thái độ của những người khiêm nhường. Những gì mình có hay hơn người khác, không phải do mình, nhưng đó là hồng ân “nhưng không” Thiên Chúa ban cho mình, thế nên mình chẳng có gì để vênh vang hoặc khinh thường người khác khi họ không có điều đó.
Người khiêm nhường không xét đoán
Thiên Chúa là Đấng công bình, Ngài không thiên tư tây vị, Ngài không đứng về phía người giầu hoặc người thế lực; trái lại, Ngài ở bên người nghèo, Ngài nghe tiếng kêu xin của người nghèo. Một trong những cách nói Thiên Chúa nghe tiếng kêu xin của người nghèo, là “lời cầu nguyện của người nghèo không bị bỏ qua cho đến khi đạt được mục đích, nghĩa là, cho đến khi Thiên Chúa nhận lời”, “lời cầu nguyện của người nghèo vượt quá tầng mây”.
Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Không kết án người khác. Những điều người khác làm dở, có thể có những lý do mà mình không hiểu được. Thiên Chúa biết lòng người, mình không thể hiểu được những hoàn cảnh cụ thể, để mà phán xét kết tội họ. Người có lòng thương xót không sợ ngày phán xét, vì họ sẽ được thương xót và được phán xét như họ đã thương xót người khác. Không xét đoán người khác, không khinh người khác, là một hành vi vượt thắng chính mình.
Khiêm nhường không là nhu nhược, không là sợ hãi người khác, không là ngu dốt. Người khiêm nhường có thể rất thông minh, có thể đoán được những gì người khác sẽ làm, nhưng họ cũng nhận ra rằng, có thể có những lý do mà họ không hiểu được. Vì tôi không biết hết, nên tôi không phán đoán và kết án ai. Thiên Chúa là Đấng biết tất cả, Ngài sẽ phán xét con người. Có người muốn khẳng định Yuđa xuống hoả ngục! Nhưng, làm sao tôi biết được! Tại sao tôi đòi thay chỗ Thiên Chúa để đưa ra lời phán quyết. Tại sao tôi không nghĩ rằng Yuđa có thể hối hận vào giây phút cuối đời? Nếu muốn phán đoán, hãy có tình yêu của Thiên Chúa, để không phán đoán kết tội ai.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Khi phán đoán kết tội người khác, tôi được gì?
- Nhận ra nét đẹp của người khác, có giúp tôi sống hạnh phúc hơn không? Tại sao?
- Tại sao bạn thích sống với người khiêm nhường, hơn sống với người kiêu ngạo?
19. Biệt phái và thu thuế
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh người Biệt phái và kẻ thu thuế.
Cứ bề ngoài người Biệt phái đầy vẻ đạo đức và công chính, đồng thời được mọi người kính nể, vì ông là người cầm cân nảy mực mọi nghi lễ và lề luật. Hằng ngày ông cặm cụi vào từng chi tiết của lề luật. Ông tuân giữ ngày Sabbat, rửa tay chân trước khi ăn uống. Ông đeo thẻ kinh, đứng cầu nguyện và ăn chay nghiệm ngặt. Ông đóng mọi thứ thuế… Đời sống của ông được dệt bằng trăm ngàn khoản luật, và ông cho đó là phương tiện để nên thánh.
Thế nhưng trước mắt Chúa, ông chỉ là một con số không mà thôi. Tại sao thế?
- Lý do thứ nhất vì ông cho mình là kẻ vô tội và thánh thiện. Còn những kẻ khác chỉ là những kẻ xấu xa tội lỗi đáng sa hỏa ngục. Từ niềm xác tín ấy, ông trở thành người kiêu ngạo, cố chấp và cứng lòng.
- Lý do thứ hai vì ông không hề cầu nguyện. Nếu có thì cũng chỉ là khoe khoang và cầu danh mà thôi. Bên ngoài ông tỏ ra cám ơn Chúa, nhưng cái lõi bên trong nhằm mục đích chứng tỏ ông xứng đáng là một người biệt phái có khả năng, có đạo đức.
Nếu ông thực sự cầu nguyện thì tại sao ông không tạ ơn về những điều đã có, đã làm và đã thất bại. Ông không thể cầu xin vì ông tự mãn, cho mình đầy đủ quá rồi. Cách cầu nguyện của ông chỉ là một hình thức đóng kịch, lấy vải thưa mà che mắt thánh. Đáng lý ra cầu nguyện phải là hơi thở của linh hồn, thì linh hồn của ông đã chết từ lâu.
Và như thế chúng ta thấy cầu nguyện chính là thước đo sự sống. Không cầu nguyện, linh hồn trở nên yếu đuối và có thể chết đi, nghĩa là sa vào vòng tội lỗi. Cầu nguyện không phải chỉ là kể lể, van xin nhưng còn là ca ngợi, ăn năn và sống theo ý Chúa. Cầu nguyện không phải là độc thoại giữa ta và Chúa nhưng là đối thoại giữa Chúa và ta. Cầu nguyện như thế thì hậu quả gấp trăm lần hoạt động vì chúng ta kéo Chúa về phe mình, để Chúa giải quyết những khó khăn và hành động qua đời sống chúng ta.
Rất nhiều người đã cầu nguyện nhưng lòng không đi theo hay tệ hơn nữa còn đi ngược chiều. Có khi chúng ta cầu nguyện chỉ để đánh lạc hướng một dư luận, để ru ngủ mình trong chốc lát, để chửi xéo hay tâng bốc người khác, để khoe khoang công đức của mình. Xét cho cùng, lối cầu nguyện không quan trọng cho bằng đối tượng cầu nguyện. Chúng ta nói chuyện với ai trong khi cầu nguyện, đó mới là vấn đề. Có thể chúng ta đã nói với chính mình hay với một tạo vật nào khác trong lúc cầu nguyện và như vậy lời cầu nguyện của chúng ta chẳng ích lợi gì,
Trái lại, cầu nguyện phải là nói chuyện với Thiên Chúa Đấng ngập tràn quyền năng và yêu thương. Và chúng ta có thể tìm thấy mẫu gương của sự cầu nguyện qua hình ảnh người thu thuế.
Trước mặt mọi người ông chỉ là một kẻ tội lỗi, liên hệ với ngoại bang để bóc lột đồng bào. Chính vì nhận biết thân phận tội lỗi của mình mà ông chỉ dám đứng ở đằng xa, gục đầu xuống và đấm ngực ăn năn.
Với tâm tình khiêm nhu ông đã kêu cầu Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi. Ông ý thức tội lỗi ông nặng nề mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thứ tha. Ông tin vào uy quyền của Thiên Chúa khả dĩ làm ông đổi mới. Ông là người đáng khen hơn đáng khinh. Chính vì thế mà ông đã được tha thứ và lời van xin của ông được Thiên Chúa chấp nhận.
Biết cầu nguyện là biết sống và lời cầu nguyện đích thực có thể biến đổi được cả tâm hồn.
20. Cầu nguyện
Đâu là sự khác biệt trong lời cầu nguyện của ông biệt phái và của anh thu thuế?
Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.
Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.
Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác… Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được là do bởi ơn Chúa ban. Tạ ơn thật sự là quay về với Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Như thế, ông biệt phái đã không thực tâm tạ ơn, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp, còn Thiên Chúa chỉ là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Ông không xin vì ông không thiếu và Chúa cũng sẽ không cho vì ông đã đầy ắp.
Trong khi đó, anh thu thuế, mặc dù lắm tiền nhiều của, nhưng thật ra lại là một người nghèo trước mặt Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về tình trạng nhơ nhớp của mình, nên chỉ còn một lối thoát duy nhất là tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Và như vậy thật là oái oăm, chính sự đạo đức của ông biệt phái lại trở nên chướng ngại vật khiến ông không gặp được Chúa, không lãnh nhận được ơn huệ của Ngài, còn sự tội lỗi của anh thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở rộng cõi lòng để đón nhận Chúa và ơn tha thứ của Ngài.
21. Lời cầu nguyện khiêm nhường
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM NHƯỜNG XUYÊN QUA NHỮNG ĐÁM MÂY
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Trong Phúc Âm theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta về cầu nguyện. Đầu tiên chúng ta học cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Cha trong lời kinh mà chúng ta gọi là “lời cầu nguyện của Chúa” hoặc đơn giản là “Kinh Lạy Cha”. Chúng ta học, chúng ta phải nhớ dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, chúng ta phải kiên trì với những lời nài xin dâng lên Thiên Chúa.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về chân lý, đã được tiên báo trong sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”. Thiên Chúa thương đến những lời cầu nguyện khiêm nhường, đó là một bài học bên trong của dụ ngôn có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Thiên Chúa không hài lòng với tất cả những lời cầu nguyện của người Pharisiêu kiêu căng. Thật sự, đó không phải là một lời cầu nguyện nhưng đó chỉ là một bản danh sách những lời tự ca tụng. Nhưng Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện của người thu thuế tội lỗi. lời cầu nguyện chân thành của ông đã được thương xót.
Chúa Giêsu lấy làm sung sướng khi chú ý đến việc chấp nhận người anh hùng của câu chuyện (hãy nhớ đến người Samaria nhân hậu đã giúp đỡ một người ngoại quốc bị nạn và trở thành một vị anh hùng trong dụ ngôn này). Mọi người khinh bỉ người thu thuế, đặc biệt dị ứng đối với người thu thuế và sở thu thuế. Nhưng người đàn ông này biết mình tội lỗi và đã cầu xin nơi Thiên Chúa sự xót thương.
Chúa Giêsu chọn người thu thuế oán ghét này để làm người anh hùng bởi vì Người muốn ám chỉ tới dụ ngôn là: “Những người đã tin vào sự công chính của họ trong lúc nhìn mọi người với cặp mắt khinh bỉ”. Người Pharisiêu trong dụ ngôn đã được giới thiệu như những người này, ông là một hình thức xấu nhất của cái tôi phiền phức. Ông ta có thể chỉ biết chính mình trong con đường thuận lợi.
Mặc dầu ông đã cảm tạ Thiên Chúa không làm cho ông giống như người đàn ông tội lỗi kia, ông là một kẻ giả hình. Điều ông ta nói chẳng có ý nghĩa gì. Thật sự ông chỉ thấy chính mình như là người đã tạo ra con người hoàn hảo mà không cần bất cứ ai, không cần ngay cả Thiên Chúa. Đó là sự sai lầm làm nền tảng, là tội nguyên tổ mà tổ tiên chúng ta đã nghĩ đến khi đặt chính mình thay thế Thiên Chúa. Cái tôi làm cho chúng ta giống như những chiếc xe hơi mà chúng ta gọi vô dụng. Chúng có những hiệu quả nghiêm trọng bởi vì chúng ta được chế tạo với những sai sót và số phận là lập lại những thất bại.
Người thu thuế thì không phải là một kẻ vô dụng, nhưng ông ta giống như một chiếc xe hơi đã chịu đựng những tay lái không cẩn thận và không biết bảo quản xe. Chỉ có một quyết định duy nhất là mang xe hơi trở lại cho người buôn bán để họ tân trang lại. Người thu thuế đã làm một chọn lựa đúng, ông ta đã đi tới với người công chính để sửa chữa lại những gì mình cần. Ông đã làm một lời xin thứ lỗi. Ông không nhận biết những vấn đề của mình nhưng cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho những gì ông cần trong lời cầu nguyện đơn giản: “Ôi Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Lời cầu nguyện của người thu thuế là một lời nài xin, một lời van xin giúp đỡ, một kiểu cầu nguyện mà chúng ta thường dâng lên Thiên Chúa. Sự nài xin đích thực diễn tả trong sự khiêm nhường đã được Chúa Giêsu chuẩn nhận. Chúng ta yêu cầu Thiên Chúa ban ơn, bởi vì chúng ta biết rằng Ngài là Đấng sẽ xoay chuyển được mọi sự, Người là Đấng quyền năng có thể giúp đỡ chúng ta. Một nửa của sự khiêm nhường để nhận biết quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn bất cứ sức mạnh nào trong vũ trụ này. Một nửa kia của sự khiêm nhường này là chấp nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, chúng ta không thể đi đâu, làm gì một mình được và chúng ta tùy thuộc vào tình yêu của Ngài cũng như quyền năng của Ngài. Lời cầu nguyện khiêm nhường diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa và nhu cầu của chúng ta.
Lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta bay thẳng lên trời vì lời cầu nguyện khiêm tốn sẽ xuyên qua các đám mây và sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt đến mục đích của nó.
22. Lời cầu nguyện đích thực
Một vị linh sư nọ đang cầu nguyện. Các môn đệ đến xin ông dạy họ cách cầu nguyện. Vị linh sư liền dạy các môn đệ cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Cả hai người dẫn nhau đi qua một cách đồng, bỗng một con bò mộng giận dữ không hiểu từ đâu chạy tới. Hai người bèn chạy đến hàng rào gần nhất để ẩn núp; những đã quá trễ, họ không thể lẩn trốn được con bò mộng hung dữ kia đang chạy tới để hút vào người họ. Trong cơn hốt hoảng, không còn biết làm gì được nữa, một trong hai người đề nghị: chỉ còn có sự cầu nguyện may ra giúp chúng ta thoát được. Thế nhưng người kia lắc đầu tuyệt vọng:
- Cả đời tôi, có bao giờ tôi cầu nguyện đâu!
Người bạn quả quyết:
- Anh hãy đọc bất cứ kinh nào anh nhớ.
Một chút hy vọng bỗng lóe lên, anh ta nói:
- Vậy thì tôi sẽ đọc lời kinh duy nhất mà tôi còn nhớ, đó là lời cầu nguyện cha tôi thường đọc trước bữa ăn như sau:“Lạy Cha, xin cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng con đã nhận được”.
Anh chị em thân mến,
Cầu nguyện là sinh hoạt căn bản và là nhu cầu cấp thiết của lòng tin. Cầu nguyện còn là biểu hiện của một lòng tin sống động. Người Kitô hữu nào cũng phải cầu nguyện. Nhưng lời cầu nguyện của chúng ta chỉ có ý nghĩa thực khi nó diễn tả mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Và đó là lời cầu nguyện đẹp nhất mà Thiên Chúa mong đợi nơi những kẻ tin Ngài.
Chúng ta thường cầu nguyện như thế nào?
Hôm nay chúng ta hãy nghe lời cầu nguyện của người Pharisêu và của người thu thuế trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta. Qua lời cầu nguyện của hai người nầy, chúng ta thấy được phần nào nội tâm của từng người.
Lời nguyện của người Pharisêu trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo là bản liệt kê những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, cuối cùng là những việc đạo đức ông quen làm. Đây là một lời cầu nguyện hết sức thành thực, người Pharisêu chỉ nói lên những điều ông đã sống. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá tội, nộp một phần mười lợi tức cho đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho đền thờ một phần mười lợi tức chẳng những về gia súc, ngũ cốc, rượu và dầu mà còn cả về rau, đậu và thảo mộc nữa. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, nhưng chỉ là “tạ ơn”. Điều đáng tiếc là lời tạ ơn của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: “Tạ ơn Chúa vì con không như bao người khác…”, “con không như tên thu thuế kia”. Chính vì thế chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình “tạ ơn” của người Pharisêu nầy. Tạ ơn thực sự bao giờ cũng gắn liền với thái độ khiêm tốn thẳm sâu.
Còn người thu thuế đến đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là một tội nhân, bị kể ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện lớn tiếng của người Pharisêu “con không như tên thu thuế kia”, nên anh thấy khỏi cần thú tội mình. Anh chỉ đặt mình trước Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ dám đứng xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng.
Thưa anh chị em,
Qua lời cầu nguyện của hai người trên đây, chúng ta thấy: Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức, nhiệm nhặt. Ông ra gặp Chúa với một kho những công trạng to lớn của riêng ông. Nhưng than ôi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ “tôi” trong lời cầu nguyện của ông. Tôi tôi thế nầy, tôi thế nọ, tôi không như người nầy, không như người khác… Rốt cuộc ông Pharisêu lại là người quay vào mình, ông ngắm chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa”. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được. Ông Pharisêu đã không tạ ơn thực tâm vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Pharisêu không xin Thiên Chúa cũng chẳng thể cho điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình.
Nếu người Pharisêu là một ông nhà giàu, chẳng có gì phải xin Thiên Chúa, thì ngược lại, anh thu thuế, tuy là là người có lắm tiền nhiều của, nhưng thực ra anh là người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về sự nhơ nhớp của mình và thấy gần như không thể làm lại cuộc đời. Nếu hoán cải, anh phải bỏ nghề, và nhất là phải bồi thường toàn bộ những gì anh đã thu quá mức, cộng thêm một phần năm số tiền trên. Tình cảnh của anh thật là tuyệt vọng. Anh chỉ còn biết cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức của người Pharisêu đã trở thành một chướng ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội lỗi của người thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón nhận Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết:người nầy, khi trở về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không”.
Như thế, thưa anh chị em, những ai tự cho mình là công chính thì không được Thiên Chúa nhìn nhận, còn kẻ tội lỗi biết cậy trông, lại được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Chúng ta không thể tự tạo cho mình sự công chính thánh thiện nhờ làm những việc lành phúc đức. Trở nên công chính là một ơn Chúa ban cách nhưng không, nhờ lòng tin và lòng mến của ta đối với Chúa Giêsu Kitô. Chắc chắn chúng ta phải làm nhiều việc lành phúc đức, nhưng đừng tưởng mình có thể mua được Nước Trời bằng những công phúc của mình. Chúng ta được cứu độ nhờ công trạng của Đức Kitô. Dù sống đạo đức hay trót mang thân phận tội lỗi, chúng ta phải tránh thái độ khép kín trước Thiên Chúa và tha nhân. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự kiêu, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng bì mình tội mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở ra để đón nhận.
Anh chị em thân mến,
Hình ảnh của hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay đã giúp chúng ta khám phá lại hai sự thật căn bản: sự thật về Thiên Chúa tình thương và sự thật về con người tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện của người thu thuế về con người tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện của người thu thuế lại chính là mẫu mực cho đời sống đức tin của chúng ta: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Nếu dụ ngôn giúp chúng ta khám phá hai sự thật căn bản đó thì để kết thúc, không có gì tốt hơn là lặp lại thật sâu và thật trọn vẹn lời cầu nguyện của Thánh Âutinh: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con”.
23. Tội lỗi chống lại sự có tội – McCarthy
Người Pharisêu hoàn toàn không biết đến sự có tội của mình. Ông ta không nghĩ mình có tội gì cả. Ông ta không phải là một người tội lỗi như phần còn lại của nhân loại. Không. Ông ta khác hẳn. Tuy nhiên, thay vì xem xét lương tâm của mình và xưng thú tội lỗi của mình, ông xem xét lương tâm của những người khác và xưng thú tội lỗi của họ –tham lam, bất công, ngoại tình vân vân…
Tuy nhiên, ông ta có tội. Thật vậy, tội rất nghiêm trọng. Tội chính của ông là lòng kiêu ngạo. Nhưng ông ta cũng phù phiếm và tự cho mình đúng lại còn khinh khi những người khác. Những tội lỗi của ông ta không phải vì những việc làm xấu mà là những thái độ xấu. Ông ta tỏ một thái độ có vấn đề như người ta thường nói như thế ở Mỹ.
Người thu thuế nếu muốn cũng có thể cáo tội người Pharisêu. Nhưng ông không làm thế. Ông tập trung vào chính mình, và để tội lỗi của những người khác ở giữa họ và Thiên Chúa. Với sự lương thiện triệt để, ông bóc trần tâm hồn trước mặt Thiên Chúa. Ông không cố tình giấu giếm điều gì. Ông đứng trước mặt Thiên Chúa và với tất cả sự khiêm tốn, ông nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Kết quả là khi ông trở về nhà, ông đã được nên công chính. “Lời cầu xin của người khiêm tốn sẽ vọng tới các tầng mây” (Bài đọc 1).
Chúng ta có thể học hỏi cả hai người ấy. Trước hết người Pharisêu. Thật vậy, có một người Pharisêu ẩn núp trong mỗi người chúng ta. Giống như họ, chúng ta có thể nhận thức rõ những tội lỗi của các người khác nhưng lại không nhìn thấy tội lỗi của mình. Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào chính tội của mình. Ngoài ra, không thể định tội những người khác mà không để cho sự chủ quan của mình, làm cho thiên lệch.
Và chúng ta có thể học hỏi với người thu thuế. Ông này chỉ cho chúng ta biết phải xưng thú tội lỗi của chúng ta như thế nào. Dù chúng ta chưa nhận thức hết mọi tội mình làm, mỗi người trong chúng ta vẫn có thể nói với tất cả sự thật: “Con là kẻ tội lỗi”.
Nhiều người đến với Bí tích hoà giải với một danh sách các tội đã được chuẩn bị trước. Phần lớn những điều ghi trong danh sách ấy thì tầm thường, không đáng kể và không thay đổi bao nhiêu từ lần xưng tội này đến lần xưng tội sau. Người ta không nỗ lực đi sâu vào căn nguyên của mối tương giao của họ với Thiên Chúa và với người khác. Người ta quá nhấn mạnh đến các tội mà không nhấn mạnh đúng mức trên sự kiện là một người tội lỗi.
Người thu thuế hẳn sẽ dễ dàng lập ra danh sách các tội. Nhưng ông đã không làm thế; ông làm một điều tốt hơn, và cũng khó khăn hơn. Ông nói: “Con là kẻ tội lỗi”.
Chúng ta cũng phải chuẩn bị đứng trước Thiên Chúa như những kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa như đất hạn cần mưa. Chúng ta cần phải đối diện không phải với sự thật chúng ta phạm tôi mà với sự thật chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chúng ta là một dân có tội, sa đoạ – đây là một thực tế. Tội lỗi không phải là một hành động hay một hoạt động các hành động, nhưng là một điều kiện trong đó chúng ta sống. Đó là một chân lý cao cả mà người thu thuế đã lĩnh hội.
Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là con người không biết được chính mình, nhận ra điều xấu và giải quyết nó nơi bản thân mình. Những người trong các nhóm hỗ trợ nói rằng khúc quanh lớn làm họ chuyển biến là khi họ có thể nói lên sự yếu đuối của mình.
Người Pharisêu đầy sự tự mãn, là tâm điểm của thế giới ông ta. Ông đã tự tán dương mình. Từ vị trí tự tâng bốc ấy, ông nhìn xuống những người khác, trong đó có những người mà ông khinh bỉ. Người thu thuế, trái lại, hạ mình trước mặt Thiên Chúa. Ông này đặt hy vọng của ông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta làm tốt khi theo gương ông. Thiên Chúa yêu thích tâm hồn tan vỡ và sầu khổ biết rõ những thất bại của mình hơn tâm hồn tự mãn và kiêu căng không bao giờ nhận rằng mình đã phạm tội.
“Một kẻ tội lỗi biết rằng mình là kẻ tội lỗi tốt hơn một ông thành biết mình là thánh nhân” (Châm ngôn Yiđít).
(33)
Phản hồi gần đây