LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
MỤC LỤC
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 2
2. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26 4
3. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà 7
4. Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình 10
5. Sống chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 13
6. Không thuộc về thế gian. 16
7. Sống chứng nhân. 19
8. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục” 21
9. Để làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22 25
10. Truyền đạo. 28
11. Sống vì đạo – ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt 31
12. Con đường hạt lúa – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt 34
13. Chứng nhân tình yêu 37
14. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 40
15. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì 44
16. Can đảm nói không với tội lỗi – Lc 20, 27-38 47
17. Tử đạo hay sống đạo? 49
18. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm. 52
19. Những Đấng Bậc Anh Hùng 55
20. Anh em làm chứng cho Thầy. 58
21. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Lc. 9, 23-26 61
22. Nhớ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 65
23. “Đây Bài Ca Ngàn Trùng” 68
24. Sống đạo và chết vì đạo 71
25. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin 74
26. Các thánh Tử Đạo Việt Nam 78
27. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26 81
28. Làm chứng 85
29. Tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu 89
30. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới 92
31. Những tên lý hình thời đại – PM. Cao Huy Hoàng 99
1.
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi
các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho
niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin
Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16
đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội
Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão
táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết
bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ
tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân
vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng
trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết
dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa,
trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước.
Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa
một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin
một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời
Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội
Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải
thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài
không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời
lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.
Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những
người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương
đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự
gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng
ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán:
Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua
cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực
mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình
thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên
2.
đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin
Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm.
Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu
nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau
kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm
cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm
chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã
phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng
tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên
núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công
chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một
động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt
thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể
nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm
sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các
ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời.
Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các
ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất
là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi
người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài.
Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của
mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc
vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha
ông của chúng ta.
3.
2. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa
ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều
hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi
bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm
thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải
ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi
các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: “Đáng
thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi
chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh
lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi
được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong
chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời
xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì
các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì… Cuộc đời chúng tôi
đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh
thay cho các anh!…”
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề
dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những
bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt
lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại
hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong
bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non
đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển
nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ
một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành
những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt
vàng khoe mình dưới nắng.
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng
chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng
4.
trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều
kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó
người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy
chúng ta: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân
lý tuyệt vời. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết
chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp
dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn.
Thế nên Người dạy tiếp: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ
mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ
lại được cho sự sống đời đời”
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như
một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn
chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp
trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa
cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa
bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán,
vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã
tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa
Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất… nhưng họ đã lầm. Thay vì
huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và
thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập
giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng
chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài
chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ
5.
nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân
thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và
sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm
chứng cho Đức Ki-tô… Người đời tưởng rằng các ngài bị
thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong… nhưng họ có ngờ đâu,
các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh
phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống
Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến
khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã
tiên báo từ xưa: “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác.”
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm
trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm
chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân
cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân
phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như “hạt-lúa-Giêsu”, như
“hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo”, bằng lòng chấp nhận con đường
thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng…
Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi
với Chúa Giêsu như lời Người phán: “Ai phục vụ Thầy thì
hãy theo Thầy” để rồi “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng
6.
3. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
KHÔNG ĐI THEO ĐẠO YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU
LÀ BỎ ĐẠO
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường
bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới
đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ
dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết
không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không
chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành
hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị
khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có
người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay
trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và
xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm
và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng
trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh
giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường,
đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên
đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần
gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa
nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là
người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng:
7.
“Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu
thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái
Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào
Vương Quốc của Ngài: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc,
hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi
ngay từ thuở tạo thiên lập địa”; ai không sống theo luật yêu
thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ
những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan
Thiên Chúa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta
mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ
thần của nó” (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập
giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày
nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người,
là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo
yêu thương của Chúa Giêsu. Nói cụ thể: Trong đời sống
chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc
phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá
người khác… là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ
chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng
nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu
thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó,
hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
8.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục
con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ
ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ,
thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ
hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu
thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người
khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn
nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục
vụ những người chung quanh… là chúng ta đang đi theo đạo
yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo
đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa
Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng
vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con
cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các
ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi
theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày
đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của
chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu
thương của Chúa.
9.
4. Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang
về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời
cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn
không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến
chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi
được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt,
tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập
cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý
hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái
chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được:
“Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt
đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải
đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10). Thoạt nhìn, sự chết là một
thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm
bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn
đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào
nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân
phận cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh
cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà
Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình
ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ
vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-
tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng
ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Vâng, ai cũng
kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có
địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình thương nào
cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì
10.
bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã
dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta
lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết
cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán
của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo
tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn
ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng
sống ấy” (Lc 9,23-24). Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì
yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên
tất cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không
tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc
đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử
thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn
vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử
lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được
tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh
quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu
mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy,
anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh
quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu
độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống
đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ
Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc
tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo.
Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong
bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa. Lính gác nghiêm
nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều
11.
tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được
cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ
dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều
người lâm bệnh chết rũ tù. Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có
một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát
được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho
chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó là
việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy
đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên
phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt
cả bốn nhà giam các tín hữu. Người bị giam cố gắng thoát
ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con
thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại
cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người. Họ đã chết,
nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì không
ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở
hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-
mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài
quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương”
(Tv 63,4). Sống yêu thương có phải là chọn lựa của tôi?
12.
5. Sống chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
“Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Câu nói này tôi đã
nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những
người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ
là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng
tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống
đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại
tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô
hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo
của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến
nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì
cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn
xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt
hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn
bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ
đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán.
Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ
thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là
những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa
Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng
không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết
tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang
danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ
đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh
em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim
Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang
ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng
chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài
để cầu vinh.
13.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh
niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới
giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị
đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc
động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả
những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này,
thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu,
còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù,
sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương
và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ
bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội.
Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên,
nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng
Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón
nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm
hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến
Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời
này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các
ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại
vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã
xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo
trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như
thế tôi sẽ tha cho ông”. Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh
trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở
chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình
trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán
14.
nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm
tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm
tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là
đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo
bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi
chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta
bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ
trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không
ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó
những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha
nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm.
Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao
vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên
đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những
vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần
gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá
nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ
thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ
đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ
không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin
cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi
gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình
trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con
biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác
ái yêu thương. Amen.
15.
6. Không thuộc về thế gian.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ
thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu
mọi cực hình để nên giống Đức Kitô.” Đó là câu trả lời của
ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước
qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho
phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một
Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ. Ông không thấy có gì
xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo
Hội. Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị
kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình. Ông Hy đã
chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém,
ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần
gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên
đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho
đoạn Lời Chúa hôm nay. Người Kitô hữu có hai đầu dây cần
phải giữ. “Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng
sai họ đến trong thế gian” (Ga 17,18). Thế gian là nơi thánh
Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan,
là thứ dân… Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian
đó. Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì
đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở
thành người Kitô hữu trọn vẹn.
“Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về
thế gian” (Ga 17,16). Ở trong thế gian nhưng không thuộc về
thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế
16.
gian. Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,
nhưng họ có một thang giá trị riêng. Họ biết đâu là những giá
trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ
đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt
thế giới. Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không
được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất
thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ
một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu. Ơn
gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh, thế đứng
dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá. Tử đạo là cách làm chứng
tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng
khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm
mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái…
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất
mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc
phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có
quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái
khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho
Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng
thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
17.
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa
chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào
trong thế gian đó. Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi
vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài. Xin cho chúng con giữ được
bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác
động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế. Xin cho chúng con
đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các
vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho
chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên
giống Chúa. Amen.
18.
7. Sống chứng nhân.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử
đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng
can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin
Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển
thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng
ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng
cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi
gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức
Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải
sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta
sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm
sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng
dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu
nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư
chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với
chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến
mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng
với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt
Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng
ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh
tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các
ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi
trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người
hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những
điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi
cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì
thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu
cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp
bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo
cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
19.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn
tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy
rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã
dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí
công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ,
thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự
đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi
nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế
lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải
biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là
những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta
đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ
xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết
quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình
của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng
thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận
như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu
thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng
cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không
phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại
nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của
chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình
yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho
nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện
bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm
chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được
mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng
đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều
các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều
chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân
cho Đức Kitô.
20.
8. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng
lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để
kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa
đàng nó đã nói cùng Adam – Eva: “cứ ăn đi ngươi sẽ bằng
Thiên Chúa”. Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng satan để
chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ
vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm
kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay
lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng
khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa
tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó
những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối
thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm
hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng
chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn
là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân
khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần
gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là
con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết
trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến
cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình.
Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân.
Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự
sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó
chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình
trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm
làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các
thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ
21.
đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên
thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất
tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử
hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh
quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma
qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời
với quan quân: “Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt,
ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê
thật là nước thiên đàng vậy”. Thế nên, thánh nhân đã khuyên
nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự
khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý
Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm
chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời,
không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá
theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin #ức Mẹ
phù trợ cho được bền lòng đến cùng”.
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có
vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi
những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ
hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: “Chúng tôi chẳng muốn
bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây
không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua
để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành
lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua”. Riêng tại
Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: “Các
ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại
được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên
ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem
thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước
qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia
22.
đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều
người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm
thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên
Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng
trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng Lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát
bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn
cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên
nhủ cha rằng: “Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên
thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con
được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại”. Nhưng cha Lạc đã cấm họ
đem tiền chuộc, cha nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì
đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em
đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô,
khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và
được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát
khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như
thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa”.
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự
hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin,
nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ
những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha
ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc
trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những
con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái
đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng
như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán
mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi
luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà
rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba
gang mà “quạ đen ban tặng”. Vẫn còn đó những con người
23.
bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ
giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con,
xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ
chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi
thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc
sống hôm nay.
24.
9. Để làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời
của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra
trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18),
vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên
Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba
Ngôi. “Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh
em” để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối. Chết vì
Đạo là một cách làm chứng.
– Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không
bước qua thánh giá.
– Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: “Không có tình
yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn
hữu” (Ga 15,13)
– Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống
đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt
với Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Làm
chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta
lội ngược dòng với thế gian sa đọa. Các vị tử đạo thường bị
đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung
25.
sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn
vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước
chân, là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có
người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co
chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước
qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh
quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người
được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,
như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn
cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn
Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp
lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan
trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của
những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời
mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co
nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu
của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ
bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công
Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về
Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh
nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
26.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến
cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận
người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã
chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường
sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng
Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một
đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc
sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê
hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
27.
10. Truyền đạo.
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và
được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng.
Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ
đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa
Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo
chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức
tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là
những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng
sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam
hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách
thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng
những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng
không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân
thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam
đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống
được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một
trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái.
Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối
nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một
khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có
thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ
rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc
rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một
người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được
28.
mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin
trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca
tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy
phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái
lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết,
nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người
khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không
xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng
hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc
biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan,
nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp
nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi
như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị,
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều
người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho
hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con
người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức
Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết
vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của
mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã
chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn
giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong
chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở
Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước
đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi
29.
vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ
cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là
thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn
giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa
giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư
Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị
thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của
người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và
tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho
người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính
những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ,
ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục,
mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người
ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng
thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng
của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám
chết như vậy hay không?
30.
11. Sống vì đạo – ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất.
Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất
mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình,
phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa
muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa
không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình
vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong
đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những
thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung
thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý
hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh
hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta
phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật
chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta
chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh
thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có
câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời
này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu.
Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể
chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có
tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là
nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn
những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là
giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất.
Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi
31.
Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta
đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta,
Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành.
Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng
sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá
trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng
Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy
mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ
tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt
mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt
Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các
ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng
chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia
tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn
sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn.
Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc
đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn
sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự
sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can
đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn,
khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả
mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn
ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao
quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã
biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn.
Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những
mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối
32.
những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương
tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta
phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng
ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt
cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những
dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc
tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử
đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ
đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa
chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn
như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa
chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng
đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những
lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực. Chính những
lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta
tàn lụi hay phát triển?
2. Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có
thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác
thánh giá và chịu chết không?
3. Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có
đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa
không?
33.
12. Con đường hạt lúa – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang
toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại
các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài
nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu
dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ
lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm
cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải
đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy
mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn
trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh
Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong
những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong
những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng
mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu
ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một
chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300
năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo
khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới
thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo
Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã
bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín
hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả
một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương
tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị
34.
các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài
khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là
cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra
khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là
tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống
riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung
đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án
tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với
đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị
bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình.
Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân
ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có
đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao.
Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho
đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người
bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng
100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa
ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay
số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức
tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị
mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần
nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu
đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như
Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục
mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái
Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường
Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ
cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta
35.
tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi
qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả
vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua
mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một
mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt
chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn
cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế
kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta
điều gì?
2. Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3. Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
36.
13. Chứng nhân tình yêu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn
anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên
hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ
truyền giáo tại Việt Nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không
phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong
hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát
xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm
bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương.
Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu
không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những
dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin
của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín,
nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận
biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận
được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền
tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ
bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng
sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức
trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi
xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan.
Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm
với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình
yêu Chúa.
37.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu
mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong
những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh
Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống,
thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai,
hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ
một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra
khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu,
Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu
của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng
hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa.
Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả
hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu
của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải
một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả
những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá
trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một
cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung
thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung
trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu.
Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con
người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc
sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm
chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối
với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu
38.
mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh
nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường.
Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý
hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của
mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ
lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng
rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình
yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù
ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy
như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình
yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến
chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết
của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta
có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta
không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi
gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta
không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình
yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo
mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê
hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen.
39.
14. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng
kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
– Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam,
không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất
nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn
– Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh
Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được
xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các
Thánh.
– Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân
anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên
cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã
cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh
vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất
mạng sống vì đức tin.
– Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong
triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có
chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất
danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không
những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà
còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
– Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ
yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng
chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức
Giêsu Kitô.
– Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô
Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời
còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
40.
khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin
chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại
tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào
dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết
cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao
ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài.
Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo
như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng
chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị
tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm,
giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta
gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng
phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của
mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân.
Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của
bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta
kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn
trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ
người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta
càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến
người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo
hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh
càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua
quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau.
Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm,
41.
để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần
thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy
những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát
triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con
người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn
bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có
nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách
nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện,
tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang
làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo
muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin,
bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn
hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu
thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ
để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo
những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để
trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn
quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn
không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó
cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các
Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn
mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau.
Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo
42.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém
gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm
chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng
hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc
Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh
sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống
hằng ngày. Amen.
43.
15. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì
(Mt 10, 17-22)
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về
những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với
những bách hại này. “Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào,
vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì”. Sự
bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ,
bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi
bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù
nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau: “Nếu thế gian
ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét
Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế
gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không
thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các
con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy
nhớ lời Thầy dạy bảo: “Tôi tớ không trọng hơn chủ”. Nếu họ
đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con”.
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số
phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là
yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách
hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì
biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa,
sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách
hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như
cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem.
Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản
ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những
bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ
44.
hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa
cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể
ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi “đừng sợ” đến ba lần:
“Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất
mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật”. Trung thành với sự
thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả
cả bằng chính mạng sống mình.
Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ và đừng sợ
những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật
chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn”. Lý do sâu xa
của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là
quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh
hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn,
tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó
vững lòng tin tưởng vào Chúa.
Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ vì lý do các
con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng
chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì
huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên
Chúa chăm sóc cho hay sao”.
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên
Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu
thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều
hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
“Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn
nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời”. Đó là những
lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa,
45.
những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày
hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là
sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận
Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng
con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin
Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những
chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
46.
16. Can đảm nói không với tội lỗi – Lc 20, 27-38
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong
những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là
bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây
thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không
bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận
bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài
sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự
do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã
can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã
kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ
đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin. Cũng có những
vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá
để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao
tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một
thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không.
Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài
những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp
đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy
hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt
trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt,
chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì
(tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và
khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha
Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng
47.
trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi
gan… Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không:
không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải
chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình
man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử
đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước
những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài. Nhưng
chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới.
Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta
đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của
Người. Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta
hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư
tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu…
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải
tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài
toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước.
Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng
mình qua những mức thấp trước. Tương tự như thế, để có
thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc
đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta
nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho
nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng
Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các
ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho
dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để
mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và
chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
48.
17. Tử đạo hay sống đạo?
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành
công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện.
Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện,
hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm
nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta
càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông
của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào
để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình
chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng
và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua
chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ
thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều
Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị
bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã
ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều
phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo.,
hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là
thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội
đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và
ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có
những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau
khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì
lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho
tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm.
Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan
cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc,
49.
như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu
người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số
đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng
tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu
các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế,
Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng
vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các
Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi
gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống
lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi
canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn
khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng
đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm
mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém
một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế
nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ
là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có
những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo
là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa
Giêsu đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng
sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của
những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo
đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có
thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi
người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu
chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
50.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì
rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì
chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã
hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng
thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của
tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không
thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây
nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng
bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là
làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa
bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo
đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó
chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin.
Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ
vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để
làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những
điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta
đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy
sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác
sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và
từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng
ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi
sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta
bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của
51.
18. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm.
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê
Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để
mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt
Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày
Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ
Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng
vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua. Các thánh tử đạo là những
người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con
người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm
những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật
chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho
dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt
heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn
thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được
sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ
tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên
tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật
Chúa. Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do
ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình
yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người
mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời.
Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái
độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha,
người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và
tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu
mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
52.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những
người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của
những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên
người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo
là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà
nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài
chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi
các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng
bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động
hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu
Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu
thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ
cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là
Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên
Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc
gì với chúng ta nữa? Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa
đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên
Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên
Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên
Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được?
Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì
người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính
Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù
đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng
không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng
53.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an
tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh
sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh
sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp
chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung
thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”.
Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì
Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo
Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo
Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một
hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám
chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho
chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa
trong từng hành vi sống của mình. “Được lời lãi cả thế gian,
mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là
phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ
nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành
vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là
những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài
là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các
ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân
của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo
rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam
và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể
tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
54.
19. Những Đấng Bậc Anh Hùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm
1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999,
còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình,
chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó
với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.
Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con,
họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh
nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan
là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của
dân con Việt Nam hiện nay. Họ là những người “dường như”
không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận
đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp
nhận cái chết.
Họ là ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ
chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách
nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu?
Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ?
Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống
để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải
chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người
thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải
Không! Họ là những người cha người chồng người vợ, vô
cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những
người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng
dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông
minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến
55.
mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình
thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng
“tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ
chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn
chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể
chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?
Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã
làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng
manh. Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông
cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như”
không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý
hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả
mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa
là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên
tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải
“con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực
hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong
manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt,
như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì
khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các
ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các
ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên
Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên
Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài
bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng
Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc
anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông
56.
cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên
Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên
Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày
xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên
Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải
chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan
khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm
chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để
sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta
vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn phải hy sinh, phải chết “chính
con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên
Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước khi chia sẻ)
1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn hiểu sao về câu
này?
2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu
(đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt
Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn
thán phục của một trong các vị mà bạn biết).
57.
20. Anh em làm chứng cho Thầy.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm
1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà
Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê. Trước khi là một anh
hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. “Thân
mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính
người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách
dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.” Đó là lời khai của cô con gái
út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh
năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng
của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị
ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào
người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì
thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một
niềm lạc quan lạ lùng: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng
đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến
đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức
nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi
thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan “Hùm
Xám” tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên
vững của bà. Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo
phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh
Thần ở với bà.
58.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức
tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống
đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh
mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày
xưa. Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện
nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách
hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải
đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua
bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không
ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên
quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh
tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở
cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu?
(làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí
vui chơi…)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm
chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào
để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến
cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy
hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn
59.
sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang
phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài
đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu
các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong
một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm
chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì
ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và
cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu
thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công
cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
60.
21. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Lc. 9, 23-26
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ martuV, marturew (martus,
martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo
là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng
sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình
biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất
để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin
nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình
làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt
Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị
tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không
có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết
như các ngài đã biết. Không chắc rằng những người có
quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả
mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những
người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là
những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin
theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây
phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung
thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho
tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy
rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một
thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có
một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một
cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không
như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình,
bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!
61.
Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những
người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không
thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là
những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người,
ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với
Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với
những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các
vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu
thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia
sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài
bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên
Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống
trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi
thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt,
đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là
người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai
không muốn được sống gần những người thân yêu của
mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó,
các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi
các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà
những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các
ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân
yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền
với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà,
người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế
gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống
của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết
chết lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào
62.
đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực
của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của thân xác mà con người không thể
tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo
một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc
chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn
luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài
đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng
nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất
tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã
làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau
khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy
vọng tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu
phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều
phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại
trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng
cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người
phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân
phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn
xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn
luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật
chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã
chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù
chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi
để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng
phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người
được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả
63.
qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi sống
ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính
mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức
Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là
một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho
những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con
người cũng trở thành chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có
một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau
những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời
gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi
yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay
được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha anh,
những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam không? Tại sao
có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh
tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam.
Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn
tự hào vì điểm gì?
64.
22. Nhớ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Nguyễn Minh Triệu)
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh
tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của
mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào
hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng
ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của
các ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn
suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để lại. Qua đời
sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận
được một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời
chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối
cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh
hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần,
niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải
minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo
hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin
của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của
các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn
hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng
chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng
sống vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các
vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra
một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ
bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn
nữa, các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và
bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có tự do để chọn lựa.
Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể
chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử
đạo tự bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo
65.
đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức tin của chúng ta được
minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững tin
trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch
nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn
để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời
sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu
thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người.
Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết
trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài
không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình
và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại
mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các
ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính
trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã
trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của
Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân
phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng
buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu
thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái,
các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài
đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái.
Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn
không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới
chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta
chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ
máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và
phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu
bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh
hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được truyền thống đạo đức
66.
của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn còn nhiều
người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội
Việt Nam đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh
niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa.
Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh
hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài,
chính nhờ sự quảng đại của các ngài, chúng đã được lãnh
nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.
67.
23. “Đây Bài Ca Ngàn Trùng”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ
thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: “Đây
bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm
máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên
Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian
nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài
ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm
sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn
ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các
ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của
lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các
ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã
vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn
vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả
cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất
định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng
được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì
chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để
trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của
– Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc
phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
– Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay
trong đau đớn của cực hình.
– Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng
lời Thiên Chúa hơn là người ta.
68.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật
đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn
phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi
người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả
những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều
nói rằng: “Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở
lành, tối sớm kinh nguyện…”.
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các
ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng
cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành
quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài.
Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi
thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ
lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ
quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ”.
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như
trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình
Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc
nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với
ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông
từng nói với gia đình: “Bà và các con không đồng ý cho tôi
lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc
làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ “. Vì ông nói: “Tôi chưa thấy ai
hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh
chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao?
Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi
con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si
mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo
là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử
69.
đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của
luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là
con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca
ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm
đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc
và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử
đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu
Chúa. Amen.
70.
24. Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận
Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858,
ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị
cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã
có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên
vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn
lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng
dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử
đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng
khác của nhân loại. Thật vậy, các vị tử đạo không phải là
những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong
tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là
những con người không biết thù ghét, mà cũng không được
thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa
Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những
kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó
là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì
đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu
hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không
thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như
một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo
không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay
cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để
sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là
Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết.
Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin
71.
Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người,
thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo.
Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo
theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành
với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết
vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những
người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét,
không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ
đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử
đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản
bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những
người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được
phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui
nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm
nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín
hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm
cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng,
trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung
thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các
ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ
cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và
bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối
tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai
đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn
phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc,
nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
72.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng
ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với
những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong
cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và
lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do
tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có
thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu
hiệu và tốt đẹp biết bao.
73.
25. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt
Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam.
Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những
kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên.
Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm
1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu
tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được
chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống
Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân
yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn
hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính
mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là
“làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp
người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết
đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết
không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm
chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối,
và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái
chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa
phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh
cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân
Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các
ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội
Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu
nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin
mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật
quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời
74.
sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng
cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay
trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa,
sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm
một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ:
“Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được
sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân
Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với
Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc
sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ
tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng
giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ
được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa
làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà
cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin
mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ
đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua.
Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như
không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng
trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có
nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người
được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh
Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng
sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin
Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt.
Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một
tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý
chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm
sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
75.
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng
đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này
bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn
Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan
tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn
Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc
Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách
thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua
Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay
tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống
đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một
chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên
của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn
lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải
nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta
lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi
tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người
chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây
dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ
niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin
mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận
khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó
còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày
của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ
bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên
trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh
vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau.
Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên
trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước
một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập
lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn
76.
đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng
ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa
một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của
mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng
cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn
tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho
lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể
không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa,
nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng
trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền
hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay,
một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời
gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam
và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em
và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó,
vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với
cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ
Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy
cũng sẽ ở đó”. Amen.
77.
26. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con
người đã dám chết. Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta
thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng
sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm
cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình.
Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn,
những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người
bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp
thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm
chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn
để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì
lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh
tồn. Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh
tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá
trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn
nhiều. Thí dụ:
– Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt
trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì
không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ
nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai
mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình,
lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được
– Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm
hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương.
Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản
– Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin
trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều
đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng
ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách
dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với
78.
quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do,
hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu
bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một
lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta
khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các
ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết
của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống
không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng
sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo
một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống,
lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng
của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu
bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không
cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành
với lý tưởng cao đẹp của mình. Một trong những điều tệ hại
hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các
thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết
tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui
chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi
đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống
mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ
ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến
những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc
bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du
nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của
các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ
là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý
tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự
trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều
mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có
79.
Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám
chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết
của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin
rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các
ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa.
Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ
nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ
cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là
các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không
phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị
vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta
đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói
chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật
nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói
năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy
anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì
để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã
hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt
với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời
nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các
bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu
đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta
đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi
chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử
tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ
đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ
nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ
sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài
thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy
cuộc sống vĩnh cửu.
80.
27. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được
nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn
tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều
đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu
giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến
nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu.
Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người
thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được
ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người
thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho
thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu
đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng
đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục
biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia
người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê
Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám
cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để
nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính
dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa
dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha
Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ
tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính
gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên
đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha
thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu
danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực
chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh
biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được
Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm
chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút
81.
lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý
đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một
người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa
xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ,
máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau
ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói
lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi
xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một
thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh.
(theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến
cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế
nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh
hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo
của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến
pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín
ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác,
các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật
hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử
đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho
quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ,
bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn
sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh
mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại
có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là
“những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo
82.
Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có
những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những
người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các
trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử
Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai
vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu
Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại
Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một
thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô,
như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm
1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là
Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị
chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc.
Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm
dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên
Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong
ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta
không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh
nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính
mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho
chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn
Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài
ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã
ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì
chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến
Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ.
Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải
chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24).
Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân
83.
thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét
Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là
cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng
sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để
mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô
để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã
nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức
tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống
đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh
mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những
chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử
Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức
tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra
những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta
cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã
được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì
chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em
đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
84.
28. Làm chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn
thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ
làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng.
Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất
nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng
năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt
Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này
qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì
chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách
hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn
anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy
nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp
nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp
cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy
nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân
phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các
ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn
kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho
chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các
ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng
luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa
lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn
mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống
sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài
sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó
cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là
những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử
đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để
85.
bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình
khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng
lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý
và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những
nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của
các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai
còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống
nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng
ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được
chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay,
chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu
cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến
công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và
ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng
nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn
mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng
gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài
học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì
với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa
và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo
thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm
hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có
thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái
gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa,
tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến
giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo
tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt
chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua
86.
chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung
thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung
thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là
tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm
phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau
khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết.
Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở
lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được
những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp,
xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì,
bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã
thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần
gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài
đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những
kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn
giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời
ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết
nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những
hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho
chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài,
chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa
ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho
Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm
vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và
bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm
chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu
thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa
87.
có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo
chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh
thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người
chung quanh.
88.
29. Tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội
cho muôn người. Cách đây hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã
chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên
thập giá để đền tội cho nhân loại. Thế nhưng, trong những
thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi
nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ
ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau
thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời
vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục chịu
khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian. Như thế, cuộc
khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu
không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều
thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được
tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua
suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều
nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời
đại cho tới khi Ngài lại đến.”
Chúa Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế
Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần
phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều
người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa
Giêsu kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình
Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài
từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24)
89.
Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và
hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi đầu là máu của
các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-
bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên
khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm
bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của
các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia,
nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm
Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời
điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự
Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua
cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên
ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập
giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là
trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841),
Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn
Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào
cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được
tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý công giáo số
1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của
Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng
ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn
thân.” (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và
sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là
Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là
những bậc tổ tiên của chúng ta.
90.
Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực
hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh
tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời
gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách
chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn
phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền
bạc… để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần
đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.
Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các
anh hùng tử đạo Việt Nam.
Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình
Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày
tận thế để đền tội muôn dân.
91.
30. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về
Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không
chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh
dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua
Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô
Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của
Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình
yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì
bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh
cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông
của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát
của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có
một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt
bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết
cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực
hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến
thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin
Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn
hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt
đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong
trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi
thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là
để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc
sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy:
cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái
92.
chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của
Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có
được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập
giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo
Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được
thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ
chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa.
Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì
niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành
sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì
nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh
muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt
Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng
đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của
lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ…
nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn
ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà
còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là
lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của
mình và của cộng đoàn. Ở đấng bậc nào trong Giáo Hội,
trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện,
phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước
93.
qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi
trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man
rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá.
Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu
không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay
có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin
và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi
chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và
những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa,
chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo
đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước
qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư
danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa,
đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa
Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng
đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên
Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình,
khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng
ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh
thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm
gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn
cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt
đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại
94.
gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được
sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc
bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền,
cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong
cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem
như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo
tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ. Cũng
vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá
cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu
bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một
đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không
còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc
đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính
tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp
thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được
lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên
Chúa là một bức họa không hơn.
– Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo
làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà
thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các
tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn
– Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để
không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón
nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách
nguy hiểm vô cùng.
– Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc
đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ
sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về
giáo dục không Thiên Chúa.
95.
– Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là
các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một
cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết
bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã
chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào
để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không
những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên
Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của
Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
– Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc
những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng
những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch
vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu
các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo
hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh
như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của
cả một thế hệ.
– Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách
đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự
rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến
các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân
cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách
vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ
không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là
những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm
tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng
Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn
vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của
Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào
Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô,
Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm
chứng cho Thiên Chúa.
96.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người
chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải
luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong
toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn
trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức
Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là
những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc.
Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không
được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách
tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên
Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa
theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không
Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá
Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta
và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi
Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các
Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người
đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì
con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa
chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người
phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng
của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước
qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, Giáo Hội lữ hành, và đặc biệt Giáo Hội Việt Nam
chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ
trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các
tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo
97.
của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo
hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng
theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm
mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc
hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay
và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu
mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con
trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho
mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
98.
31. Những tên lý hình thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức
Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên cường của
Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của
các Thánh Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu
của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ
sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn,
chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo
hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn
bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn
dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo,
lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta,
“những tên lý hình thời đại” với cách bức bách Đức Tin của
ta còn kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn
yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm
quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo
Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới:
Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để
cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong
máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm,
đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên”, họ
cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời
bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ
tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn
bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ
99.
nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo
đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho
xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và
yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng
ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề
bộn những chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo
mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng
thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
– Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không
chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học
không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác
sinh…như “Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có
đứa nào, dạy cho tao nói”.
– Các em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi không
theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ
xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử –
nhưng sinh con thật – giết người thật.
– Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống
kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn
định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương
quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì
chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và
tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
– Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là
của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu
ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về
đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ
sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn….
Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình
công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào
trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
100.
– Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không
cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa
nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công
giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu,
khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc
tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
– Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là
chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ
tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh
máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi
cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các
tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn
sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…
– Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ
Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành
lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức
gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong
phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi
của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử
trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người
hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ
thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí
mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các
Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi
trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù
hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc
bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu
ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-
mọi-người, viết:
101.
– Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi
nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay.
Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà
giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
– Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi
ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa
chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì? “ … Tôi đến
để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể
không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên
lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào! Phải khiêm tốn
mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có
bạn, đã không bước qua thập giá của những tên lý hình thời
đại ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và
quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn
đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng,
người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một
cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ…
đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm
dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì
thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen
rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh
vọng, của quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và …
rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu. Bỗng dưng, chính
ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta
và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”, “không
Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến
nhiều người. Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng
lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng
lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
102.