CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C

Lời Chúa: Xh 3,1-8a.13-15; 1Cr 10,1-6.10-12; Lc 13,1-9

MỤC LỤC

1. Sám hối 3

2. Sám hối. 5

3. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 7

4. Tai họa và tội lỗi – Cố Lm. Hồng Phúc. 12

5. Trở về với Đấng Yêu Thương. 14

6. Ai là tốt, ai là xấu?. 18

7. Sám hối và canh tân – Lm. GB. Trần Văn Hào. 21

8. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng. 25

9. Hãy sinh hoa trái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 28

10. Dấu chỉ thời đại. 31

11. Hại đất 33

12. Cái nhìn nội tâm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 36

13. Ăn năn sám hối – R. Veritas. 39

14. Cơ hội cuối cùng – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn. 41

15. Hoán cải tâm hồn. 45

16. Lời mời gọi sám hối. 49

17. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio Veritas Asia. 52

18. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas Asia. 57

19. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc. 60

20. Suy niệm của Radio Veritas Asia. 63

21. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio Trần Ngà. 66

22. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. 68

23. Kiên nhẫn của tình yêu – Achille Degeest 71

24. Mùa chay, mùa đổi mới. 73

25. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy. 77

26. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn. 84

27. Thống hối – R. Gutzwiller 89

28. Lời mời gọi sám hối- Lm. Phạm Thanh Liêm.. 92

29. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 95

30. Đổi mới cách nhìn. 98

31. Sám hối 100

32. Ăn năn sám hối 103

33. Sám hối 106

34. Kiên nhẫn – Trầm Thiên Thu. 110

35. Sám hối vì chưa làm điều tốt 116

36. Nhận ra lòng Chúa xót thương và hoán cải 121

37. Mời gọi hoán cải – Dụ ngôn cây vả – Fx, VPLong. 125

38. Chú giải của Noel Quesson. 131

1. Sám hối

Dân Do Thái đã có lịch sử huy hoàng với những vị vua sáng chói như Đavít, như Salomôn. Tuy nhiên vào thời Chúa Giêsu, tình thế đã đảo ngược. Họ phải cúi đầu chấp nhận ách thống trị của đế quốc Lamã. Pháo đài Antonia được dựng lên ở Giêrusalem; bịnh đội Lamã coi thường người Do Thái và những quyền lợi của họ. Viên toàn quyền của hoàng đế César xen vào nội bộ tôn giáo bằng cách chọn lựa và công nhận những thầy cả thượng phẩm. Miền bắc là xứ Galilêa, mặc dù do vua Hêrôđê cai trị. Nhưng Hêrôđê cũng chỉ là một tên hề múa rối, quyền hành nằm cả trong tay Philatô. Chính vì thế một sự oán ghét thù hận âm ỉ trong lòng người Do Thái. Bề ngoài thì hoà hoãn nhưng bề trong thì sôi sục như một cục than hồng dưới lớp tro tàn. Họ mong đợi Đấng cứu thế đến để giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ lầm than.

 

Bấy giờ Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài lên tiếng rao giảng về Tin Mừng Phúc Âm. Người ta kể lại cho Ngài nghe việc một số người Galilêa có lẽ đã xách động dân chúng chống lại binh đội Lamã. Thế là theo lệnh của Philatô binh đội Lamã xông vào đền thờ, tàn sát họ khiến máu họ hoà lẫn với máu của lễ vật. Những người kể lại sự việc này hy vọng Chúa Giêsu sẽ đứng lên giải phóng dân tộc và họ sẽ theo Người cho dù có phải chết. Nhưng cái nhìn của Chúa Giêsu thì khác. Người đến không phải để gieo rắc hận thù, nhưng đến để rao giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi mọi người ăn năn để được cứu độ. Người nói: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy.

 

Rồi một sự kiện khác nữa đó là ngọn tháp Siloe bất thần sụp đổ và đè chết 18 người. Thiên hạ cho rằng họ là những kẻ tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Người muốn coi đó như một tiếng chuông cảnh tỉnh: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như thế. Với chúng ta cũng vậy, những tiếng chuông cảnh tỉnh không ngừng vang lên, những tín hiệu báo động không ngừng xuất hiện. Nếu chúng ta biết thực thi Lời Chúa, nghĩa là biến sám hối ăn năn, thì những tai ương hoạn nạn sẽ là một cái gì tốt lành, vì nó sẽ đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.

 

Một người bà con lối xóm, Bị trúng gió và chết liền tức thời. Phải chăng người ấy là một kẻ tội lỗi. Không phải là như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hai chuyến xe lửa đầy ắp người đụng phải nhau khiến cho hàng trăm người bị chết. Một thành phố bị động đất khiến cho hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Phải chăng họ là những kẻ tội lỗi, không phải như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Rồi hằng ngày báo chí, truyền thanh truyền hình đã tường thuật cho chúng ta biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn: nào là đói khát, nào là chiến tranh, nào là bạo động… Phải chăng những nạn nhân đều là những kẻ tội lỗi. Không phải là như vậy, nhưng nếu chúng ta không biết hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hằng ngày Chúa vẫn gởi đến với mỗi người chúng ta những tiếng chuông cảnh tỉnh và những tín hiệu báo động, có khi chợt loé lên như một tia chớp, có khi âm vang như một hồi còi dài. Thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta phải biết lắng nghe, phải biết nhìn xem, để nhận ra được tiếng Chúa hầu giục lòng ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.

2. Sám hối.

Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và nước mắt của những người bị Philatô giết, cũng như những người bị tháp Siloe đè bẹp, có những kẻ đã nghĩ xấu khi cho rằng sở dĩ những người này phải chết vì họ là những kẻ tội lỗi. Ý nghĩa độc ác đó, giống như một con dao đâm vào các nạn nhân đã chết. Và như thế, những người đã chết lại bị chết thêm một lần nữa.

 

Trước sự bất công và bất nhân ấy, Chúa Giêsu đã xác định không phải là như thế, đồng thời khuyên nhủ mỗi người hãy ăn năn hối cải, kẻo rồi sẽ bị Chúa huỷ diệt như vậy. Với những suy nghĩ trên, Ngài vừa minh oan cho các nạn nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là ai xét đoán ác nghiệt cho kẻ khác, thì cũng sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy. Kẻ cho rằng các nạn nhân bị chết thê thảm là vì họ có tội, thì chính họ, nếu không sửa mình, cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.

 

Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực hành, đó là đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ và cho những người thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính bản thân mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là hãy lo chuyện mình bằng cách ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.

 

Đổi mới bản thân, cải thiện đời sống đó là điều chúng ta thường xuyên mong muốn. Chúng ta đã cố gắng, thế nhưng càng cố gắng chúng ta lại càng khám phá ra rằng: Tự sức riêng, chúng ta không thể ăn năn sám hối và cải thiện đời sống mình, trái lại phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.

 

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta hay biết về kinh nghiệm ấy. Chúa là người trồng cây, còn chúng ta là những cây vả không có trái. Ngài muốn chúng ta cải thiện nên đã trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh. Rồi cũng chính Ngài đã chăm sóc chúng ta như người trồng cây đối với cây vả của mình. Nhưng chúng ta lại là những cây vả có trí khôn, có tự do, chúng ta có thể đón nhận hay không đón nhận ơn lành của Chúa. Chúng ta có thể sinh những hoa trái tốt, nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào cả. Nguyên do là bởi chúng ta có biết đón nhận ơn Chúa hay không? Nghĩ tới đây hẳn chúng ta sẽ cảm thấy lo lắng cho số phận của chúng ta, bởi vì có những lúc chúng ta đã dửng dưng với ơn Chúa, đã từ chối ơn Chúa. Ý thức về thân phận yếu đuối, để rồi phó thác cho tình thương của Chúa, là chúng ta đã khởi đầu sự ăn năn. Tuy nhiên, tâm tình sám hối không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải tiến tới ba việc làm khác nữa, đó là cầu nguyện, hãm mình và làm việc bác ái, đặc biệt là bố thí giúp đỡ người nghèo.

 

Và như thế, chúng ta thấy tâm tình sám hối của chúng ta còn rất hời hợt. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta không phải chỉ là không còn phạm tội nữa, mà còn phải tích cực làm việc lành. Vì việc lành mới là những hoa trái thiêng liêng mà Chúa muốn có. Thế nhưng, bản thân chúng ta đã có được những hoa trái thiêng liêng ấy chưa, hay là đến giờ này, chúng ta vẫn chỉ là những cây vả không có trái?

3. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Hành trình đức tin của tổ phụ Abraham là mẫu gương sáng ngời soi chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Dòng dõi con cái cháu chắt nhiều đời của ông tổ đã trở nên một dân tộc đông đúc sinh sống ở Ai-cập. Trong chương trình cứu độ, từng bước Thiên Chúa đã hướng dẫn lịch sử của dân đã được chọn này. Thiên Chúa mạc khải cho ông Môisen về ý định cứu dân ra khỏi vùng đất bị làm tôi đòi nô lệ để đi vào miền Đất Hứa. Ông Môisen đã chứng kiến: Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Ông Môisen nhìn thấy sự lạ là bụi gai cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Đây là dấu hiệu của trời cao loan báo một sứ điệp. Ông đã tiến lại gần để ngắm nhìn và lắng nghe: Thiên Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng (Xh 3, 7). Lời hứa năm xưa với ông Abraham, hơn bốn trăm năm sau, nay mới bắt đầu khai mở.

 

Thiên Chúa mạc khải chính mình: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.”(Xh 3, 14). Dân chúng sống tạm nhờ trong miền đất Ai-cập đã qúa lâu, nhiều cháu chắt không còn nhớ đến các tổ phụ cha ông. Trong suốt thời gian lưu lạc ở đất Ai-cập, sách sử không ghi lại những chứng tích biến cố vĩ đại nào. Sau khi tể tướng Giuse, con của ông tổ phụ Giacob qua đời, dân chúng sống trong âm thầm và sinh xôi nẩy nở rất đông. Thiên Chúa luôn ghé mắt đoái nhìn đến đoàn con dân của Người. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa chọn và gọi ông Môisen thi hành sứ mệnh giải thoát dân. Chúng ta nghe biết câu truyện của Môisen được cứu vớt lên khỏi nước và trở thành thủ lãnh đưa dân ra khỏi nước Ai-cập. Thiên Chúa đã ban cho ông uy quyền biến đổi và thực hiện các sư lạ trước mặt vua quan Ai-cập để minh chứng bàn tay uy quyền Thiên Chúa.

 

Hành trình đi về đất hứa đầy gian nan và thử thách. Khi gặp những sự khó khăn mà không thỏa mãn nhu cầu vật chất về cái ăn cái uống, dân chúng đã nổi loạn và kêu trách ông Môisen. Chúa phạt rồi Chúa lại tha. Ông Môisen như người trung gian cũng đối diện với khó khăn tư bề. Thiên Chúa hướng dẫn dân đi theo đường chính nẻo ngay, trong khi dân chúng bị ảnh hưởng cuộc sống thế tục và đa thần giáo, nên nhiều lúc họ đã bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại. Môisen phải cùng phấn đấu với các thử thách để vượt qua những sự yếu đuối của kiếp người. Chúng ta biết ông Môisen cũng chỉ là một con người mỏng dòn và giới hạn mọi điều. Khi dân hối lỗi, Chúa lại tha thứ. Suốt 40 năm lang thang trong hoang địa, Môisen đã dẫn đoàn dân tới bờ miền Đất Hứa. Ông đã chu toàn sứ mệnh thanh luyện niềm tin của Dân vào Thiên Chúa duy nhất.

 

Mùa sám hối, xin kể câu truyện: Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó. Cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây thứ ba lớn hơn và cây thứ bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng. Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ hai. Cậu phải dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay mãi mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư. Hai cánh tay ôm lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh. Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư và tật xấu của ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm và trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.

Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ.  Tội lỗi có một ma lực kéo lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện. Bài phúc âm nhắc nhớ câu truyện của mấy người Galilêa bị ngược đãi, bị ghép tội và bị giết. Chúa Giêsu nhắn nhủ mọi người: Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13, 3). Chưa chắc những người này là những người tội lỗi. Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy tự xét chính mình trước mặt Chúa.

 

Có đôi khi biết thân và biết ý xấu nhưng chúng ta lại tiếc thân ý xấu, không muốn dứt bỏ. Rất tiếc khi bỏ đi những ý tưởng xấu, lời nói hành, bịa truyện gian dối, cờ bạc, rượu chè và gian dâm. Ai nghiện hút thuốc cũng biết, bên ngoài bao thuốc có chữ ‘hút thuốc có hại cho sức khỏe’ hay ‘hút thuốc có thể gây bệnh ung thư phổi’. Biết có hại đó, cám ơn lời nhắc nhở, nhưng lại tiếc thân nghiện và không dám dứt bỏ. Tất cả các thói hư tật xấu mà chúng ta mắc phải cũng đã được nuôi dưỡng từng ngày. Chúng ta biết rằng sự xấu, sự dữ là tội, là sai trái và là sự hư đốn, nhưng lại tiếc như tiếc của, chẳng muốn rời xa. Đôi khi chúng ta bị lún sâu và ngụp lặn trong những cơn mê lầm này. Vì tội kéo theo tội. Nói dối điều này, kéo theo điều khác để biện minh. Chúng ta không thể tưởng tượng rằng đã có nhiều vụ án ghê gớm xảy ra cũng chỉ vì tội nhân dấu diếm một lỗi phạm nhỏ ban đầu. Người ta tìm cách phi tang dấu vết và dùng thủ đoàn để che dấu lỗi lầm, nên đã dẫn đến những hậu qủa khó lường như trả thù đánh đập, gia đình tan vỡ, phá thai hay giết người. Khởi đầu là những nguyên nhân và sự cố rất nhỏ, vì sợ bị phát hiện nên dấu bớt sự thật, dần dần sự dối trá sinh ra nhiều oan trái và báo thù khủng khiếp.

 

Tại sao nhiều người thích nói dối? Nói dối vì muốn dấu diếm sự thật không tốt và không muốn bị rầy la quở trách. Nói dối loanh quanh sẽ không có điểm dừng, nói dối này kéo theo dối trá khác. Vì nói thật thì mất lòng. Nói thật thì mất lợi lộc. Nói thật có thể bị mất danh hờ. Nói thật thì mất nhiều thứ khoái và nói thật thì bẽ bàng. Chúng ta biết chỉ có sự thật mới giải thoát. Sự thật thì đơn giản và vắn gọn. Sống đạo là sống trong sự thật. Hạt giống đức tin của tình yêu và sự thật cần được vun trồng tưới gội để phát triển. Đừng để niềm tin bị bóp nghẹt giữa đám cỏ dại của sự gian dối. Biết rằng chúng ta không thể tránh được mọi thói hư tật xấu ở đời, nhưng vẫn có thể khắc phục nó bằng cách tu tâm luyện tính mỗi ngày. Xa tránh và dám dứt bỏ các dịp tội và đừng níu kéo nó. Vun xới cho các đức tính tốt có cơ hội phát triển hơn mỗi ngày. Vì nếu sống đời Kitô hữu mà không sinh hoa trái tốt, cuộc sống sẽ trở nên vô dụng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả để cảnh báo: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?(Lc 13, 7). Nhân đức không phát triển giống như cây không sinh trái, sẽ bị chặt đi.

 

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhớ câu truyện của những người Do-thái ương ngạnh và sống bê tha đã bị phạt trong cuộc lữ hành về Đất Hứa: Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cor 10, 5). Phaolô kêu gọi mọi người hãy xem gương đó mà ăn năn sám hối. Không ai trong chúng ta có thể hãnh diện khoe mình là người đạo đức và thánh thiện. Cuộc lữ hành còn dài, chúng ta còn gặp nhiều chông gai và thử thách. Hãy luôn ý thức thân phận yếu hèn và tội lỗi để cảnh tỉnh và hối cải: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cor 10, 12).

 

Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận muôn hồng ân phúc lộc của Chúa, xin cho chúng con biết dùng thời giờ, của cải và khả năng để sinh lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng con và anh chị em. Chúng con dâng lời tạ ơn Chúa tới muôn ngàn đời.

4. Tai họa và tội lỗi – Cố Lm. Hồng Phúc

Tất cả chúng ta, ai cũng thích nghe tin tức. Ngày nào không đọc báo, không xem tin tức, truyền hình, chúng ta cảm thấy như thiếu một cái gì. Có những tin tức làm xúc động dư luận quần chúng và người ta bàn tán, có khi còn đặt câu hỏi: Vì sao Chúa để xảy ra như vậy?

 

Hôm nay, trong bài Phúc Âm, có hai bản tin sốt dẻo, hai tai nạn làm xao động dư luận và người ta đem kể lại với Chúa với thâm ý xin Ngài vạch công tội.

 

Một là tin vị Tổng trấn Lamã, ông Philatô, vốn nổi tiếng có bàn tay sắt, vừa ra lệnh hạ sát một nhóm người Galilê nổi loạn, tại chính trong Đền thờ và lấy máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh. Hai là mẩu tin ngọn tháp Siloê đổ, chôn sống 18 người. Họ đem kể lại với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội.

 

Dân chúng, xưa cũng như nay, vẫn có quan niệm rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta nghĩ đến tội kẻ khác hơn là tội của mình. Và khi không đổ cho kẻ khác được thì lại đổ vào…Thiên Chúa. “Vì sao Chúa để như vậy?” Hôm nay, quần chúng qui tội cho nạn nhân và những người liên hệ. “Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó?”

 

Chúa Giêsu dùng diệp này để nói với họ và qua họ, với chúng ta rằng: “Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả”. Đây là lời kêu gọi sám hối. Đây là tất cả Tin Mừng rao giảng: Hãy ăn năn trở lại, hãy từ bỏ tội lỗi, quay về với Thiên Chúa.

 

Việc “trở lại” là vấn đề quan trọng sinh tử của mỗi người, nên Chúa còn nhấn mạnh sau đó trong dụ Ngôn Cây Vả. Có thể trước mặt thính giả gió chiều đang đong đưa cành lá một cây vả xanh tươi. Nhưng đã ba năm rồi, nó không sinh quả. Chủ nhân đang muốn chặt nó đi, để nó khỏi chiếm đất và quăng vào lửa. Nhưng có người ngăn can xin để thêm một năm nữa…may ra.

 

Dụ ngôn trực tiếp ám chỉ dân Do-Thái, dân được tuyển chọn nhưng lại giả điếc làm ngơ, tìm cách giết hại Chúa. Nhưng dụ ngôn cũng hướng về chúng ta… Chúa cũng cho chúng ta sống thêm chuỗi ngày năm tháng… may ra… Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng bị đốn ngã và đem ném vào lửa đời đời. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng tha thiết kêu gọi sự ăn năn trở lại và sống gương mẫu. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã”.

 

Lạy Chúa, lời kêu gọi ấy, chúng con xin đón nhận.

Mùa Chay là mùa sám hối, xin Chúa giúp chúng con sống tinh thần chay tịnh: MISERERE MEI – Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.

5. Trở về với Đấng Yêu Thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Thiên Chúa đã biết nỗi khổ cực của dân Do Thái bên Aicập, Ngài đã nghe tiếng họ kêu than (Xh.3, 7), và Ngài muốn giải phóng họ khỏi cảnh khổ cực để đưa họ về nơi hạnh phúc. Thiên Chúa không ở xa con người, Ngài ở gần con người, Ngài nghe tiếng con người cầu khẩn Ngài, Ngài rung động trước nỗi khổ cực của con người. “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là câu muốn diễn tả Thiên Chúa là Đấng siêu việt, chứ không muốn nói Thiên Chúa ở trên khoảng không trên trời xa thẳm và không nghe được tiếng con người cầu xin. Thiên Chúa luôn ở với con người (Ga.14, 23.16), Ngài làm con người thành đền thờ của Ngài (1Cor.3, 16-17). Thiên Chúa ở gần tôi, Thiên Chúa biết tôi hơn cả chính tôi, Ngài quan tâm đến tôi hơn cả chính tôi (Tv.139, 1-6). Thiên Chúa luôn yêu thương tôi.

 

Thiên Chúa gọi Môsê và sai ông đi giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập. Môsê là người rất đặc biệt. Ông đã gắn bó với dân tộc mình, cho dù ông đang sống trong hoàng cung với những điều kiện thuận lợi để có một đời sống vật chất êm ấm nhưng ông đã bênh người Do Thái mà giết một người Aicập. Việc bại lộ nên ông phải bỏ hoàng cung để trốn chạy ra ẩn cư nơi hoang địa. Giờ đây Thiên Chúa gọi ông, Ngài chọn ông và sai ông trở lại Aicập để đưa dân Do Thái ra khỏi đó. Môsê được gọi vì dân tộc Do Thái. Không thể chối cãi rằng Thiên Chúa yêu thương Môsê, Ngài đã can thiệp vào đời Môsê để cứu ông khỏi chết trên giòng sông Nil, Ngài đã giải thoát ông khỏi tay Pharaô trong biến cố ông giết người Aicập, và bây giờ Ngài ưu ái chọn ông làm người thực hiện ý định của Ngài; tuy nhiên người ta cũng thấy rõ, chính vì dân tộc Do Thái, để giải phóng dân Do Thái mà Môsê đã được gọi. Sứ mạng được trao cho cá nhân, để phục vụ cộng đoàn, để phục vụ con người.

Thiên Chúa yêu thương dân như vậy, nhưng dân Do Thái đã nổi loạn không tuân phục Thiên Chúa. Bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho dân như mười tai ương bên Aicập, đi qua biển đỏ ráo chân, đập đá lấy nước cho dân uống, chim cút cho dân ăn, manna hằng ngày cho dân, nhưng họ vẫn không tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Họ đã không được vào đất hứa vì thái độ phản loạn của họ. Thánh Phaolô cho rằng con người ngày nay có lịch sử dân Do Thái để làm gương, để biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (1Cor.10, 6.10-12). Không phải con người ngày nay khá hơn con người ngày xưa, nhưng điều đã xảy ra cho dân tộc Do Thái ngày xưa hôm nay vẫn được lập lại cho mỗi con người. Con người hôm nay cũng phải sống thuận thảo với Thiên Chúa, phải tin tưởng và phó thác nơi Ngài. Hạnh phúc đích thực mà con người mọi thời đại phải cố thực hiện, là hạnh phúc mỗi ngày và từng ngày, từng giây phút. Hạnh phúc thực tùy thuộc thái độ và chọn lựa của mỗi con người.

 

Đức Giêsu cũng nói với con người thời đại của Ngài khi thấy những tai họa xảy tới cho người thời đó. Những thiên tai hay tai họa cũng có thể là những sứ điệp Thiên Chúa gởi tới cho con người. Đừng tưởng rằng những người bị tai họa vì họ tội lỗi hơn người đang sống không bị tai họa, “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Đức Giêsu khi khởi đầu sứ mạng, Ngài đã loan báo: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc.1, 14). Sám hối là điều rất cần thiết, nên Đức Giêsu đã lập đi lập lại nhiều lần.

 

Sám hối, là thái độ trở lại với Thiên Chúa và với con người khi đã nhận biết sự thật về chính mình, khi thấy mình đã không đi đúng đường, khi nhận ra mình đã lỗi lầm phạm tội. Tôi là ai, tôi đã làm gì, tôi có sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa đối với tôi không, tôi có cố gắng vươn lên thành người thành toàn như Thiên Chúa muốn không, hay tôi đã xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa? Không có sự nhận thức đúng đắn về chính mình, không thể có sám hối thật sự.

 

Tôi có biết Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng không? Tôi có đáp trả tình yêu của Ngài không? Tình yêu đáp trả tình yêu. Nếu tôi không đáp trả tình yêu của Ngài, tôi đáng tội chết! Tuy nhiên Thiên Chúa không xử tôi chết, nhưng nếu tôi không ở trong tình yêu của Ngài, tôi sẽ chết khô như cây mà rễ nó không hút nước và chất bổ dưỡng để nuôi cây. Tôi không tựa vào Thiên Chúa và không ở trong Ngài thì tôi tự hủy hoại tôi, tôi không thể sống hạnh phúc được.

 

Tôi có cố gắng phát triển tài năng và trưởng thành đến độ như Thiên Chúa ao ước về tôi không? Thiên Chúa kỳ vọng nơi tôi, tôi có làm Ngài thất vọng không? Tôi có sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tôi có tin rằng Ngài thương tôi, và sẵn sàng làm tất cả cho tôi không? Nén vàng nén bạc tài năng Thiên Chúa ban, tôi có sinh lợi không? Thiên Chúa đã gọi Môsê và đã chờ đợi ông đáp trả, chắc chắn Thiên Chúa cũng có chương trình về tôi, Ngài cũng kỳ vọng nơi tôi, và Ngài mong ước tôi sẽ đáp trả chương trình của Ngài có nơi tôi. Tôi có phát triển con người của tôi, để có thể thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao cho tôi không?

 

Thái độ của tôi như thế nào đối với bạc tiền danh vọng tình duyên? Người đời cho rằng tiền bạc giải quyết tất cả, “có tiền mua tiên cũng được”, và người ta tìm mọi cách để kiếm cho được thật nhiều tiền, ngay cả đến độ xúc phạm con người, bỏ cả người thân là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Tiền bạc chi phối tất cả đời sống của những người này, đóng lòng họ, ngăn cản họ đến với người khác. Tôi có cách cư xử giống như những người đó không? Thiên Chúa và tha nhân có chỗ đứng nào nơi tôi? Thiên Chúa có chỗ đứng tuyệt đối nơi đời sống và chọn lựa của tôi không?

 

Thiên Chúa vẫn đang chờ mong tôi trở lại với Ngài, như người cha tựa cửa mong người con hoang trở về, Thiên Chúa cũng đang chờ đợi tôi sám hối quay về với Ngài. Ngài vẫn đang ban Thánh Thần cho tôi, vẫn đang thúc giục tôi trở về với Ngài. Hãy trở về với Thiên Chúa, để được hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Xin Thiên Chúa giúp con trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo bạn, ơn gọi là gì? Ơn gọi của Môsê là gì? Ơn gọi của bạn là gì?
  2. Như thế nào là người trưởng thành? Đâu là những khía cạnh mà con người cần lưu ý để trở thành người phát triển toàn diện?

6. Ai là tốt, ai là xấu?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Đoạn Tin Mừng đề cập tới hai ‘tai nạn’ rất thời sự nhưng chỉ mang tính tượng trưng: một hoàn toàn ngẫu nhiên là ngọn tháp đổ, và một vì chủ đích chính trị là cuộc tàn sát trong đền thờ; những biến cố tương tự như thế sẽ xảy ra hàng ngày như cơm bữa trong đời sống bất cứ ai. Thế nhưng nhiều người lại thích đặt điều: tại sao người này bị, kẻ khác lại không? Phải chăng vì người này tội lỗi còn kẻ kia tốt lành, người này xui xẻo còn kẻ kia may mắn…? âu đó cũng là thái độ rất thường tình của nhân tình thế thái qua mọi thời đại.

 

Thế còn thái độ của Kitô hữu sống theo tinh thần Tin Mừng thì sao; họ có lối suy nghĩ nào khác không nhỉ? Đức Giêsu cho thấy là các môn đệ Người phải nghĩ khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu”.

 

Người tốt / kẻ xấu, đó là phân biệt thường tình, nhưng liệt kê xếp loại người ta vào thứ hạng nào thì lại là điều cấm kị đối với Kitô hữu, nhất là khi chỉ dựa trên những sự kiện xảy ra được người đời coi là ‘quả báo’! Đức Giêsu đã chẳng thẳng thừng ngăn chận lối suy nghĩ này: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét” (Mt 7:1-5); tại sao thế?

 

Thường thì trong cuộc sống, ‘quả báo’ được coi là một định luật hiển nhiên: ác giả thì ác báo, ở hiền thì gặp lành. Và luật quả báo chứa đựng một sức mạnh vạn năng trong lãnh vực luân lý: nó buộc người ta phải làm lành lánh dữ. Khó có thể tưởng tượng nổi: nếu không có quả báo thì làm sao có thể duy trì được nền luân lý cao đẹp trên thế giới này, và bảo đảm được trật tự xã hội…? Và thế là người ta có khuynh hướng giải thích nguyên nhân mọi biến cố xảy ra chung quanh theo định luật quả báo. Cứ xem những gì xảy ra cho một người là biết được người đó tốt hay xấu: ‘nếu người không phạt thì đã có trời phạt…’! Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước cho thấy: dứt ra khỏi lối suy nghĩ cố hữu này không phải là chuyện đơn giản.

 

Đức Giêsu cho biết một điều căn bản: nếu so sánh con người với nhau trước các lề luật, thì tất nhiên có người tốt kẻ xấu; nhưng đứng trước mặt Thiên Chúa tình yêu, thì mọi người không trừ một ai, đều cần tới ơn cứu độ và lòng xót thương. Các tai họa, rất thường xảy ra quanh ta hay trực tiếp liên quan đến ta, chính là dịp đưa ta đến gần với lòng trắc ẩn xót thương các nạn nhận, sẽ luôn là dịp để một tín hữu giáp mặt với Thiên Chúa, và rộng mở cõi lòng đón nhận lòng thương xót của Người. Việc sám hối mà Đức Giêsu kêu gọi, không chỉ mang tính luân lý là phải cải tà qui chính, mà trước hết là trở về với Thiên Chúa, với nguồn mạch của lòng thương xót và nhân ái. Chính vì thế mà mỗi tai họa lớn nhỏ xảy ra trong đời, đối với mọi tín hữu của Đức Kitô, đều phải trở thành một lời mời gọi để sám hối và trở về với lòng xót thương thần linh.

 

Về phía con người, sẽ không bao giờ có ai xứng đáng với lòng thương xót đó. Nó luôn luôn được trao ban cách nhưng không, qua một trung gian duy nhất là Đức Kitô Giêsu. Không có lòng thương xót đó, con người, dầu có lương thiện tốt lành tới mấy đi chăng nữa, thì cũng tựa như cây cối tốt tươi, cành lá xum xuê trồng trong vườn mà chủ vườn là Thiên Chúa không tìm thấy trái ăn. Người làm vườn (là Đức Kitô Giêsu) can thiệp để được tiếp tục tưới bón bằng sự tự hiến cứu chuộc của Người. Kitô hữu là những cây vả đã được Kitô Giêsu tưới bón bằng ơn cứu chuộc của Người, không phải chỉ để tiếp tục tốt tươi xum xuê với sự tốt lành thánh thiện của mình, nhưng là để có được trái ngon ngọt của nhận biết và sống tình Chúa yêu thương. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và là Đấng giầu lòng từ bi và hay thương xót, thì Ông Chủ này cũng chỉ mong tìm thấy nơi các Kitô hữu một nhìn nhận Người là như thế, chấp nhận Người, và tiếp thu lòng xót thương vô biên; đồng thời tìm cách biểu lộ lòng thương xót đó trong cuộc sống hàng ngày. Mùa chay chính là thời gian tưới bón, “vun xới và bón phân cho nó”, là thời gian hướng cặp mắt các tín hữu tới Thập Giá Đức Kitô Giêsu, biểu hiện vĩ đại nhất của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ, để mong “sang năm nó có trái”. Như thế Mùa Chay mới quả thực là thời gian đâm bông kết trái cho đời sống đức tin của người tín hữu, là thời gian của hồng ân sự sống đích thực.

 

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã lại cho con được hưởng một Mùa Chay thánh nữa, đã lại cho con được ‘vun xới và tưới bón’ bằng hồng ân cứu độ. Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Kitô Giêsu, Cứu Chúa của con. Con ước mong rằng, qua Mùa Chay thánh năm nay (cũng rất có thể là mùa cuối cùng của đời con?), Chúa sẽ tìm thấy được nơi niềm tin của con, trái thơm ngon mà Chúa hằng mong đợi. Xin cho con nhận biết và được biến đổi trong tình thương xót hải hà của Chúa. Amen.

7. Sám hối và canh tân – Lm. GB. Trần Văn Hào

Ý thức về tội lỗi

Con người chúng ta ai cũng có tội. Nhưng nhắc đến những tội đã phạm, ai ai cũng khó chịu, thà đừng nói tới thì hơn. Khi bị người khác bới lại những vết đen trong quá khứ, chúng ta cảm thấy nhức nhối, đôi khi còn muốn lồng lộn lên để phản kháng, mặc dầu có những chứng cớ sờ sờ trước mắt.

 

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa không muốn để chúng ta an phận cách giả tạo. Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi có tội, nhưng các tội tôi phạm chẳng đến nỗi nào, vì thiếu gì những người tội lỗi còn nhiều hơn tôi gấp bội. Đây là một tâm lý bình an giả hiệu, tự ru ngủ mình trong một pháo đài ngụy tạo để cố thủ và chẳng thích người khác bới móc cuộc sống tư riêng nơi mình. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhân cái chết của những người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, và Chúa còn mượn cả tiếng thét gào ai oán của những thường dân vô tội bị Philatô sát hại để cảnh tỉnh chúng ta. Sứ điệp mà Đức Giêsu công bố rất nghiêm khắc và mạnh mẽ: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).

 

Sự an phận giả tạo

Triết gia Lavator đã nói: “Trong các sinh vật trên mặt đất, khuôn mặt đẹp đẽ nhất chính là nét mặt con người. Nhưng khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng chính là bộ mặt nơi mỗi người chúng ta”. Con người vốn rất xinh đẹp vì được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ, nhưng chân dung thánh thiện tuyệt vời ấy lại bị méo mó và hoen ố do tội lỗi gây ra. Ý niệm về tội đang bị con người ngày hôm nay dần dần đào thải. Là những Kitô hữu, chúng ta rất dễ rơi vào thái độ an phận một cách giả tạo và tưởng rằng dù tôi có tội nhưng chẳng đến mức bị Thiên Chúa đầy xuống hỏa ngục đâu. Vả lại, chúng ta được nghe nói rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại quá độc ác và tàn nhẫn trừng phạt chúng ta. Quả thật, lòng thương xót của Chúa thì vô bờ, nhưng khi con người cố chấp và không mở lòng đón nhận sự tha thứ, thì Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng Chúa muốn cứu rỗi con, lại cần có con cộng tác”. Nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với Thiên Chúa là chúng ta đóng khép lòng mình lại, và chối từ lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi tội lỗi đều được tha thứ, nhưng tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được tha” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần chính là sự cố chấp và chai lỳ trong tội lỗi và đó là tình trạng sống an phận cách giả tạo. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dùng tiếng thét ai oán của những người lâm nạn để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Ngài còn dùng cả tiếng búa rìu chát chúa chặt vào gốc cây để lay động lương tâm mỗi người. Đừng bao giờ ngủ quên trên sự an phận giả dối nơi lòng mình.

 

Thinh lặng để lục soát lương tâm

Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con”. Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con”. Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình. Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân. Chúng ta không thể nào lục soát lương tâm cách thấu đáo, nếu tâm hồn chúng ta bị nhiễu sóng bởi những tiếng đông ồn ào bên ngoài. Đó là những tiếng xào xạc của tiền bạc. Đó cũng là những cuốn hút ầm ĩ của một lối sống hưởng thụ, khiến đôi tai nơi cõi lòng của chúng ta bị bịt kín, không thể nghe được tiếng nói của Chúa đang ngỏ trao. Khi tâm hồn chúng ta đầy những chộn rộn và vướng bận của cơm áo gạo tiền, hoặc đầy ắp nhưng so đo tính toán để lo làm giầu, chúng ta không thể nào nhìn rõ được chính mình.

 

Sám hối và canh tân

Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách. Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng”. Cha xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì. Anh nói tiếp:“Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi”. Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.

 

Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.

Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.

 

Kết luận

Trong năm thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta bày tỏ sự tín thác tuyệt đối nơi Ngài. Chúng ta hãy học lấy thái độ của người đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyên thánh khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đó là một tên trộm, suốt cả một đời ngập đầy tội ác. Người trộm này đã nhận ra lầm lỗi của mình khi anh ta thốt lên: “Phần chúng ta bị như thế này thật thích đáng”, và anh ta đã đăm đăm nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Vâng, khởi đầu của việc nên thánh là khi chúng ta biết nhận ra những vết đen trong quá khứ và đặt niềm tin tuyệt đối vào lòng Thương xót của Đấng đã chết vì chúng ta.

8. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi. Thầy chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải quét lớp.

Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công dụng của viên gạch.

Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được dùng để xây nhà –  lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa – chận bánh xe  – chặn giấy –  kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại) –  làm gối kê đầu khi dã ngoại – giã lương thực (giã gạo) thay cho chày – dùng thay búa để đập – tự vệ trước đối thủ – tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt – vân vân…

Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể mang lại nhiều công dụng như thế.

Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây xương rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một đến hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.

Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng làm hàng rào bảo vệ nương rẫy – thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho cháy xém) – che chắn gió – phủ xanh đồi trọc – chống xói mòn – cung cấp trái cho chim chóc –  ủ làm phân xanh, vân vân…

Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng là vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như thế.

Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho biết lợi ích mà những kẻ lười biếng chẳng làm việc gì, có thể mang lại cho xã hội.

Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu tư lự, một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà không ai tìm được bất kỳ một cống hiến nào của nhóm người nầy cho nhân quần xã hội.

 

Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một cây vả vô tích sự, chẳng mang lại lợi ích gì, còn thua cả viên gạch hay cây bàn chải trong câu chuyện trên đây. Người nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)

 

Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy sám hối và một trong những lý do khiến người ta phải sám hối là vì đã không dùng thời giờ và năng lực Chúa ban để sinh nhiều “hoa trái” vật chất hay tinh thần.

 

Trổ sinh những loại hoa trái nào đây?

Mỗi người chúng ta là một thứ cây rất quý được Thiên Chúa đem trồng trong vườn nho của Chúa.

Mỗi con người là một tạo vật rất tuyệt vời do Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người và được Thiên Chúa bồi bổ cho bằng Lời hằng sống và bằng vô vàn ân huệ cao quý. Thế nên, nếu chúng ta không trổ sinh được hoa trái thì, theo lời Chúa nói, đáng bị hủy diệt.

 

Nâng cao phẩm chất của mình, làm gương sáng, làm tròn bổn phận đối với Chúa, đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em trong gia đình, tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng, chăm lo phục vụ những người gặp khó khăn, bệnh tật, túng thiếu… đang sống chung quanh ta là những hoa trái tốt lành mà mọi người có thể cống hiến cho Chúa và cho đời. Trái lại, nếu ta không cống hiến được gì cho Thiên Chúa và xã hội, thì thực đáng buồn và có thể phải chung số phận với cây vả không trái trên đây.

 

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha ban cho chúng con thêm một cơ hội chót để hoặc là trổ sinh hoa trái tốt lành hay là chết.

 

Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con tăng thêm giá trị và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.

9. Hãy sinh hoa trái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống con người luôn có những hối tiếc do lầm lần của quá khứ. Hối tiếc vì mình đã sống như thế! Hối tiếc vì việc tốt mà mình đã bỏ qua. Hối tiếc vì việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Và dường như, ai trong chúng ta cũng từng hối tiếc về một việc làm nào đó.

 

Nhà Bác học Einstein, “cha đẻ của nguyên tử lực”, là một người Đức gốc Dothái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hittle. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941, bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà khoa học.”

 

Đôi khi nhìn lại mình, chúng ta vẫn thấy mình là tội nhân. Có biết bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim bao người. Có biết bao lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho nhân thế. Có rất nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc như Einstein: Nếu có thể làm lại, chúng ta sẽ không làm như thế!

 

Người Việt Nam có câu “ai nên khôn mà không dại một lần”. Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua những cám dỗ trong cuộc đời.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?

 

Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự huỷ diệt mình. Cây có sinh trái, trái mới cho hạt, và hạt mới nẩy mần, phát triển thành cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền luỵ đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc, vậy hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, vậy hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy.”

 

Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù sẽ tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.

 

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê, ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.

10. Dấu chỉ thời đại.

Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới những phương tiện hiện đại để biết được thời tiết, trái lại, họ chỉ dựa vào những hiện tượng trong thiên nhiên, mà cũng biết được nắng mưa, như tục ngữ đã diễn tả:

– Gió đàng nam vừa làm vừa chơi.

Đôi khi chỉ việc quan sát những phản ứng của thú vật, họ cũng biết được thời tiết. Chẳng hạn:

– Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,

Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.

 

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta hãy nhìn vào những sự kiện, những biến cố xảy ra chung quanh, để nhờ đó mà biết được thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra hai trường hợp điển hình.

 

Trường hợp thứ nhất đó là những người Galilêa bị Philatô giết và trường hợp thứ hai đó là mười tám người khác bị tháp Silôê đổ xuống đè chết. Dân Do Thái thì cho rằng sở dĩ những người bị chết là những kẻ tội lỗi cho nên bị Chúa trừng phạt.

 

Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài coi những biến cố đau thương và đẫm máu ấy là như một tiếng chuông cảnh tỉnh được gởi đến với họ, để họ ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời và quay trở về cùng Chúa, nếu không thì họ cũng sẽ phải chết một cách thảm khốc như vậy.

 

Còn với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Hằng ngày qua báo chí, truyền thanh và truyền hình, chúng ta đón nhận biết bao nhiêu sự kiện, biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra khắp nơi trên trái đất. Chỗ này có những người chết vì bom đạn chiến tranh, chỗ kia có những người chết vì thiên tai bão lụt, động đất và sóng thần. Nơi khác lại có những người chết vì bệnh tật và nghèo đói.

Trước những biến cố đau thương ấy, nhiều lúc chúng ta cũng đã có một thái độ lạnh lùng và nghiêm khắc như người Do Thái: Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi. Thế rồi chúng ta yên tâm với cung cách mũ ni che tai, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Trong khi đó, Chúa đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ tích cực, đó là phải biết tìm hiểu thánh ý Ngài được gói ghém qua những biến cố, qua những sự kiện ấy.

 

Cũng như nơi dân Do Thái, những biến cố, những sự kiện ấy là như những tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến để kéo chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và tội lỗi. Vấn đề được đặt ra đó là Chúa muốn nói gì với tôi qua những sự việc, qua những biến cố ấy? Rồi từ đó, tôi sẽ phải uốn nắn, sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, để cuộc đời tôi sẽ đem lại những hoa trái, và những hoa trái ấy luôn làm cho Chúa được hài lòng.

11. Hại đất

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Điều làm chúng ta khó sám hối đó là cảm thấy mình ở trong tình trạng an toàn. Đức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi tính thời sự, một do sự tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động. Cả hai đều dẫn đến cái chết thảm khốc: những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Đền Thờ, mười tám người chết vì bị tháp Silôa đè bẹp. Vào thời Đức Giêsu, họ bị coi là kẻ có tội, bị Chúa phạt. Những người khác dễ nghĩ mình vô tội, vì còn được bình yên. Điều này đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.

 

“Đừng tưởng…”: Đức Giêsu đưa ta ra khỏi ảo tưởng về mình. Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội hơn ai. Lúc còn được sống yên lành là lúc cần hoán cải. Có thể đây là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.

 

Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn. Nó không cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan. Nó chỉ phạm một tội thôi: tội làm hại đất, tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh trái. Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây vả cằn cỗi. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai, nhưng lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Có bao nén bạc Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18), bao người túng thiếu mà ta không giúp đỡ (Mt 25,42).

 

Khi không làm điều tốt cho đời, cho người, ta tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành. Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội, mà còn là tích cực gieo rắc phát huy cái tốt. Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng. Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân biết bao! Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Đã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.

 

Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh: “Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Nhưng đừng quên lời đe doạ cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”.

 

Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi: đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Đức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn. Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị của Chúa, là đừng để thui chột những ơn lành Ngài ban. Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội, mà còn thú cả sự cằn cỗi, ì ạch của mình. Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn và ngọt hơn.

 

Gợi Ý Chia Sẻ

  • Tội thiếu sót việc bổn phận, tội sống vô trách nhiệm, tội không làm điều lẽ ra phải làm: có khi nào bạn phạm những tội này không? Bạn có thấy xã hội xấu đi vì nhiều người thản nhiên phạm thứ tội này không?
  • Bạn nghĩ gì về cây vả của đời bạn? Tình trạng này hiện nay của nó ra sao? Làm sao để có thêm nhiều trái ngọt?

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.

 

Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con.

Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.

Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.

 

Lạy Chúa Giêsu,

Xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.

Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.

 

Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.

12. Cái nhìn nội tâm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.

 

Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.

 

Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.

 

Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.

 

Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.

 

Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.

 

Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
  2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
  3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?

13. Ăn năn sám hối – R. Veritas

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Khi một người có vẻ gian ác gặp tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn thường đưa ra nhận xét: ác giả ác báo, đúng là hắn bị trời phạt. Đây là cách suy nghĩ thông thường của người đời. Cách đây đã hơn hai ngàn năm, những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng suy nghĩ cách thường tình như thế khi họ đến kể cho Người nghe câu chuyện của người Galiê đang dâng lễ vật thì bị quan Philatô giết chết. Khi kể câu chuyện này, họ ngầm ý nói rằng những người Galiê đó chắc phải ăn ở thất đức mới bị giết đang khi dâng lễ như vậy. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu sửa sai cách suy nghĩ thông thường đó và kêu gọi dân chúng sám hối để thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

 

Khi nghe thuật lại biến cố tàn sát những người Galiê tại nơi tế đàn, Chúa Giêsu không đồng tình với các suy nghĩ thông thường của những người kể chuyện. Người đưa ra một cái nhìn mới, trong đó điểm quan trọng là mỗi người hãy tự xét lấy cách ăn thói ở của mình thay vì xét đoán cách ăn thói ở và số phận của kẻ khác.

 

Phê bình, xét đoán người khác là một việc làm thường gây thích thú cho chúng ta, bởi chúng tạo cho chúng ta cảm giác mình là người tốt, hoặc ít nữa, cũng không phải là người tồi tệ, đốn mạt. Người xưa có khuyên kẻ quân tử hãy tự kiểm mỗi ngày ba lần để sửa mình. Trong dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu cũng không ngừng nhắc nhở dân chúng sám hối. Người đưa ra hình ảnh cây vả trồng trong vườn nho là hình ảnh rất quen thuộc trong Kinh Thánh khi nói về người Israel và dân Israel. Cây vả ở đây là một cây vả đã ba năm rồi mà không hề sinh hoa kết quả. Ba năm Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân chúng, thế mà có mấy ai thu lượm được hoa trái. Đúng ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên những con người ù lì ương ngạnh kia như lời Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha nhân ái và giàu lòng thương xót, Người vẫn độ lượng và gia hạn cho họ thêm một thời gian để ăn năn hoán cải. Vì yêu thương, Người đã dằn cơn giận và cho họ thêm một cơ hội nữa: Hãy sám hối khi vẫn còn thời cơ. Chúng ta thường mải miết lo toan cho cuộc sống vật chất mà lơ là với cuộc sống tâm linh, đã biết bao năm rồi, chúng ta như cây vả được trồng trong vườn nho của Thiên Chúa, chúng ta đã mọc lên ra sao, chúng ta xanh tươi cành lá hay chúng ta quắt queo cằn cỗi, chúng ta đâm bông kết trái hay chẳng có quả nào, chúng ta có tìm hiểu tại sao mình ở trong tình trạng hiện nay hay không, chúng ta có kế hoạch cụ thể nào để phát huy những điểm tốt và khắc phục những điểm xấu của mình hay chưa, ngày hôm nay của chúng ta có khác hơn ngày hôm qua không, chúng ta có quyết tâm làm cho ngày mai của chúng ta khá hơn ngày hôm nay hay không?

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói rằng: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được”. Xin cho con luôn kết hiệp chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của đời mình để cuộc sống của con được sinh nhiều hoa trái tốt lành làm tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em.

14. Cơ hội cuối cùng – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm gì trong năm cuối cùng đó của cuộc đời? Bạn sẽ tự nhủ: “Ồ, ta cứ sống đi đã. Lúc nào chết tính sau”, hay bạn sẽ tính toán: “Dẫu sao thì cũng còn 365 ngày nữa. Tới ngày thứ 300, ta bắt đầu chuẩn bị cũng còn kịp chán.”

 

Nếu đó là thái độ sống của bạn thì e rằng bạn đang sa lưới của Satan rồi. Một tinh thần lề mề và một thái độ trì hoãn sẽ mang lại biết bao tai hoạ. Để đến ngày mai những gì nên làm hôm nay là tự đánh mất tương lai của chính mình. Không có cám dỗ nào nguy hiểm cho bằng tư tưởng: “đời còn dài, ngày mai còn kịp”.

 

Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.

Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.” Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”

Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”

Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng vạn linh hồn.”

 

Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.

 

Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh Anphongsô).

 

Vị tông đồ dân ngoại từng nhắc nhở các cộng đoàn tiên khởi: “Khi người ta nói: Bình an và chắc chắn! Thì bấy giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập xuống trên họ” (1 Tx 5:3). Thế nên hãy biết tỉnh thức, sám hối, và canh tân. Chính Chúa Giêsu cũng đã phán: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13:3).

 

Sám hối không chỉ là công việc dừng chân trên con đường tội lỗi, nhưng còn là một ý thức về thời điểm hồng ân: “đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Sám hối là nhận rõ thời điểm của yêu thương tràn đầy. Tình thương dạt dào đến nỗi Thiên Chúa còn tạo thêm cơ hội và kiên nhẫn đợi chờ: “Xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng” (Lc 13-8-9a).

 

Có cảm nhận được tình Chúa yêu thương và nỗi mong chờ tha thiết của Ngài, con người sẽ có một cuộc sám hối đích thực. Sám hối là trở về trong yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến và vị tha. Cảm nhận được tình yêu như thế sẽ làm phát sinh hoa trái là bao việc lành phúc đức.

 

“Dụ Ngôn Cây Vả” không những lên án thứ cây “ăn hại và làm choáng đất”, nhưng còn nói rõ yếu tố kết thành bản án. Đó là thứ cây “không sinh trái”. Thế nên sám hối không chỉ là việc thôi không phạm tội nữa, song còn là việc tô điểm tâm hồn bằng những hoa trái thiêng liêng. Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả trơn tru, không gai góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả nơi cành của nó.

 

“Xin để một năm nay nữa. Bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”. Thiên Chúa luôn cho tôi cơ hội làm lại cuộc đời. Ngài luôn mở lòng yêu thương mời gọi những ai sa ngã chỗi dậy. Thế nhưng cơ hội thì có hạn. Sẽ đến ngày chỉ còn một cơ hội cuối cùng. Nếu đời tôi còn một năm, hay một tháng, hoặc một ngày nữa thôi thì sao. Thật bất hạnh vô cùng khi tôi đánh mất cơ hội cuối cùng đó.

 

Vì không biết đâu là cơ hội cuối, nên tôi phải xem ngày hôm nay như là “lúc thuận tiện” để nhận ơn cứu độ đời mình. Nếu ngày mai Chúa còn cho sống, thì ngày mai vẫn là một cơ hội không nên đánh mất.

 

Thông thường, mỗi tối trước khi lên giường nghỉ đêm, chúng tôi hay đọc Kinh “Cầu Ơn Chết Lành”, xin được ghi lại dưới đây như một chia sẻ chân thành: “Lạy Chúa con, con biết thật con sẽ chết. Có khi con chỉ còn sống được ít phút nữa mà thôi. Có khi đêm nay con vào giường nghỉ mà sáng mai chẳng còn chỗi dậy nữa. Cho nên Chúa dặn bảo con: dọn mình vào giường ngủ như là vào mồ chết vậy.

Lạy Chúa con, con biết thật đến giờ lâm chung, con sẽ ước ao chớ gì khi sống, con chẳng có phạm tội, lại hết lòng kính mến Chúa luôn. Lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Con ước ao sống và chết trong sự kính sợ Chúa. Ôi Chúa con, con xin phó dâng linh hồn con cho Chúa, vì Chúa đã mua nó giá rất cao. Xin chớ để nó ra vô phước mà chẳng nhờ đặng Máu Thánh Chúa đã đổ ra mà cứu chuộc nó.

 

Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lạy Thánh Thiên thần hộ thủ. Lạy Thánh Bổn mạng con. Lạy các Thánh Nam Nữ trên Nước Thiên đàng. Xin hãy chuyển cầu cho con được sống trong sự kính sợ Chúa, chết trong sự yêu mến Chúa, và làm tôi Chúa ở đời này, hầu ngày sau được hưởng cùng Chúa và Đức Mẹ trên Thiên đàng. Amen.

 

Giêsu, Maria, Giuse. Con xin dâng lòng con, trí khôn con, và sự sống con trong tay ba Đấng.

Giêsu, Maria, Giuse. Xin cho con được chết bằng an trong tay ba Đấng.”

 

Thiết tưởng, nếu mỗi tối, khi màn đêm buông xuống, trong không gian tĩnh mịch, với tâm tình cầu nguyện chân thành như trên, đời ta sẽ không thể không sinh hoa trái yêu thương. Và đương nhiên, hoa trái đó sẽ tồn tại cho đến muôn đời.

15. Hoán cải tâm hồn.

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn tu đang sống.

Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui vĩnh cửu.

Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải. Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật. Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.

 

Hoán cải tâm lòng để gặp gỡ Thiên Chúa, được hạnh phúc đích thực và được ơn cứu độ. Đó cũng là lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta trong Chúa nhật hôm nay, là thời gian Giáo Hội khuyến khích chúng ta tìm thời gian gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.

 

Trong Phúc Âm của thánh Luca hôm nay ghi lại một vài biến cố thời sự Chúa Giêsu dạy các môn đệ và dân chúng biết học hỏi ý nghĩa các dấu chỉ của một biến cố trong đời, các tai ương như quan Philatô sát hại người Do Thái và biến cố tháp Siloe sập đè chết nhiều người, vì có các lý do nội tại và ngoại tại của chúng nó. Có gì lạ khi tháp xây lâu ngày nứt nẻ, đến nổi không còn đứng vững được nữa sập đè chết người. Có gì lạ khi một chính quyền đô hộ nghi ngờ mọi cuộc hội họp là mưu toan chống đối phản loạn, và ra lệnh giết mà không cần biết thực hư ra sao. Tháp sập theo luật vật lý, người ta hội họp bị sát hại vì đường lối và chính trị của con người tàn ác. Các nạn nhân là những người chẳng may gặp những hoàn cảnh đó, chớ không phải vì họ bị tháp đè chết hay bị sát hại, mà có thể giải thích hay kết luận là họ tội lỗi hơn những người khác nên Chúa phạt. Hay nói cách khác, không phải vì người gian ác tội lỗi không gặp các tai ương mà có thể kết luận họ là những người thánh thiện.

 

Các tai ương, các biến cố khổ đau, tội lỗi và bất công đó sẽ trở thành dấu chỉ. Đó là sấm sét báo động kêu mời mỗi con người hoán cải tâm lòng, thay đổi cuộc sống và canh tân phù hợp với cuộc sống tốt lành thánh thiện hơn, để đừng gây ra chết chóc và khổ đau cho người khác, để khỏi phải chết đời này và nhất là khỏi phải chết đời sau.

 

Kêu gọi loài người trở lại sống với Chúa, bởi vì ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Mỗi người sẽ gặp những gì mình đã gieo vào trong cuộc đời trên trần gian. Chính con người tự phạt mình qua kiểu cách sống tội lỗi gian tham đó. Vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, điều duy nhất Thiên Chúa muốn là họ hoán cải tâm lòng để hình ảnh Ngài trở nên trong sáng tinh tuyền. Đó là cuộc giải phóng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa không ngừng tiếp tục trong lịch sử loài người. Cuộc giải phóng con người khỏi kiếp sống nô lệ tội lỗi, sự dữ và cái chết. Cuộc giải phóng đó là một cuộc giải phóng cụ thể toàn diện, liên hệ đến mọi bình diện cuộc sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo.

 

Để thực hiện nó, Thiên Chúa luôn luôn định mức trước và từ đó hiện ra cho con người như được kể trong sách Xuất Hành. Tường thuật của gặp gỡ giữa Môisê với Thiên Chúa trong sa mạc là một bằng chứng. Đối với các dân tộc Trung Đông, tên gọi của một người diễn tả bản chất của người đó. Giavê, tên của Thiên Chúa xuất phát từ động từ Hawah trong tiếng Do Thái, trong nghĩa thụ động nó diễn tả “sự hiện hữu”, nhưng trong nghĩa chủ động, nó có nghĩa “trở thành, xảy ra, hoạt động dấn thân, can thiệp vào hay sống với”.

 

Tên gọi mà Thiên Chúa mạc khải cho Môisê đây, chứa đựng một Tin Mừng vĩ đại. Thiên Chúa là Đấng sống với con người, luôn luôn hiện diện bên con người, luôn luôn dấn thân hoạt động và ra tay can thiệp để trợ giúp, giải thoát và cứu vớt con người. Cho dầu có sự việc gì xảy ra đi nữa, Thiên Chúa là Đấng giải thoát Israel, muốn và sẽ cứu độ loại người.

 

Tên gọi Thiên Chúa: “Lửa, khói, bão táp, v.v…” một thứ ngôn ngữ, kiểu cách mà Cựu Tân Ước quen dùng để diễn tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Cũng thế “bàn tay, cánh tay phải, v.v…” diễn tả sự chở che bênh đỡ của Ngài, đối với những người bé mọn, yếu đuối.

 

Đứng trước Giavê Thiên Chúa, Đấng hằng giải phóng và cứu độ con người, thái độ đúng đắn duy nhất mà tín hữu phải có là thái độ ký thác trọn vẹn. Mọi nghi ngờ, mọi than trách lẩm bẩm, phản kháng và chống đối, không diễn tả bươc tiến của niềm tin trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Và thường khi, đó là thái độ của những người không có lòng tin.

 

Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 10, thánh Phaolô nhắn nhủ mọi người đừng lặp lại tội lỗi của cha ông họ ngày xưa đã từng lẩm bẩm than trách Thiên Chúa, vì không có khả năng nhận ra sự hiện diện giấu ẩn, nhưng sống động quyền năng và hữu hiệu của Ngài trong cuộc đời họ và trong lòng lịch sử thế gian.

16. Lời mời gọi sám hối.

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.

 

Thiên Chúa giải phóng dân Người

Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.

 

Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.

 

Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người

Người đời cho rằng những người bị tai họa là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.

 

Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.

 

Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.

 

Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc

Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.

 

Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.

 

Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
  2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
  3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?

17. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Suy niệm Lời Chúa’)

Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu. Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết trong sa mạc và không được vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương đó, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên Chúa đừng đổ vào vết xe cũ, đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư trên đây thật rõ ràng. Các tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc lãnh nhận phép Rửa tội và những việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được cứu rỗi, để rồi trở nên bất cẩn và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám dỗ của ma quỉ và những đam mê dục vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay, đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là người tội lỗi và luôn tỉnh thức để chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới của Chúa Kitô Phục sinh.

 

Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến vào tuần III của Mùa Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.

 

Là những người tự xưng là tín hữu Kitô, là những người tin, những người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, nhưng thành thật với lòng, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn yếu kém, cuộc sống đức tin của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ thể để nối dài đời sống của Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả trong vườn nho được đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong những phương pháp để củng cố đức tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn ngắm và dõi theo mẫu gương của những kẻ có đức tin vững mạnh.

 

Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc nhắc lại mẫu gương đức tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của ngài có thể gom lược vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi, Môisê thấy dấu lạ, ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài nghe tiếng Thiên Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than bên Ai Cập. Thấy bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn cho rõ và nghe tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả những giai đoạn xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững mạnh.

 

Những người như ông Môisê trước đó có tổ phụ Abraham và gần đây có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức Gioan XXIII, hay Mẹ Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi trường họ đang sống, có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một câu hỏi khó giải quyết, một vấn đề nóng bỏng.

 

Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.

Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.

Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.

Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên của thế kỷ XX.

Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.

 

Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.

 

Như ông Môisê họ đã tự nói với mình: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này” Để rồi sau đó, họ càng xác tín là những hoàn cảnh thương tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những tiếng kêu gào đòi phải có những biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Họ cảm nghiệm được mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh lệnh không cho phép họ chạy trốn trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã được vạch ra giữa những hoàn cảnh khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành động. Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.

 

Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ những hoàn cảnh, chạm trán với cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và nhiều người khác đã cảm thấy họ có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông và nhất là đầy lòng tin và can đảm, họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành trình, một cuộc hành trình không thiếu những khó khăn vất vả, và nguy hiểm. Nhưng càng tiến bước họ càng nghe rõ tiếng gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên Chúa không phải là Đấng ngự trên chín từng trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn quan tâm và thiết tha đến vận mạng của nhân loại và của từng cá nhân.

 

Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông Môisê: “Ta đã thấy dân chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than bởi kẻ bất công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng”. Và Thiên Chúa là Đấng đã quyết định giáng tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái và đưa chúng ra khỏi đất ấy, đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật ong.

 

Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống, chúng ta có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa cháy mà không thiêu hủy. Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những trạng huống kêu gào sự sửa đổi, những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn tay băng bó những vết thương, những vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia đình hay ngoài thôn xóm.

 

Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng ta không thể bưng tai giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có quyền chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người có đức tin vững mạnh khác để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu chung tay sửa đổi, chung sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ tình liên đới và rộng tay chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và ít ra là trao tặng cho những người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu nói khích lệ, một nụ cười thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng ta. Để đặc biệt làm trong Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi mới bộ mặt xã hội chúng ta đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn thống hối và trong trung tâm cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên câu châm ngôn: “Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc sống thay đổi chính mình”.

18. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình thương của Người.

 

Nơi bài đọc thứ nhất, những lời Chúa nói cùng Môisê chắc chắn vẫn còn vang dội đến ngày hôm nay: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Ta đã biết nỗi đau khổ của chúng và Ta đến cứu chúng”. Khoảng 3,000 năm trước, Thiên Chúa đã nói với Môisê những lời đó, thì ngày nay, chắc chắn cũng chính Thiên Chúa duy nhất không bao giờ thay đổi đó cũng thấy, cũng nghe, cũng biết những nỗi đau khổ của con người thời đại. Chúng ta đừng tìm đâu xa, hãy nhìn vào chính bản thân mình, gia đình mình, xung quanh mình thôi, chúng ta đã nhận thấy biết bao đau khổ. Khổ vật chất do túng thiếu, bệnh tật, bất công. Khổ tinh thần như buồn phiền, thương nhớ, sợ sệt, lo âu… Trước tất cả những nỗi thống khổ đó Chúa đã nói: “Ta đã thấy, đã nghe và đã biết và này Ta đến để cứu chúng”.

 

Trong lịch sử Chúa đã cứu dân Do Thái thế nào? Người không cứu họ như phù thủy quăng chiếc đũa thần trong nháy mắt biến buồn ra vui, đổi đau khổ thành hạnh phúc và con người mất cả tính người trở nên như một cái máy chỉ còn biết bị bắt buộc hướng về một chiều mà thôi. Không, Chúa đã cứu dân Người bằng một thời gian tôi luyện 40 năm trong sa mạc, trong cuộc hành trình về đất Hứa, đất tràn trề sửa và mật ong. Và để được cứu thoát, con người phải trung thành với Chúa, tin tưởng nơi Chúa. Dầu qua gian nan, qua thử thách, con người phải luôn nhớ như thánh vịnh 102 nhắc là: “Chúa là Đấng thương xót và nhân ái”. Hãy tin tưởng nơi Chúa và rồi chỉ khi nào nhìn lại, chúng ta mới cảm thấy thấm thía những lời của thánh vịnh trên. “Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và toàn thể thân tôi hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người”.

 

Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô áp dụng vào Tân Ước hình ảnh trong Cựu Ước. Môisê dắt dân Chúa qua biển Đỏ, nuôi dân chúng bằng Manna trong sa mạc, giải khát dân chúng bằng nước từ tảng đá chảy ra. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dắt chúng ta vào đời sống mới qua bí tích Thánh Tẩy, nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn cực thánh là Bí Tích Thánh Thể và uống nước từ tảng đá mà thánh Phaolô nói rõ, tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Và thánh nhân cũng nhắc nhở rằng cuộc thanh tẩy 40 năm ở Cựu Ước đã được ghi chép để răn bảo chúng ta, là những người đang sống trong thời đại cuối cùng đã được thanh tẩy tôi luyện, thì những ai bất xứng, những ai cố chấp chắc chắn là tự mình tạo lấy sự hủy diệt cho mình. Và chỉ những ai trung thành sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa mới được vào đất Hứa. Vì thế, kết luận bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở phải bền đổ đến cùng. Ngài nói rõ: “Ai tưởng mình đang đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã”.

 

Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái. Trước tiên, Người dạy chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.

 

Nghe qua dụ ngôn trong Phúc Âm về sự kiên nhẫn chờ đợi, mong mỏi những gì tốt đẹp xứng với sự chăm nom của chủ vườn, chúng ta hãy thấy được tình yêu thương, lòng nhân từ, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người và cố gắng trở về cùng Chúa nhất là trong Mùa Chay này. Vì “đây là lúc thuận tiện, đây là thời cứu độ”.

 

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi hãy đặt câu hỏi: Phải bắt đầu từ đâu để cải tạo thế giới? Và tôi sẽ nghe được tiếng trả lời: Hãy bắt đầu từ chính bản thân tôi. Cải tạo thế giới, công việc quá to lớn vĩ đại, nhưng mỗi người hãy bắt đầu từ bản thân mình và rồi thế giới sẽ tươi đẹp. Vậy tôi hãy cố gắng sửa chữa một nết xấu tôi biết là quan trọng của tôi trong Mùa Chay này và ngay ngày hôm nay. Xin Chúa nhận lấy lòng thành của tôi và giúp đỡ tôi.

19. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau: Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:

– Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?

Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?

Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:

– Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?

Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:

– Một ngàn đồng, và ai tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?

Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:

– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?

Lập tức có tiếng đáp lại:

– Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!

 

Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó; Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siluê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.

 

Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Itraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.

 

Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.

 

Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Giêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.

 

Chúng ta hãy cảm nhận tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy đế sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.

 

Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.

 

Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen.

20. Suy niệm của Radio Veritas Asia

ĐẤNG TỪ BI VÀ HAY THƯƠNG XÓT CHẬM BẤT BÌNH VÀ HẾT SỨC KHOAN NHÂN

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)

Trong cùng một thời gian, dân chúng tại Phi Luật Tân đã xúc động mãnh liệt vì hai vụ án:

– Vụ án thứ nhất diễn ra tại Phi Luật Tân. Một tòa án địa phương gần Manila đã tuyên án phạt bảy lần chung thân một viên thị trưởng và sáu đồng bọn vì tội hãm hiếp và giết người. Đa số người dân Phi đều biểu lộ sự hài lòng vì công lý đã được thực thi. Một số người khác thì lại tỏ ra bất mãn vì cho rằng hình phạt tương xứng với tội nhân này lẽ ra là phải tử hình.

– Vụ án thứ hai diễn ra tại Singapore. Một phụ nữ Phi Luật Tân vốn làm nghề “giúp việc nhà” tại Singapore đã bị toà án tại nước này xử tử hình vì tội giết người. Tối thứ Năm, tại Manila cũng như nhiều nơi khác tại Phi Luật Tân, nhiều tín hữu công giáo Phi đã canh thức suốt đêm để cầu nguyện cho việc thực hiện bản án được hoãn lại. Và vụ án cần phải được xét lại bởi vì theo nhiều người Phi, người phụ nữ này vô tội. Tuy nhiên, mặc cho phản đối của người dân Phi, và mặc cho lời cầu cứu của Tổng Thống Phi Luật Tân, sáng thứ Sáu, chính phủ Singapore đã ra lệnh treo cổ người phụ nữ Phi theo đúng qui định của hình luật nước này.

 

Phản ứng của người dân Phi Luật Tân qua hai vụ án trên đây xem ra cũng là phản ứng thông thường của con người. Dù bất cứ nơi nào và thời đại nào, có tội thì phải bị trừng trị và kẻ vô tội thì phải được giải oan. Thời Chúa Giêsu xem ra người Do Thái cũng có một quan niệm tương tự. Cho dẫu được lồng vào trong cái nhìn tôn giáo, khi tổng trấn Philatô ra lệnh hành quyết một số người Galilê nổi loạn, thì nhiều người Do Thái cho rằng những người này lãnh một hình phạt tương xứng với tội lỗi của họ. Họ là những con người có tội cho nên cần phải bị trừng trị. Số phận của 18 người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết cũng được nhiều phán quyết tương tự: họ bị Chúa trừng phạt vì họ là người tội lỗi.

 

Cùng với tự do hạnh phúc và những giá trị cơ bản khác, công lý là điều mà con người không ngừng khao khát và tìm kiếm. Tuy nhiên cái khái niệm công lý nơi con người thì hạn hẹp và sự thực thi công lý lại càng bất toàn hơn. Trong những chế độ độc tài, có biết bao nhiêu người bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, có biết bao nhiêu người chết rũ tù mà không hề được xét xử. Còn nay trong những chế độ thật sự có tự do, vẫn có biết bao nhiêu người bị hàm oan, còn bao nhiêu kẻ gian ác thì vẫn không hề sa lưới pháp luật. Nơi đây, người ta đòi lập bản án tử hình. Nơi kia người ta tranh đấu để bãi bỏ. Quả thật trên trần gian này khát vọng về công lý của con người không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Chính vì thế mà khi nhận định về số phận của những người bị Philatô sát hại, cũng như những nạn nhân của vụ tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã mời những người Do Thái của thời đại này hãy vượt qua cái quan niệm thông thường về công lý của con người: “mắt đền mắt, răng đền răng”, “có vay có trả”, “tôi cho bạn là để bạn cho tôi lại”. Đó là cái quan niệm thông thường của con người về công lý. Tuy nhiên, khi đưa ra thí dụ về cây vả, Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong một cái nhìn mới. Đó là cái nhìn của kiên nhẫn, của khoan dung và tha thứ. Đó là cách thế Thiên Chúa đối xử với con người. Theo công lý của loài người, thì cây vả không sinh trái phải bị chặt quăng đi tức khắc. Thế nhưng, cái nhìn của Thiên Chúa là cái nhìn của “Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” như chúng ta vừa đọc trong bài đáp ca.

 

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu luôn gắn liền với Tin Mừng của tình yêu, của sự tha thứ, của lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa. Sám hối không chỉ là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà thiết yếu là tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và tin vào tình yêu của Thiên Chúa, đây cũng chính là chìa khóa của sự hài hòa trong cuộc sống xã hội.

 

Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: “Con người bất nhân đó chính là ông”. Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là “mắt đền mắt, răng đền răng” nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.

 

Thánh lễ chính là sự thể hiện của ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta đến đây để đón nhận ơn tha thứ một cách nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi để thể hiện sự tha thứ một cách nhưng không. Chỉ có điều kiện đó, chúng ta mới xứng đáng cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” trước khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô.

21. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio Trần Ngà

Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn thất vọng và muốn chặt bỏ đi, vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển hình sau đây:

 

Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở thành phố. Cha mẹ ở miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm cổ làm việc hùng hục như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất cả cho con học hành với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn việc làm, có đồng lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.

Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ đầu tư cho mình để học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng điếm, rồi dần hồi trở thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên côn đồ.

Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn cho anh ta như muối bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng và đau khổ vì con.

 

Đây cũng là một thứ cây vả không sinh trái khiến người chủ vườn thất vọng nên muốn chặt bỏ đi. Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên Chúa cũng đầu tư cho chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài đem trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để uốn nắn chúng ta, dùng lời dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài để thông ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể làm mà lại không làm để nâng đỡ cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài. Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như thế mà không sửa mình, thì như lời Chúa Giêsu cảnh báo hôm nay, số phận của chúng ta sẽ y như số phận của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh trái, là bị chặt bỏ đi, bị huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được đề cập trong Tin Mừng hôm nay. Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.

 

Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là cắt bỏ khối u để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết: “nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”. Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu đi trật đường rầy; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết: “nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”. Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như ngôi nhà bị bén lửa, lửa sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt ngọn lửa kịp thời để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”.

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để chăm sóc cho chúng con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;

Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc.

Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.

22. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền.

Có ai đó đã nói rằng: “lầm lỗi là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa”. Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập toàn. Vì con người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục… Tất cả những điều đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và thiếu sót. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng ta thấy: có những người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo mạn nên hành động thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em. Nhất là những người lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của mình sẽ là mối hiểm họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu văn hoá nên nói năng bừa bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Có những người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên sống buông thả và lười biếng gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc thay nhiều người đã hành động đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay với ma qủy để gieo sự dữ vào thế gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ lụy đắng cay cho bản thân và gia đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa đã không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi của chúng ta.

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?

 

Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có sinh trái. Trái mới cho hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền lụy đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy”.

 

Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.

 

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.

23. Kiên nhẫn của tình yêu – Achille Degeest

Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc nổi dậy chống quân La mã, có lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người ta cho rằng tháp Silôam ở gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi thảm này, Chúa Giêsu đánh đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên một tầm cao hơn. Não trạng Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi. Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán rằng những hình phạt thật sự về sự dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách kín đáo Chúa nói, nếu dân thành Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng niềm tin hôm nay vào Đấng Messia, toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi hành công lý của Người.

 

Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:

1) Sự trở lại là gì?

Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì hướng về bản thân, con người hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có một trách nhiệm nào đó về khổ cực bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội mình, người ta trở lại với Thiên Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ khiêm nhường sám hối. Sự trở lại không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày phải thực hiện một sự trở lại mới.

 

2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?

Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước hết là của tình yêu giáo hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở nên hoàn toàn thánh thiện. Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công việc cải thiện tâm hồn. Nhưng con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy, đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến một ân sủng để giúp tiến bộ trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người tín hữu phải tự chất vấn: Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách tôi phục vụ tha nhân có đủ tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo dục kiên nhẫn, Thiên Chúa giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách Người can thiệp ban cho những ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo Hội, bằng những biến cố, v.v… Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những ai thành tâm thiện chí, nhưng chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ ngoan cố thờ ơ.

24. Mùa chay, mùa đổi mới.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:

– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con rồi.

Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.

 

Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua. Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết. Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.

 

Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.

Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo” theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.

 

Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.

 

Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới…

 

Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.

 

Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.

 

Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.

 

Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.

 

Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.

 

Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.

 

“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.

25. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy

(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Suy Niệm 1. MỘT CƠ HỘI THỨ HAI

Người Pharisêu không có thì giờ dành cho người tội lỗi. Họ tin rằng những người đó chỉ là đồ bỏ đi. Đức Giêsu không đồng ý, và kể lại cho họ nghe một câu chuyện: Vườn nho là một nơi rất đặc biệt, thường chỉ dành ra để trồng nho mà thôi. Tuy nhiên, trong dụ ngôn của mình, Đức Giêsu lại nói về một cây vả được trồng trong một vườn nho. Vào thời kỳ đó, điều này không phải là bất thường. Đất đai quá khan hiếm, đến nỗi người ta phải trồng cây ở bất cứ chỗ nào có thể được. Vậy chúng ta đang có một cây được trồng ở một nơi rất đặc biệt.

 

Thông thường, một cây vả phải mất ba năm mới trưởng thành. Nếu đến lúc đó, mà nó vẫn không trổ sinh hoa quả, thì chắc chắn nó sẽ không thể nào đơm hoa kết trái được. Đây là trường hợp thân cây mà Đức Giêsu đang nói đến. Sau ba năm, người chủ vườn đến xem, và nhận thấy thân cây này vẫn cứ cằn cỗi. Ông ta đã kết luận rằng đó là một thân cây vô dụng. Nó đã rút chất bổ dưỡng từ lòng đất, mà không hề trả lại gì cả, phải chặt nó đi thôi, vì nó chiếm mất khoảng không gian có giá trị. Thế là ông bảo người làm vườn chặt bỏ thân cây này.

 

Nhưng vốn là một người có nhiều hiểu biết về cây vả, và là một người rất kiên nhẫn, nên người làm vườn đã đáp lại: “Thưa ông xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm, nó có trái, nếu không, thì chúng ta sẽ chặt nó đi”. Người chủ vườn đồng ý. Chúng ta không được nghe kể thêm điều gì sẽ xảy ra cho cây vả đó, nhưng không thành vấn đề. Đức Giêsu đã cho thấy quan điểm của Người: Tương tự như người làm vườn kiên nhẫn với cây vả, cũng vậy, Thiên Chúa rất kiên nhẫn với các tội nhân.

Bài Tin Mừng này gợi lên bài Tin Mừng về cơ hội thứ hai. Thiên Chúa rất kiên nhẫn. Lịch sử Giáo Hội đầy rẫy các ví dụ về những cây vả cằn cỗi, nhưng cuối cùng cũng đã trổ sinh hoa quả; nói cách khác, đó là các tội nhân đã hối cải và nên thánh.

 

Môsê, nhân vật trung tâm của Bài đọc 1, là một gương mẫu tốt đẹp. Khi còn trẻ, ông đã giết chết một người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không hề loại bỏ ông. Thật vậy, ông có tính tình nóng nảy. Nhưng nơi ông vẫn có điểm tốt. Ông là một ngài hiếm có –loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy xảy ra điều bất công hoặc tội ác. Chính nhờ tính cách này, mà Thiên Chúa đã chọn ông trong việc dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.

 

Người ta có thể cho rằng Einstein là người có trí tuệ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến năm lên 2 tuổi, ông vẫn chưa biết nói. Cha mẹ của ông rất lo lắng cho ông, đến nỗi họ đã đưa ông đi khám bác sĩ. Sau này, một trong những giáo viên của ông rất thất vọng về ông, đến nỗi đã nói rằng “Anh sẽ không bao giờ đáng giá một chút gì cả”, bởi vì chưa hề có dấu hiệu nào về sự vĩ đại của ông trong tương lai. Nhưng cha mẹ và thầy giáo của ông đã phán đoán về ông quá sớm. Một số người phát triển một cách từ từ và chậm trễ, nhưng điều đó lại càng tốt hơn.

 

Nhưng loại người này cần có một người nào đó tin tưởng nơi họ, một người nào đó kiên nhẫn đối với họ, nếu không, nhiều tài năng sẽ bị mai một dần. Chúng ta có khuynh hướng hay khắt khe với người khác, cho đến khi chính bản thân chúng ta cần có một cơ hội thứ hai. Chúng ta phải cởi mở tâm hồn với người khác, bằng tấm lòng nhẫn nại và khoan dung, mà chúng ta mong muốn cho bản thân mình.

 

Nhưng dụ ngôn này cũng cho thấy rõ ràng đây như một cơ hội cuối cùng. Nếu người ta khước từ hết cơ hội này đến cơ hội khác, thì khi ngày cuối cùng đến, không phải là Thiên Chúa không cho họ vào, nhưng là họ cố tình chọn loại trừ bản thân. Nhưng ai trong chúng ta muốn cho mình trở nên cằn cỗi, trong khi chúng ta có thể trổ sinh hoa quả?

 

Suy Niệm 2. LỜI KÊU GỌI THỐNG HỐI.

Cây vả trong câu chuyện của Đức Giêsu là một thân cây rất đặc biệt, bởi vì nó được trồng trong một vùng đất đặc biệt -vườn nho. Mặc dù được như vậy, nhưng thân cây này lại cằn cỗi. Tuy nhiên, nó vẫn được tạo cho một cơ hội khác. Cây vả tượng trưng cho dân Israel được trồng trong vườn nho của Chúa. Tình trạng cằn cỗi của nó tượng trưng cho tình trạng cằn cỗi của dân Israel trước mặt Thiên Chúa.

 

Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Đức Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành. Thật vậy, Người nói với tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Nhưng bạn có thể hỏi rằng: Điều này có thể diễn ra như thế nào –người tốt lành cần phải thống hối sao?

 

Trong trường hợp những người tốt lành, đối với họ, sự sa ngã hệ tại ở việc tốt lành mà họ đã không thực hiện. Đây là sự công kích chính yếu của dụ ngôn nói về cây vả cằn cỗi. Cây vả này bị coi như không đạt yêu cầu, không phải vì nó tạo ra những quả vả có chất độc, nhưng bởi vì nó không hề trổ sinh bất cứ hoa quả nào. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả đó còn để làm gì?

Hiếm khi người Kitô hữu tự hỏi mình câu hỏi: Tôi đã thiếu sót không làm gì? Lời kêu gọi thống hối không chỉ là lời kêu gọi tránh xa sự dữ, mà còn là lời kêu gọi “trổ sinh hoa quả” của lối sống tốt đẹp. Đó là nguyên nhân tại sao lời kêu gọi này phù hợp cho tất cả mọi người.

 

Lời kêu gọi thống hối của Đức Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.

 

Chắc hẳn là hầu hết chúng ta đều không có bất cứ giây phút chuyển biến vĩ đại nào, giống như Môsê đã có. Hôm trước, ông mời đi chăn giữ đàn cừu của ông, ngày hôm sau, ông lại dẫn dắt một dân tộc bị áp bức đi tới tự do. Nhưng sự biến đổi là một điều thú vị. Đây là một tin vui, là một lời kêu gọi thoát khỏi tình trạng nô lệ của thói ích kỷ và tội lỗi, để đến với cuộc sống của tự do và ân sủng. Đây còn là một lời kêu gọi thoát khỏi cuộc sống cằn cỗi để đến với một cuộc sống mang lại kết quả. Đây chính là lời kêu gọi đi vào trong niềm vui của Nước Trời. Tuy nhiên, đây không phải là điều gì đó mà chúng ta có thể đạt được một lần cho tất cả, nhưng lôi kéo theo cả một quá trình lớn lên và phát triển. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình liên tục hoán cải.

 

Dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng một lời cảnh báo và đe doạ. Mục đích của dụ ngôn này là để chỉ ra cho chúng ta rằng có thể chúng ta đang bỏ lỡ, hoặc thiếu sót, hầu cho chúng ta có được một cuộc sống sâu xa, phong phú và chính đáng hơn. Chúng ta hãy để cho những kẻ suy nghĩ rằng họ đang an toàn, biết sống có ý thức, để khỏi bị sa ngã. Không ai bị sa ngã nhiều cho bằng người cho rằng mình không thể được cứu độ.

 

NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN KHÁC.

1. Điều mà chúng ta nhận thấy được trong sự kiện bụi gai đang bốc cháy, đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với dân Người.

Thiên Chúa đã nghe được tiếng kêu cứu của dân Người đang bị nô lệ, và Người đã sai Môsê đi giải phóng cho họ. Ngọn lửa là biểu tượng của tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa không hề bị suy giảm khi cho đi.

 

Điều gì nơi Môsê làm cho Thiên Chúa nhận thấy rằng ông đúng là người để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với sự tự do? Kinh Thánh không nói nhiều với chúng ta về tính cách của người thanh niên Môsê. Kinh Thánh không nói rằng ông là người tốt lành hoặc sốt sắng. Nhưng Kinh Thánh kể lại cho chúng ta về ba giai đoạn trong cuộc đời của ông, trước khi có sự mặc khải trong bụi gai đang bốc cháy. Khi nhìn thấy một người Ai Cập đang tấn công một người Israel, ông đã can ngăn. Ông nhìn thấy những người chăn cứu dân Midianite ngăn cản các cô con gái của Jethro không được cho đàn gia súc uống nước, đã can thiệp.

 

Tất cả những sự kiện này đưa dẫn chúng ta đến cùng một kết luận. Chúng chỉ ra cho chúng ta rằng ông là loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy một điều bất công hoặc tội ác đang xảy ra. Vậy chúng ta có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn ông, để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.

 

Nhưng cảm nghiệm riêng tư về Thiên Chúa có thể làm cho người ta ích kỷ. Nhưng đây không phải là trường hợp của Môsê. Cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa càng lôi kéo ông vào sứ vụ giải thoát dân tộc của ông.

 

2. “Vùng đất mà ngươi đang đứng là vùng đất thánh”.

Tất cả trái đất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đều là vùng đất thánh thiện, và xứng đáng được đối xử bằng sự kính trọng. Nhưng vùng đất thánh thiện nhất vượt lên trên tất cả thì lại ở trong tâm hồn chúng ta.

 

Trước hết, cơ thể con người mang tính cách thánh thiện. Cơ thể chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Điều đó đủ lý do để kính trọng và săn sóc cơ thể. Nhưng Thánh Phaolô đưa ra cho chúng ta một lý do sâu xa hơn, để kính trọng cơ thể. Ngài nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”.

 

Tâm trí con người là thánh thiện. Nhiều người mỗi ngày đầu lấp đầy tâm trí họ bằng đủ mọi thứ rác rưởi từ T.V. radio, báo chí v.v… Theo lời của Thoreau “Người ta sẵn sàng chất chứa tâm trí mình bằng những thứ rác rưởi –họ cho phép những tin đồn vô căn cứ và những sự kiện tạp nham xâm nhập vào tâm trí mình, mà đáng lẽ nên dành để cho những suy nghĩ thánh thiện. Liệu tâm trí con người sẽ là một phạm vi công cộng, hoặc tự thân nó sẽ là một nơi thuộc về thiên đường?”. Chúng ta nên phấn đấu đi theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Plm 4,8).

 

Nhưng nơi thánh thiện nhất chính là tâm hồn con người. Trong thời đại của chúng ta, người ta bận tâm quá nhiều với vẻ sạch sẽ bề ngoài, và có nguy cơ coi thường sự thanh sạch bên trong, hoặc là sự thanh sạch của tâm hồn. Chính từ trong tâm hồn, mà tất cả những suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta tuôn chảy, tựa như dòng nước đổ ra từ một con suối. Nếu con suối đó sạch sẽ, thì tất cả dòng nước chảy từ đó ra sẽ trong sạch. Như vậy, chúng ta phải cố gắng giữ sao cho tâm hồn mình luôn được thanh sạch và tinh tuyền. Đặc biệt là chúng ta sẽ được nhìn thấy và gặp gỡ Thiên Chúa ngay tại nơi thánh thiện này. Theo lời của Đức Giêsu: “Phúc cho những kẻ có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.

26. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Đang khi Chúa Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn, thì có người thuật với Chúa Giêsu chuyện rùng rợn về vụ Philatô giết hại những người Galilê. Chắc người ta tưởng Chúa sẽ đồng tình để tuyên bố rằng số phận của những người bị tàn sát ấy là đúng lắm, và ngài cũng rơi vào lối nguỵ biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội năng. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng người ta tạm thời chưa bị đau đớn là dấu hiệu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những kẻ không ăn năn chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn và xứng đáng với sự đau đớn ấy. Nếu sự phán xét chưa đến thì sự trì hoãn ấy là cơ hội ân điển cho người ta ăn năn.

 

Chúa Giêsu nhấn mạnh chân lý ấy bằng cách nói thêm một tai hoạ về mười tám người bị tháp đổ đè chết, không nên xem số phận của họ như là dấu hiệu họ đã phạm trọng tội, mà như là lời cảnh cáo kẻ khác nếu không ăn năn thì cũng phải chịu một số phận như vậy. Trong trí Chúa Giêsu hiện ra hình ảnh của nước Israel, Ngài lại nhấn mạnh lời kêu gọi ăn năn bằng hình ảnh cây vả không sinh trái. Đó là biểu hiệu thật của quốc gia này và cũng tượng trưng cho mọi linh hồn không ăn năn. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết hơn. Ở đây chúng ta được nghe nói đến hai tai hoạ mà chúng ta chưa có thông tin nên chỉ có thể phỏng đoán thôi. Trước hết là những người Galilê bị Philatô giết đang lúc dâng lễ tế. Như chúng ta đã biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động, lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và sự chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù đó đã bắt Chúa Giêsu. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).

 

Còn về phần mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Có bản văn dịch họ là tội nhân, nhưng dịch họ là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.

 

Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt, Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng. Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SC (x. Lc 19,21-24). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tự sát mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân La mã sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.

 

Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điểm đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ bị khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là lỗi của y. Nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó trong cuộc sống trên trần thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là một phát biểu đúng đắn.

 

Chúa Giêsu minh hoạ ý tưởng trên bằng dụ ngôn cây vả không sinh trái, đây là câu chuyện vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh cáo đáng sợ.

 

1. Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác.

Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Có người đã nói về thế hệ chúng ta rằng: “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được hưởng dùng quá nhiều như thế hệ chúng ta, và vì chưa hề có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa như vậy.

 

2. Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta rằng một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại.

Thế giới này phải đi trên con đường tiến hoá, tất cả cuộc tiến hoá nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích cứ mạnh mẽ phát triển trên con đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho mỗi người chúng ta là: “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?”.

 

3. Hơn nữa, dụ ngôn cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được.

Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó, xét cho cùng có hai hạng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác, chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của của những người thương yêu chúng ta. Chúng ta đã thừa hưởng một nền văn minh mà không bởi công sức của chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận chúng ta. Abraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng: tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ cây hoa có thể mọc”. Có một học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra thế nào… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ trước như thế nào. Cậu nói: “Theo như điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm tròn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.

 

4. Dụ ngôn này dạy chúng ta về phúc ân của cơ may thứ hai.

Một cây vả thường phải ba năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã rồi trỗi dậy.

 

5. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng.

Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó. “Hôm nay là ngày thuận tiện, hôm nay là ngày cứu độ”.

27. Thống hối – R. Gutzwiller

Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu sách đó còn tăng thêm và đưa đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống hối thực tình. Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa ra lời kêu gọi đó và soi sáng bằng một dụ ngôn.

 

1. Bài học của các biến cố

Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ, Philatô sai quân tàn sát một nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan người họ mưu tâm phản loạn. Tại Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.

 

Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp đổ chôn sống mười tám mạng. Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt Thiên Chúa ra để trừng trị tội lỗi của các nạn nhân.

 

Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó. Những người vong mạng đó không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không đồng nghĩa với hình phạt mà là những lời cảnh cáo: ‘Nếu các các anh các chị không ăn năn hối cải, thì các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy’. Lời quả quyết nghiêm khắc ấy được nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy tàn của Giêrusalem đang gần đến.

 

Đối với người đương thời vừa nhằm vào ngày thế mạt, một sự kiện mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận mạng sau cùng của mỗi thụ tạo. Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải huyền) đều là những dấu cảnh cáo của Thiên Chúa.

 

Con người không thể sống quá an tâm trên đường đời và sống thản nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ nào đang đe doạ mình và nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình là lúc nào. Cho nên lợi dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.

 

Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết phó thác vào ân sủng vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải nại đến ân sủng của Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con người trong cơn nguy biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của Noe trong cơn hồng thuỷ của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai hoạ; cho nên họ ít quan tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó. Tuy nhiên, mỗi người không thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của Chúa được trình bày một cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội được.

 

2. Dụ ngôn

Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết của thống hối qua dụ ngôn cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian nữa. Nếu nó không có ích, người ta sẽ chặt đi

 

Dụ ngôn này hợp với tình trạng của Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ, đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho họ luật pháp, tiên tri, giao ước, đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải ngay, số phận của họ sẽ bị định đoạt.

 

Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta. Chúng ta có Giáo Hội, các bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa hiện diện ngày đêm. Vì thế không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được chăm lo cách quá ư trọng hậu…

 

Nhưng con người cũng phải đóng góp về phía mình. Con người không thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa vào đám quần chúng để sống tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy lòng thống hối chân thành để hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp đó, họ mới được ơn trợ giúp.

 

Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh mạng, cũng không phải là bảo vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo và tha thiết kêu gọi thống hối. Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con đường suy vong.

28. Lời mời gọi sám hối- Lm. Phạm Thanh Liêm

Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.

 

Thiên Chúa giải phóng dân Người

Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.

 

Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.

 

Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.

 

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người

Người đời cho rằng những người bị tai hoạ là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.

 

Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.

 

Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.

 

Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc

Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.

 

Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.

 

Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
  2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
  3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?

29. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

HÃY TRỞ NÊN NGƯỜI TỐT

Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal: “Nếu em được tài giỏi như thày, em sẽ trở thành một người tốt hơn”.  Pascal trả lời: “Điều đầu tiên là em hãy trở thành một người tốt hơn, rồi em sẽ được tài giỏi như thày”.

 

Theo ông Pascal, điều đầu tiên cần phải làm là hãy là một người tốt, rồi sau đó mới có hy vọng và khả năng trở thành người tài giỏi. Cậu học trò trong câu chuyện trên lại có quan điểm ngược lại, chờ khi nào mình tài giỏi thì mới trở thành người tốt. Như thế, điều kiện đặt ra phải là người giỏi, xem ra rất xa vời và ảo tưởng. Con đường đạt tới thành công xem ra chỉ là những mơ ước hão huyền.

 

Chúng ta thường có khuynh hướng giống như cậu học trò kia, muốn đưa ra những điều kiện ngược đời, trong khi đó, việc mà mỗi người đều có thể làm được, đó là trở nên người tốt, thì lại bị lãng quên hoặc coi nhẹ. Trở nên người tốt, đó là điều kiện đầu tiên để thành đạt trong cuộc sống.

 

Một nhóm người đến thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những sự kiện vừa xảy ra. Khi thuật lại những sự kiện này, không phải vì họ thương xót các nạn nhân mà ngược lại, họ muốn kết án họ như những người tội lỗi. Khi nhận định và phê phán người khác, họ tự coi mình là những chuẩn mực về luân lý. Chúa Giêsu đã điều chỉnh quan niệm của họ. Theo giáo huấn của Chúa, bất cứ ai cũng cần phải sám hối. Bởi lẽ những hình phạt dành cho người cứng lòng, kiêu ngạo có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, giống như cây tháp Si-lô-ê đổ xuống hoặc như cuộc chém giết đẫm máu của Phi-la-tô. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi đến cho các thính giả đương thời cũng như cho các độc giả hôm nay đã rất rõ ràng: hãy sửa soạn tâm hồn, hãy sẵn sàng và khiêm tốn nhận mình là tội nhân. Chính nhờ sự khiêm tốn đó mà họ có thể đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha bao dung nhân hậu.

 

Lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã được diễn tả qua câu chuyện bụi gai trong sa mạc. Ông Môi-sen đã được gặp gỡ Chúa tỏ mình qua bụi gai đang cháy bừng. Đây là lần đầu tiên  trong lịch sử nhân loại Chúa tỏ cho con người biết danh xưng của Ngài. Danh xưng ấy gắn liền với các tổ phụ của dân tộc Israen. “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Bài đọc I). Nói đến Thiên Chúa của tổ phụ là nói đến biết bao điều lạ lùng Chúa đã thực hiện vì yêu thương dân riêng của Ngài. Những gì được kể nối tiếp trong sách Xuất hành đã cho ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng nhân hậu. Ngài đã cứu dân Do Thái ra khỏi Ai-cập để dẫn đưa họ về tới bến bờ tự do là Đất Hứa.

 

Mùa Chay là thời điểm để chúng ta suy tư về lịch sử cứu độ cũng như lịch sử cuộc đời cá nhân mỗi người. Thiên Chúa luôn ghi dấu ấn tình yêu của Ngài nơi cuộc sống chúng ta. Có điều chúng ta ít nhận ra những dấu ấn ấy. Hình ảnh cây vả đã ba năm liền không sinh trái là tượng trưng của một cuộc sống khô cằn, thiếu tình Chúa, vắng tình người, khép kín trước tha nhân. Dù con người mang nhiều tội lỗi, Chúa vẫn luôn bao dung và kiên nhẫn. Ngài giống như người làm vườn gia hạn chờ đợi thêm một năm nữa rồi mới quyết định số phận của cây vả. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta trở về. Hãy sinh hoa trái để không bị đốn ngã và tiêu diệt. Đó là điều Chúa muốn nhắn gửi chúng ta.

 

Trở lại câu chuyện mở đầu trên đây, Lời Chúa cũng mang nội dung tương tự, tức là mời gọi chúng ta hãy trở nên con người tốt, để rồi nhờ đó chúng ta mới có hy vọng thành đạt trong xã hội. Hạnh phúc siêu nhiên đời này cũng như đời sau là kết quả của những cố gắng nỗ lực sống tốt với anh chị em xung quanh mình.

 

“Ôn cố nhi tri tân”, học chuyện đã qua để biết thêm điều mới mẻ. Thánh Phao-lô mời gọi giáo dân Cô-rinh-tô hãy nhìn lại lịch sử Cựu ước để “làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (Bài đọc II).

 

Ước chi mỗi chúng ta được biến đổi nhờ những thực hành của Mùa Chay, để chúng ta trở nên những người loan báo lòng nhân hậu của Chúa trong một xã hội đang nhạt phai tình người. Amen.

30. Đổi mới cách nhìn

Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm, ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.

Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:

– Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?

 

Cái ống kính viễn vọng trong câu chuyện vừa nghe là một hình ảnh tượng trưng cho cách chúng ta nhìn đời và nhìn người. Thực vậy, nhiều khi cái ống kính ấy có vướng mắc những sợi chỉ mong manh, có nghĩa là lắm lúc chúng ta đã nhìn đời và nhìn người bằng cặp mắt thiển cận. Chúng ta muốn suy bụng ta ra bụng người, chúng ta muốn lấy lòng mình làm thước đo người khác. Chúng ta muốn cư xử rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với người khác. Chúng ta muốn lấy cái rơm trong mắt người khác mà không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.

 

Đây cũng là trường hợp đã xảy ra cho hai biến cố mà Chúa Giêsu đã nhắm đến. Đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp, dân Do thái đã mau mắn đi tới kết luận: Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt.

 

Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người.

 

Đúng thế, thay vì đánh giá người khác, chúng ta phải đánh giá chính bản thân chúng ta. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân chúng ta, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa như lời Ngài đã phán: Nếu các ngươi không chịu ăn năn, thì các ngươi cũng sẽ chết thê thảm như vậy.

 

Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: điều cần thiết là phải thay đổi cách nhìn, thay đổi cách đánh giá. Hãy nhìn vào bản thân mình, chứ đừng nhìn vào người khác. Hãy nghiêm khắc với bản thân mình chứ đừng nghiêm khắc với người khác. Hãy biết đấm ngực mình mà rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng: Lỗi tại anh, tại chị, tại ông, tại bà mọi đàng.

 

Có như thế, những biến cố xảy đến trong cuộc đời mới thực sự đem lại lợi ích, bởi vì những biến cố ấy chính là tiếng chuông cảnh tỉnh thúc đẩy chúng ta thoát ra khỏi tình trạng tội lỗi. Những biến cố ấy chính là lời Chúa mời gọi chúng ta vươn lên, thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời, để trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.

31. Sám hối

Bài đọc 2 của Chúa nhật III Mùa chay năm C trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi giáo đoàn Côrintô: “Tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây khi đi ngang qua biển đỏ và tất cả nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tất cả đã cùng ăn một thức ăn thiêng liêng; tất cả đã cùng uống một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng, tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, vì họ đã bị ngã gục trong hoang địa. Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo dục vọng xấu xa như những người đã chiều theo nó. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm và đã vong mạng bởi một tay sứ thần huỷ diệt”.

 

Thánh Phaolô giải thích Kinh thánh Cựu ước cho rõ nghĩa và đồng thời áp dụng vào đời sống cho giáo đoàn tại Côrintô. Phaolô đã áp dụng điều gì cho giáo đoàn Côrintô? Chúng ta lần lượt nhận ra điều đó trong những dòng sau đây: Đọc trong toàn thể thư gửi giáo đoàn Côrintô, bài sách Thánh này nằm trong phần bàn về những liên hệ đức tin của người tín hữu. Đức tin này đòi hỏi một thái độ dứt khoát với những thói tục xấu, với việc tôn thờ không đúng trong quá khứ. Việc từ khước một số tự do vì Tin Mừng và tính cách cố gắng liên tục để chiếm đoạt trọn vẹn Tin Mừng cũng như để khỏi bị sa ngã. Thánh Phaolô viết: Cha ông chúng ta đã được ở dưới đám mây, băng ngang qua biển và tất cả đã nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tổ phụ, áng mây, lòng biển, Môisê đưa người tín hữu Côrintô trở về quá khứ cách đó hơn 13 thế kỷ.

 

Việc dân Israel bỏ Ai Cập lên đường về đất hứa, các biến cố này Môisê dẫn đầu với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Sự trợ giúp này được biểu dương bằng áng mây ban ngày và cột lửa ban đêm, bằng việc vượt qua biển đỏ an toàn. Sự trợ giúp này có tính cách thường xuyên, vì suốt cả cuộc hành trình của dân Israel, Thiên Chúa đã cho đám mây và cột lửa ngang đầu giúp cho dân. Sự trợ giúp này còn có tính cách bất thường trong những hoàn cảnh đặc biệt, vì Thiên Chúa đã cứu họ khi họ bị dồn vào thế cùng đường cũng như khi họ không còn của ăn và nước uống.

 

Như vậy, hai biểu hiệu “áng mây” và “biển” đã nói lên ơn bảo trợ của Thiên Chúa liên tục và trọn vẹn. Sự trợ giúp này còn nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mây là biểu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày xưa sự hiện đó được biểu hiện qua đám mây, nhưng trong thời Tân ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài qua chính Con Một của Ngài nhập thể là Chúa Giêsu Kitô.

 

Điều này thánh Phaolô nói lên trong đoạn văn tảng đá thiêng liêng là chính Chúa Kitô. Thiên Chúa đã ban cho dân Israel nhiều ân huệ trong thời gian lưu lạc trong sa mạc, nhưng dù vậy có người trong bọn họ đã sa ngã, đã phạm tội và do đó họ là đối tượng của hình phạt của Thiên Chúa.

 

Các ân huệ không là thứ bảo đảm an toàn cho họ, nếu họ không biết sống đẹp lòng Chúa, và đây cũng chính là điều mà thánh Phaolô muốn dạy bảo các tín hữu Côrintô. Các ơn Thiên Chúa ban cho Giáo hội, cho tín hữu thật là dồi dào, nhưng chúng ta không được phép tự hào về các ơn này để rồi sống buông thả, thiếu cố gắng và sau cùng sẽ bị tai hoạ cho đời mình.

 

Như vậy, Cựu ước là biểu tượng của Tân ước, Phaolô dùng nó để dạy dỗ giáo đoàn và nhắc mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức và hãy làm trổ sinh những hoa trái tốt. Đừng an phận với những ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người, nhưng chúng ta phải cộng tác với ân huệ này và làm cho nó sinh hoa trái trong cuộc đời. Hãy làm cho đời sống chúng ta triển nở thêm phong phú. Đây cũng là điều được nhắc nhớ chúng ta qua bài Phúc âm của Chúa nhật III Mùa chay mà mỗi người chúng ta cần phải lãnh nhận và áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người Kitô hữu.

32. Ăn năn sám hối

Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.

 

Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong trào “cứu thế” chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.

 

Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.

 

Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.

 

Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.

 

Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”. Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình”. Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là “Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó”, “Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy”. Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp… nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?

 

Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.

33. Sám hối

Trước khi đi vào bài Tin Mừng hôm nay, thầy có mấy câu để hỏi các em, nếu ai biết xin giơ tay nhé.

.

Trong các em, ai đã nhìn thấy tội của mình? Và ai đã nhìn thấy tội nơi người khác? – Vâng, đa số trong các em nhìn thấy tội của người khác hơn là thấy tội của mình. Chính cái nhìn hạn hẹp này mà Chúa Giêsu nhắc nhở những người Do thái ngày xưa, và Ngài cũng nhắc nhở chúng ta ngày nay rằng: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết”.

 

Vậy để giúp nhau sống lời Chúa hôm nay, thầy cùng các em tìm hiểu ba điểm sau đây:

. Sám hối để được tha thứ.

. Sám hối để được sống.

. Sống tinh thần sám hối.

Sám hối để được tha thứ. Các em có biết:

. Trong thánh lễ, sau khi làm dấu, chúng ta thường đọc kinh gì? Đọc kinh cáo mình và kinh thương xót.

. Qua những kinh đó chúng ta thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng ta.

. Tại sao ta phải sám hối trước thánh lễ? Vì chúng ta muốn có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh.

. Giáo hội cho chúng ta bốn mươi ngày trong mùa chay. trong bốn mươi ngày này Giáo hội kêu gọi mỗi người Kitô hữu hãy sám hối lỗi lầm để trở về với Thiên Chúa.

. Do đó, sám hối là một điều rất cần thiết cho mỗi người Kitô hữu, vì nếu muốn được tha thứ thì phải sám hối!

. Vậy để luôn biết mình và để luôn được sống thân tình với Thiên Chúa, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa và ý thức mình là kẻ có tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa.

 

Sám hối để được sống.

Để thấy kết quả của việc ý thức tội lỗi và quyết tâm trở về với Thiên Chúa như thế nào, giờ đây thầy kể cho các em nghe một câu chuyện.

 

Ngày xưa, Thiên Chúa sai tiên tri Giona đến một thành rất tội lỗi tên là Ninivê để khuyên bảo dân thành này. Giona không vâng lời Thiên Chúa, xuống tàu đi sang nơi khác, nên Chúa đã cho con cá nuốt ông trong bụng hết ba ngày ba đêm để cảnh cáo ông. Sau đó, cá nhả Giona lên bãi biển. Ông không dám cãi lệnh Thiên Chúa nữa. Ông đến thành Ninivê, rảo khắp thành phố trong ba ngày và rao giảng rằng: còn 40 ngày nữa Ninivê sẽ bị tàn phá, nếu anh em không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa thì sẽ bị phạt.

 

Nghe lời kêu gọi đó, thì từ nhà vua cho đến dân và súc vật trong thành đều tỏ lòng kính sợ Thiên Chúa. Nhà vua cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm, ngồi trên đống tro cùng dân trong thành ăn năn khóc lóc tội lỗi và hết lòng thống hối, trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thấy họ thật lòng từ bỏ cách ăn thói ở gian ác tội lỗi của họ, nên Ngài không phạt nữa.

 

Qua câu chuyện thầy vừa kể, các em có biết:

  • Nhờ đâu mà dân thành Ninivê được Chúa tha thứ không? Nhờ lòng ăn năn sám hối của họ.
  • Cũng vậy, để được Thiên Chúa tha thứ như dân thành Ninivê, chúng ta phải biết sám hối những lỗi lầm của mình và quyết tâm trở về với Thiên Chúa.

Nhìn lại bài Tin Mừng, các em thấy những người Do thái nghĩ gì về những người đã chết do Philatô giết và tháp Silôê đè là những người có tội, bị Thiên Chúa phạt. Còn họ nghĩ họ là những người tốt, không có tội nên không bị Chúa phạt. Những người Do thái này không chịu nhìn tội lỗi của mình và họ chỉ nhìn tội lỗi của người khác.

 

Thấy những người Do thái này cứng đầu, lì lợm, không chịu nhìn nhận là mình có tội, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở họ rằng: “Cả các ngươi nữa, nếu các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy”.

 

Tội lỗi đã làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa, làm chúng ta phản bội Chúa, chống lại tình yêu của Chúa và nhất là làm chúng ta đánh mất sự sống với Ngài. Nhưng Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta, Ngài đã ban chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Qua cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã gánh lấy hết mọi tội lổi và chịu chết thay cho chúng ta. Như vậy, Chúa Giêsu đã xoá đi tội lỗi của chúng ta và biến đổi chúng ta từ nô lệ tội lỗi trở thành con cái của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy sám hối, trở về với Thiên Chúa để đón nhận ơn cứu chuộc của Chúa như tiên tri Isaia đã loan báo: “Ta đã xoá tội của các ngươi… Hãy trở về với Ta vì Ta đã cứu chuộc các ngươi”. Sau khi thấy được kết quả của việc sám hối, giờ đây chúng ta quyết tâm sống tinh thần sám hối.

 

Sống tinh thần sám hối.

Một hôm, đi học về. Tuyền chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu với mẹ rằng:

– Mẹ ơi, con đói bụng quá.

Mẹ ôn tồn:

– Chờ mẹ một chút, có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ…

 – Tuyền vùng vằng khó chịu rồi bỏ đi lên nhà. Cho đến khi mẹ lên gọi ăn cơm Tuyền mới chịu xuống.

An cơm xong mẹ mới ôn tồn bảo Tuyền:

– Con lớn rồi. Đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong thì phải biết phụ mẹ lặt rau, hay dọn chén đũa chứ. Con không nên có thái độ như vậy. Tuyền nhận ra mình đã làm cho mẹ buồn, tỏ ra hối hận và thưa mẹ rằng:

– Thưa mẹ, con xin lỗi mẹ. Từ nay con sẽ cố gắng không làm mẹ buồn nữa. Thế là mẹ ôm Tuyền vào lòng và nói: con rất ngoan, mẹ không buồn con nữa đâu.

 

Câu chuyện cho chúng ta thấy, bạn Tuyền là người biết sám hối, biết nhận ra lỗi của mình và mau mắn xin lỗi.

 

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng làm cho ông bà, cha mẹ, thầy cô,… buồn lòng về những tật xấu của ta như: không vâng lời, hay đánh nhau, chửi thề, nói dối…

 

Chúng ta hãy học nơi bạn Tuyền can đảm nhận ra lỗi của mình, rồi mau mắn xin lỗi ông bà, cha mẹ, thầy cô… Và quyết tâm sửa đổi những tính hư tật xấu.

 

Cũng vậy, để được Chúa tha thứ và để được sống với Chúa. Chúng ta hãy sám hối tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ những tính hư tật xấu để trở về với Chúa bằng cách: mỗi ngày xét mình, ăn năn dốc lòng chừa và năng lãnh nhận bí tích Giải tội.

 

Trong tuần này, thầy và các em cùng nhau mỗi ngày lặp lại nhiều lần với lời nguyện tắt sau đây nhé: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con, vì con là kẻ có tội”.

34. Kiên nhẫn – Trầm Thiên Thu

Kiên nhẫn (nhẫn nại) là trạng thái chịu đựng trong hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh.

 

Kiên nhẫn không phải là thụ động, mà là chủ động. Đó là sức mạnh tập trung của con người. Kiên nhẫn rất cần, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: “Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này”. Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục của những người bình thường.

 

Ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: “Môsê! Môsê!”. Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” (Xh 3:4). Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là Đất Thánh” (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.

 

Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3:6). Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao? Không phải Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa là Nguồn Sáng? Biết vậy, Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” (Xh 3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Người chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.

 

Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: “Ta là Đấng Hiện Hữu. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” (Xh 3:14). Không vòng vo. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3:15).

 

Đọc đoạn Kinh thánh này và biết Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta xác định rõ ràng: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU. Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật!

Chắc hẳn vì vậy mà tác giả Thánh vịnh luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn. Phúc Âm nói tới ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc chắn chín người vô ơn bạc nghĩa là người có đạo – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh là Kitô hữu, đừng tưởng người địa vị cao thì “ngon” hơn người ở địa vị thấp! Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Thế thì chín người kia đâu?”. Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau – nhức buốt tận tủy xương!

 

Rồi khi gặp trắc trở, con người mới “giật mình” và lại hối cải: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót thương, Ngài “phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:6-7), bởi vì “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường sống – thời nay gọi là “tận cùng bảng số”.

 

Từ một người Pharisêu và “chuyên gia” về việc bách hại đạo, Saolê bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về Người mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Và rồi Thánh Phaolô không thể im lặng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1 Cr 10:1-4). Chữ “tất cả” và chữ “một” khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù “thuận” hay “nghịch” cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.

 

Thánh Phaolô nói thêm: “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ là bài học quý giá. Đó là tiếng Chúa cảnh tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài thánh ca “Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người” với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha”.

 

Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, đến nỗi người ta cho rằng “không hề có Thiên Chúa”, dù chúng ta không ngừng tái phạm. Thánh Phaolô đã cảm nhận được lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này” (1 Cr 10:10-11). Bởi vậy, không ai dám mạo nhận điều gì, vì “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn.

 

Một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13:2). Tình trạng “tưởng mình hơn người” rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18:19).

 

Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn chịu đựng!

 

Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm, và ngày nay là Lòng Thương Xót. Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi kiên nhẫn vì những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!

 

Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

35. Sám hối vì chưa làm điều tốt

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:

Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13,3.5).

 

Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (x. 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích: “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.

 

Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiền nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại. Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế, Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất. Cũng như vụ việc đau lòng, Nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm thuộc giáo xứ Thái Nguyên, Giáo phận Bắc Ninh, đang xây bị sập mái nên có 3 người tử nạn, 48 người bị thương vào sáng ngày 17/01/2013; đang thi công, mái nhà thờ bất ngờ bị đổ sập vào lúc 9g50. Theo cha xứ Fx Nguyễn Đức Đại và một số bà con giáo dân đang cùng làm việc, nguyên nhân công trình bị sập là do trời mưa, ở phần gác đàn, nước đọng và chảy xuống chân một số cột dàn giáo khu vực đó làm xói đất nên sập dàn kéo theo toàn bộ phần mái bị sập.

 

Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Thiên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” nhấn mạnh đến tính cấp bách của sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ, nếu sau đó nó vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị chặt bỏ. Cây vả được gia hạn là hình ảnh người Do thái, nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt. Chúa Giêsu mời gọi họ trở lại với lương tâm để tự vấn.

 

Thái độ quyết liệt của Chúa Giêsu biểu lộ một tình yêu Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái.

 

Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng, mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?

 

Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.

 

Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm, có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.

 

Mục đích cây vả là sinh trái. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.

 

Cần phải sám hối hoán cải. Sám hối không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.

 

Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.

 

Dụ ngôn cây vả còn cho thấy sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. “Đã ba năm nay…”. Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:”Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”. Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn để sám hối canh tân.

 

Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay,Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó ?

 

Lạy Chúa, xin cho con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Ước gì cây đời của con có nhiều trái ngon ngọt hơn. Amen.

36. Nhận ra lòng Chúa xót thương và hoán cải

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề tài “hoán cải” với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta lời cầu nguyện nổi tiếng của các Giáo phụ trong sa mạc: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương con, vì con là kẻ có tội!”. Sau hai tuần sám hối tội lỗi, chúng ta nên lấy những lời trên làm của mình, và can đảm nhiệt thành cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay, ý thức mình là những kẻ tội lỗi nghèo hèn, nhưng chúng ta, “hướng cặp mắt” lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi Vực thẳm âm ty, và thưa: “Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ” (Ca nhập lễ).

 

Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta như bão tố, lũ lụt, động đất sóng thần cướp đi bao sinh mạng con người, và gần đây nhất, vụ sập nhà thờ Ngọc Lâm làm 3 người chết, hơn 59 người bị thương. Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng : “Chúa nhân từ và thương xót.” Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại… thật là khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn tốt cho nhân loại.

 

Vấn nạn giả thiết rằng sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta thấy những người bị bệnh hoặc bị cuốn đi, bởi một cái chết đột ngột, người đời nói về họ: “Như thế nào, họ đã làm gì sai?”. Như là có sự trừng phạt tức khắc giữa trách nhiệm đạo đức và đau khổ mà chúng ta hứng chịu. Đó không phải là điều Chúa Kitô nói trong Tin Mừng khi người ta mang đến và hỏi Chúa: “Ai phạm tội? Anh mù này hay cha mẹ của anh ta? (Ga 9, 2) Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh cũng không phải cha mẹ” (Ga 9, 3) thực tế, anh đã mù bẩm sinh không phải là sự trừng phạt do lỗi của bất cứ ai.

 

Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và làm cho dân chúng đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu có nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu mà chúng ta đang sống, giống như Môi-se dân qua Biển Đỏ, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh của trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu của Thiên Chúa khi bất hạnh tấn công con người?

 

Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thời sự thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là việc một ngọn tháp tại Giêrusalem bị sập ngã làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Nhưng Chúa Giêsu ngược lại đã nói như sau: “Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?… Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng? (Luca 13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, đức Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Đấng tốt lành và không thể nào muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: “Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư? Và Chúa Giêsu đã kết luận cho cả hai trường hợp như sau: “Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy.” (Luca 13,3.5). Vậy, Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Ngài đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.

 

Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi chúng ta đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta.

 

Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng? Chủ vườn đòi hỏi chúng ta rằng điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi ” (Lc 13: 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu hiện diện với sứ mạng được ủy thác ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. Ngài được sai đến để công bố một năm hồng ân, một năm ân xá. Mỗi năm chúng ta sống là một năm mà chúng ta được tự do.

Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đây là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và chúng ta được mời đi tiếp Chủ Nhật tới để canh tân phép rửa của chúng tôi, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Kitô.

 

Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tệ nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: “Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng năm ân sủng, năm ân xá này, năm nay Ta vẫn chăm sóc con để con có thể sinh trái. “Amen.

37. Mời gọi hoán cải – Dụ Ngôn cây vả Fx. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Cuộc hành trình này trước tiên là một chuyến đi đến cái chết: các lời loan báo Thương Khó song song với các TM Nhất Lãm khác đều nằm  trong phân đoạn này (Lc 18,31-34), nỗi khắc khoải của Đức Giêsu trước “phép rửa” Người sắp phải chịu (12,50), loan báo số phận của Người tương tự số phận các ngôn sứ (13,32-33), lời khẳng định Con Người phải chịu đau khổ (17,25).

         

Tuy nhiên, chuyến đi này còn hàm chứa những yếu tố sư phạm như: a) Các lời dạy về đời môn đệ: cầu nguyện (11,2-13; 18,1-8), từ bỏ (12,51-53; 14,26-27), tiền bạc (12,13-30; 14,28-33…), làm chứng cho Đức Giêsu (12,1-12), tỉnh thức trông chờ Đức Giêsu trở lại (12,35-48); b) Và như trong bài đọc hôm nay: lời kêu gọi lấy quyết định khi đối diện với Đức Giêsu và cuộc phán xét đang đến (12,54–13,9; 13,22-30…).

 

Những câu truyện được kể trong đoạn TM hôm nay chỉ có trong TM Lc mà thôi.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

          1) Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội (13,1-5);

          2) Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái (13,6-9).

 

3.- Vài điểm chú giải

– máu dổ ra hòa lẫn với máu tế vật(1): Bởi vì “tế vật” (thysiai) chỉ được dâng tại Giêrusalem, hẳn đây là những người đang có mặt tại sân tư tế của Đền Thờ. Cũng có thể đây là dịp dâng chiên Vượt Qua. Những người Galilê đây hẳn là các khách hành hương đã về Giêrusalem để dự lễ. Sự cố này không được ghi lại trong bất cứ tài liệu nào ngoài TM Lc. Sử gia Ph. Gioxép có nói đến những sự cố sau: (1) Mộtcuộc tàn sát người Samari gần núi Garidim (chứ không phải là “người Galilê”) bởi tay quan Philatô vào năm 35 sau CN, và cũng không nói đến “tế vật” (x. Ant. 18.4,1 §86-87); (2) Quan Philatô đưa các hình tượng của hoàng đế vào khiến các người Giêrusalem ái quốc đã nổi loạn (JW. 2.9,2 §169-174); (3) Quan Philatô lấy quỹ Đền Thờ để xây một đường cống dẫn nước vào Giêrusalem (JW. 2.9,4 § 175-177), khiến người “Do Thái” (chứ không phải là “người Galilê”) bất mãn; (4) Vua Áckhêlao đã giết ba ngàn người tại Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua (JW. 2.1,3 §8-13); (5) Vua Alexanđê Giannê (103-76) đã giết sáu ngàn người “Do Thái” vì họ đã ném chanh vào ông trong dịp mừng lễ Lều (JW. 13.13,5 §372).

Ta không biết đích xác là tác giả Luca đang ám chỉ đến biến cố nào. Tuy nhiên, lịch sử cho biết Phongxiô Philatô làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người “không nhượng bộ và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được triết gia Philon ghi lại, x. Legatio ad Caium, 38).

– chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn(2): Người Do Thái thường tin rằng các tai họa xảy đến trong đời là kết quả của tội lỗi đã phạm trong quá khứ (x. G 4,7; 8,4.20; 22,5; Xh 20,5c; Ga 9,2-3). Đức Giêsu không đặt vấn đề về niềm tin này, nhưng lợi dụng cơ hội để kêu gọi hoán cải.

– tháp Silôác (4): Theo sử gia Ph. Gioxép, có mộtcái tháp ở bức tường thứ nhất của thành Giêrusalem cổ; tháp này ở phía đông quay về hướng nam và nằm bên trên suối Silôác (JW. 5.4,2 §145). Nhưng nay thì chẳng còn dấu tích gì về cái tháp này. Ph. Gioxép cũng không nói gì về tai nạn này.

– một cây vả trồng trong vườn nho (6): Việc trồng cây vả trong vườn nho có trong Mk 4,4. Có thể Đức Giêsu đang lấy lại một cách ví von của Cựu Ước, coi cây vả là biểu tượng của Giuđa hay Israel (x. Hs 9,10; Mk 7,1; Ge 1,7; Gr 8,13; 24,1-10).

– năm nay nữa (8): Thời gian ân huệ trước khi mọi chuyện chấm dứt được diễn tả bằng hình ảnh “năm nay”, nhằm nói lên sự giới hạn.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội (1-5)

Phân đoạn này là mộttruyện kèm lời công bố, do có lặp lại các câu hỏi và bài học của Đức Giêsu.

Người Pharisêu dạy: “Không có hình phạt nếu không có tội lỗi”. Nếu Thiên Chúa để cho một số người Galilê bị giết là vì họ là những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu đã được nghe kể về số phận của những người Galilê đã bị quan Philatô giết. Đức Giêsu loại trừ mọi liên kết giữa cái chết của những người Galilê ấy và tội lỗi của họ. Thay vào đó, Người vận dụng biến cố để kêu gọi hoán cải. Người cũng nhắc lại cái chết của mười tám người bị tháp Silôác đè, và kết luận rằng biến cố ấy là mộtthúc bách những người còn sống hoán cải, canh tân đời sống, tức là lấy đức tin mà chấp nhận lời cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giêsu đến loan báo. Cái chết có thể đến gặp bất cứ người nào cũng nhanh như đã gặp những người xấu số trên đây, bất cứ lúc nào: thậm chí ngay đêm nay, “mạng sống” có thể bị “đòi” để chịu xét xử (x. Lc 12,20). Cần biết nhận ra một lời mời gọi hoán cải.

 

*  Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái ( 6-9)

Phân đoạn này là mộtdụ ngôn, nhưng không có mộtáp dụng minh nhiên (áp dụng hàm chứa trong các câu 3 và 5). Dù sao, ta vẫn có thể coi đây là mộtdụ ngôn về lòng thương xót hoặc thậm chí, mộtdụ ngôn về “khủng hoảng”, chứa mộtlời mời gọi hoán cải trước khi quá muộn, lúc đầu được ngỏ trực tiếp cho những người đồng hương của Người. Nhưng rồi bài cũng được gửi cho các Kitô hữu phải đối diện với viễn tượng là mộtkết cục cuộc sống bất ngờ.

Bài dụ ngôn này nhắc nhớ bản chất “nguy kịch” của cuộc sống con người: lúc này là giờ cuối cùng, thời gian ân huệ cuối cùng trước khi chịu phán xét. Cây vả không trái trở thành biểu tượng của một cuộc sống con người không sản sinh hoa trái thiêng liêng. Như mộtnối tiếp vào những lời nói của Đức Giêsu mời gọi canh tân đời sống, bài dụ ngôn đưa ra một “mũi nhọn” mang tính răn đe. Những người Galilê hẳn là đã chết vì sự độc ác của vài người, mười tám người Giêrusalem hẳn là đã chết vì không may (có mặt tại chỗ không nên vào giờ không đúng), nhưng con người không biết đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi sẽ chết chắc chắn vì không hoạt động và không sinh hoa trái. Cái lỗi do sự trì trệ ươn ái của chính mình thì trầm trọng hơn cái điều tệ hại là chết vì tay của ai khác hoặc vì tai họa bất ngờ.

 

+ Kết luận

Trước các biến cố, Đức Giêsu cung cấp mộtgiải thích mang tính tôn giáo để mời gọi các thính giả suy nghĩ: thời cuối cùng đã bắt đầu, những gì đang xảy ra trong thời gian này chỉ là mộtgợi ý về thời điểm chấm dứt mọi sự. Do đó, mỗi người phải lấy lập trường đúng đắn. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu công bố rằng cần phải hoán cải, đừng có trì hoãn, bởi vì thời gian mỗi người đang có đã là thời gian triển hạn rồi. Lời Đức Giêsu còn mang tính cấp bách hơn, bởi vì Người là chính là Đấng mà Thiên Chúa đã giới thiệu trên núi cao là “Con Ta”, và mời chúng ta “hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Giải thích các biến cố là một việc rất tế nhị, nhất là khi biến cố ấy gây tai họa cho người khác chứ không phải cho chính ta. Đọc cho ra ý nghĩa các “thời điềm” (= dấu chỉ thời đại) là việc phải làm trong tinh thần siêu nhiên, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, và với tinh thần Giáo Hội. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của các “thời điềm” đó và chọn cho mình mộtlập trường tương ứng, cũng như giúp người khác chọn lựa đúng đắn.

 

2. Có những người chủ trương rằng bạo lực là phương thế duy nhất để tái lập công lý. Thật ra, sức mạnh chẳng bao giờ đưa lại điều tốt, chẳng bao giờ giải quyết được các vấn đề; nó chỉ làm phát sinh những vấn đề mới nghiêm trọng hơn. Đức Giêsu không muốn dính líu với những người cứ nguyền rủa chửi thề. Người không vô cảm trước đau khổ hoặc các tai nạn hay nỗi bất hạnh, nhưng Người biết rằng hận thù, giận dữ và trả thù chỉ làm cho các vấn đề thêm trầm trọng.

 

3. Có những Kitô hữu suy nghĩ như người Pharisêu, cho rằng may mắn và sức khỏe là những phúc lành Thiên Chúa ban cho người tốt, còn đau khổ là một sự nguyền rủa Ngài giáng xuống kẻ ác. Không phải thế! Quả thật, có điều xấu do con người xấu gây ra, có những điều xấu xảy ra do sự thiếu quan tâm. Nhưng mưa không thuận gió không hòa, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh tật, là những điều ta không được đổ cho Thiên Chúa. Chúng xảy ra vì thế giới chúng ta là như thế. Dù vậy, không có điều gì xảy ra mà ở ngoài chương trình của Ngài. Không biến cố nào, tốt hay xấu, tình cờ hay có kế hoạch, mà vuột khỏi tình yêu của Ngài. Ngài để cho vũ trụ đi theo dòng sinh hoạt của nó, cho thiên nhiên vâng theo luật lệ của chính nó. Ngài cho phép người ta tự do hành động và điều hành các vấn đề sao cho ngay cả những chuyện xấu vẫn đưa đến một điều tốt.

 

4. Theo dụ ngôn Cây vả không trái, chúng ta hiểu rằng mình dường như vẫn đang làm cho Chúa Cha (= chủ vườn nho) phải thất vọng, vì đã phí phạm bao nhiêu ân huệ cao quí Ngài ban cho. Và thời gian chúng ta còn đang có trước mắt chính là một“thời gian gia hạn”. Người biết suy nghĩ thì biết cách tận dụng “thời gian gia hạn” cho ích lợi, khi mà mình đã phung phí thời gian dài đã có trước đây. Mộtsự phung phí như thế cũng rất có thể đã gây ảnh hưởng tiêu cực trên những người khác.

 

5. Hôm nay chúng ta vẫn có mộtĐấng chuyển cầu có thế giá trước nhan Chúa Cha, đó là Đức Giêsu. Người vẫn đang xin Chúa Cha ban thêm ơn cho chúng ta, vẫn xin Chúa Cha “triển hạn” để chúng ta có thể sinh hoa quả xứng với tình thương của Chúa Cha. Lẽ nào chúng ta có thể tiếp tục lạm dụng tình thương cao vời đó mãi?

 

6. Mùa Chay là thời điểm thích hợp để suy xét xem liệu chúng ta có chậm trễ đưa ra những thay đổi quan trọng trong đời sống của mình hay không. Dụ ngôn cây vả không sinh trái gợi lên một dấu chỉ của niềm hy vọng. Cây vả được cho một năm hồng ân nữa; thêm một cơ hội, với sự chăm sóc chu đáo và tận tình hơn hầu có thể đơm bông kết trái. Tuy nhiên, vẫn còn đó một lời cảnh báo khắc nghiệt là nếu không sinh hoa trái thì nó sẽ bị chặt đi. Mùa Chay nhắc nhở về lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta và ta có đủ thời gian để đón nhận lòng nhân hậu ấy, và tiếp đó phải thực hiện những đổi mới quan trọng để sắp xếp lại cuộc đời của chúng ta. Tuy vậy, nếu chúng ta không hành động trong thời hạn được trao này thì sẽ phải lãnh một hậu quả bi thảm. Ngày cuối cùng sẽ ập đến bất ngờ với bất kỳ ai trong chúng ta.

38. Chú giải của Noel Quesson

Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.

Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.

 

Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.

 

Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.

Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: “Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế” hay là “chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?”.

 

Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh”. Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!

 

Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.

Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. “Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về “những người khác”. Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. “Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.

 

Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc “hoán cải”, của chính con.

 

Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.

 

Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.

Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn… Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị “trừng phạt” bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế”.

 

Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là “Nguyên nhân đệ nhất” như’ các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.

 

Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.

Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: “Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi”. Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. “Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết”: Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta “khám phá”: Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một “mạc khải”, một vấn đề đức tin.

 

Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.

 

Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải…

Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói “triệt’ để” của Luca “Các ông sẽ chết hết”. Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải”. Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện “mạc khải”: Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.

 

Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.

 

Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?

Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài “Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là “một quả”. Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả… Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích “. Trái lại, Đức Giêsu nói: “Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!” Người không những lên án “trái thối” mà còn lên án cả tình trạng “không sinh trái”.

 

Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.

Người “làm vườn” đầy tình thương với “cây nho” của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: “Nếu không ông sẽ chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.

 

[post-views]
Pin It

Gửi phản hồi